Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
vĩ mô rất hay và đặc sắc kể về cuộc đời cực khổ của người con gái hồng nhan mà bạc phận chính là kiểu
vì do bé thu chỉ thấy đc cha qua tấm ảnh cưới chụp chung với mẹ nên bé thu luuon nghĩ rằng người mà ko có vết sẹo đó là cha của mình nên 1 mực yêu thương người đó. đến lúc nhận ra ông sáu là người cha của mình có vết sẹo là do quân địch tạo ra thì tình cha con mới trỗi dậy , từ ''ba'' mà bé thu muốn dành cho ông sáu đã đè nén 8 năm đã đc bé thu nói lên
Người kể chuyện nói đó là tiếng "ba'' mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay vì: mọi hành động của bé Thu lúc này đều gấp gáp, dồn dập, cuốn hút vì tình cảm bấy lâu bị dồn nén nay đã bộc lộ ra mạnh mẽ. Qua biểu hiện của bé Thu, ta cảm nhận rõ tình cảm sâu sắc nhưng dứt khoát của bé Thu. Tất cả mọi hành động của em đều xuất phát từ tình cảm yêu thương chân thành.
Em tham khảo nhé:
Chữ "Tâm" mà Nguyễn Du nói đến là tấm lòng của người nghệ sĩ đối với con người, với cuộc đời. ( Người nghệ sĩ nhận thức cuộc sống, trăn trở, cảm thấy cuộc đời thôi thúc mình cầm bút viết ra những suy nghĩ, nỗi niềm, và khi ấy, người nghệ sĩ đã đặt vào trang viết của mình cả trái tim, cả tấm lòng ...)Cái tâm được biểu hiện rất nhiều khía cạnh: thái độ trân trọng, đề cao giá trị con người; đó là nỗi trăn trở, đau đáu, khắc khoải trước nhân tình thế thái; đó là sự đồng cảm, xót thương cho những kiếp đời bất hạnh; đó là niềm mong ước một cuộc sống tốt đẹp cho con người ...Cái tâm của người nghệ sĩ chính là điều góp phần tạo nên giá trị nhân văn lớn lao cho một tác phẩm .Câu thơ của Nguyễn Du còn khẳng định cái tài của nhà văn, nhà thơ là rất đáng trân trọng, nhưng cái tâm vẫn nên đặt cao hơn cái tài.Trong Truyện Kiều, cái tâm của Nguyễn Du được thể hiện sâu sắc, thấm thía. Cái tâm ấy đã góp phần tạo nên giá trị nhân đạo cao cả của tác phẩm và làm nên tầm vóc vĩ đại của Nguyễn Du.
Đoạn trích được chia làm 2 phần:
- 12 câu đầu : Thúy Kiều báo ân
- 22 câu còn lại: Thúy Kiều báo oan
Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sống êm ấm cùng cha mẹ và 2 em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong buổi du xuân, Kiều gặp Kim Trọng, thề nguyền đính ước với nhau.
Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, Kiều phải bán mình chuộc cha. Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa đẩy vào lầu xanh, được Thúc Sinh cúư khỏi lầu xanh nhưng bị Hoạn Thư ghen, Kiều phải trốn đi nương náu ở chùa Giác Duyên. Vô tình Kiều lại rơi vào tay Bạc Hạnh, Bạc Bà phải vào lầu xanh lần thứ 2. Kiều gặp Từ Hải. Từ Hải lấy Kiều làm vợ, giúp Kiều báo ân báo oán. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết. Kiều bị bắt ép gả cho tên thổ quan. Nàng tủi nhục trầm mình ở sông Tiền Đường, Được sư Giác Duyên cứu, nương nhờ cửa Phật lần thứ 2.
Kim Trọng trở lại, kết duyên với Thúy Vân nhưng vẫn đi tìm Kiều. Nhờ sư Giác Duyên, Kim-Kiều gặp nhau, gia đình đoàn tụ. Kim gặp Kiều đổi tình yêu thành tình bạn.
Bạn tham khảo:
Đoạn trích "chị em thúy kiều" nằm ở phần đầu của tác phẩm truyện kiều.Ở đây tác giả nói về hai chị em , mỗi người đều mang một vẻ đẹp riêng .Thúy vân với vẻ đẹp đoan trang ,phúc hậu như dự báo tương lai sẽ có một cuộc sống êm đềm.Còn Thúy kiều với một vẻ đẹp sắc sảo cùng tài năng hiếm có khiến cho thiên nhiên phải gen ,hờn. Cuộc sống sau này của kiều sẽ gặp những khó khăn ,trắc trở
Truyện Kiều trước hết và chủ yếu là một tiếng kêu thương, tiếng kêu đứt ruột cho một mà cũng là cho mọi số kiếp bị đọa đày. Chủ đề "hồng nhan bạc mệnh" ta đã từng gặp và đã quen gặp không chỉ trong văn học trung đại nước ta mà cả ở văn học phương Đông, đặc biệt là văn học Trung Quốc. Vậy thì có gì mới ở nội dung của tiếng kêu thương ? Thật ra, ngay từ Văn tế thập loại chúng sinh, khi khóc thương cho bao nhiêu cuộc đời bất hạnh, tuy không thể dừng lâu trước một hệ thống nạn nhân, nhà thơ đã lưu ý người đọc về một hạng người - hạng người "buôn nguyệt bán hoa". Cũng như với các hạng người khác, Nguyễn Du có tiếng khóc riêng ; nhưng tiếng khóc về hạng người "nhỡ nhàng một kiếp" trong sự xót tủi có cái cay đắng đến ngỡ ngàng.
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai ?
Về hạng người này, một lần nữa Nguyễn Du đã tái hiện trong Truyện Kiều khi nói về nấm mộ của một nàng ca kĩ : Đạm Tiên. Oan hồn của hạng người ấy cứ trở đi trở lại bao lần với một câu hỏi không có lời giải đáp. Dự cảm xót xa ấy không loại trừ một ai, kể cả Thuý Kiều trước cả khi nàng gặp nấm mồ vô chủ. Điều ấy gửi vào cung đàn có tên là "Bạc mệnh". Lần đầu tiên nghe tiếng đàn ấy, Kim Trọng không hiểu : "Rằng hay thì thật là hay. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!". Mười năm sau, Kiều đã giải thích cho chàng, nhưng cách giải thích thưc chất cũng mơ hồ như một cảm nhận chủ quan, khi : "Nàng rằng : vì chút nghề chơi. Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu". Hình như, có một sợi dây xuyên suốt nối liền các cuộc đời hồng nhan sau trước. Vậy thì tại sao như thế, vì sao lại "Đau đớn thay phận đàn bà. Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?". Có thể nói, Nguyễn Du đã không giải thích được điều oan nghiệt này( "Cổ kim hận sự thiên nan vấn" - Độc Tiểu Thanh kí), nhưng về trực giác, ông đã nhận ra quy luật phũ phàng đã và còn đang tác động lên từng con người cụ thể. Con người ấy là nàng Kiều. Kiều đại diện cho cái đẹp toàn vẹn, cái đẹp tối đa, trước hết là nhan sắc. Để khắc hoạ chân dung này, dù là với bút pháp ước lệ chứ chưa phải là tả thực, nhà thơ đã để lại nhiều ấn tượng sâu đằm trong tâm trí chúng ta. Một phương diện khắc hoạ này là nhà thơ đã đưa Thuý Vân ra làm đối sánh. Nhan sắc của Vân nếu đẹp thì cũng chỉ ở mức "khả ái" đáng yêu, còn ở Thuý Kiều dứt khoát là hơn Vân một bậc. Liễu phải hờn giận, hoa phải ghen ghét, cái đẹp "tót vời" tạo ra bao nhiêu đố kị. Có nhan sắc đã quý, thêm tài năng, nhan sắc càng lộng lẫy, kiêu sa. Sắc và tài ấy chung quy cũng là cái tình. Sự "sắc sảo mặn mà" của Kiều là cái tình đời luôn dào dạt, thiết tha, luôn quan tâm đến mọi buồn vui của con người và cuộc sống. Trước một nấm mồ vô chủ, mọi người đi qua nhưng Kiều dừng lại. Không chỉ hỏi han, nàng còn nhỏ lệ. Khóc người mà thương mình, thương người như thương mình, sự chân thành ấy đã động thấu đến người nằm dưới mộ. Đạm Tiên dù sao cũng là một người xa lạ, mà tình cảm của Kiều còn thế nói gì đến cha và em. Nếu chỉ vì hiếu, nghĩa, Kiều chưa hẳn đã bán mình. Sức mạnh khiến nàng kiên quyết và chủ động "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha" phải là một tình thương. Tình thương ấy lên tới đỉnh cao : thương người hơn thương mình mới dám hành động như thế. Rồi sau đó, trong mười lăm năm lưu lạc, bao nhiêu lần Kiều nhớ nhà là bấy nhiêu lần nỗi nhớ đi liền với niềm thương cứ trào lên khiến người đọc chúng ta không dễ cầm nước mắt. Nhưng rốt cuộc,tài và tình ấy, bông hoa vô giá của cuộc đời ấy lại chính là nguyên nhân tiền định dẫn đến nỗi "kì oan" là có tên trong sổ đoạn trường. Sở dĩ Thuý Kiều bị đày đoạ, theo nhà sư Tam Hợp thì:
Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Hoá ra tài sắc là vô duyên, tình là tội lỗi. Xã hội cũ đã không chấp nhận sự thái quá, sự hoàn chỉnh trong cá tính con người, nhất là con người có ý thức và tự nhận thức được bản thân. Kiều phải nhận lấy biết bao oan ức xót xa cũng vì lẽ đó : tình yêu tưởng như đã cầm nắm được trong tay bỗng nhiên bị cướp mất; muốn được sống trong trinh bạch nhưng phải tiếp khách làng chơi ; vế với Thúc Sinh thì bị Hoạn Thư hành hạ ; gắn bó với Từ Hải thì bị Hồ Tôn Hiến đánh lừa. Có đến hai lần Kiều muốn quyên sinh nhưng lại không sao chết được, đau đớn như phận con kiến bò trong chảo nóng, muốn thoát ra mà không có cách nào thoát được. Kiều bị hành hạ bởi nỗi đau gặm nhấm suốt đoạn đời lưu lạc. Kiều đã không còn là mình. Nói cho thật đúng thì cũng có lúc Kiều được đối diện với chính mình nhưng thật hiếm hoi và cũng thật thấm thía. Ví dụ ở chốn lầu xanh lần thứ nhất :
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Sau mười lăm năm, khi đã sum họp với gia đình, đoàn tụ với chàng Kim, mỗi khi phải nhắc đến , nàng không khỏi "giật mình" mà "xót xa" cho thân phận không chỉ một lần. Đó cũng là một cách tổng kết cuộc đời thông qua chiêm nghiệm bản thân. Đó là một cách tổng kết sâu sắc nhất, thuyết phục nhất.