Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
2. * Giáo dục và văn hoá - Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long. Năm 1075, mở khoa thi đầu tiên để tuyển chọn quan lại. Nhà nước quan tâm đến giáo dục, khoa cử. Năm 1076, mở Quốc tử giám - trường đại học đầu tiên của nước ta. Chế độ thi cử chưa đi vào nền nếp và quy củ. Việc xây dựng Văn Miếu và Quốc tử giám đánh dấu sự ra đời của nền giáo dục Đại Việt. - Văn học chữ Hán bước đầu phát triển. -Các vua Lý rất sùng đạo Phật, khắp nơi đều dựng chùa, tỏ tượng, đúc chuông... - Hoạt động ca hát. nhảy múa, trò chơi dân gian, kiến trúc, điêu khắc... đều phát triển, với phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt, tiêu biểu là chùa Một Cột, tượng Phật A-di-đà, hình rồng thời Lý. - Kiến trúc rất phát triển, tiêu biểu là tháp Báo Thiên, chùa Một Cột... - Nghệ thuật tinh xảo, thanh thoát, tiêu biểu là rồng thời Lý... Những thành tựu về văn hoá, nghệ thuật đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn hoá riêng biệt của dân tộc — Vân hoá Thăng Long.
1. - Khác nhau : Thời Lý - Trần, tầng lớp quý tộc vương hầu rất đông đảo, nắm mọi quyền lực, tầng lớp nông nô nô tì có số lượng lớn, rất đông đảo trong xã hội.
- Giống nhau : giai cấp thống trị và giai cấp bị trị với các tầng lớp quý tộc, địa chủ tư hữu (giai cấp thống trị), nông dân, thợ thủ công, thương nhân, nô tì. - Khác nhau : Thời Lý - Trần, tầng lớp quý tộc vương hầu rất đông đảo, nắm mọi quyền lực, tầng lớp nông nô nô tì có số lượng lớn, rất đông đảo trong xã hội. Thời Lê sơ, tầng lớp nông nô không còn, nô tì giảm dần về số lượng và được căn bản giải phóng vào cuối thời Lê sơ, tầng lớp địa chủ tư hữu phát triển rất mạnh.
Tham khảo
Trong cuộc đời mình tôi đã gặp nhiều lần đề văn: suy nghĩ của anh (chị) về người thân yêu nhất. Trong khi bạn bè còn băn khoăn không biết nên viết về ai, về bà, về mẹ, về bố hay về ông thì tôi lại không hề do dự trong lựa chọn của mình: tôi làm gì có nhiều lựa chọn như thế? Đời tôi chỉ có mẹ, tất cả những yêu thương cuộc đời dành cho tôi đều được hiện hữu bằng tình cảm của người phủ bóng xuống đời tôi. Với tôi, mẹ là nguồn sống, lẽ sống, là niềm tôn kính, là ước mơ để tôi vươn tới.
Đời mẹ tôi đã vất vả nhiều. Không phải ngẫu nhiên tôi nói người thân yêu nhất với tôi chỉ có mẹ. Tôi lớn lên xung quanh chỉ có mẹ và ngôi nhà của mẹ. Vậy thôi. Ông bà tôi người còn người mất, nhưng những lúc tôi ốm đau, ngày đầu tiên tôi đi học và vô vàn những ngày trọng đại khác của đời mình đôi mắt non nớt của tôi chỉ in bóng hình gầy gò, xương xương của một mình mẹ. Dáng hình bé nhỏ ấy bao nhiêu năm nay từ ngày tôi còn bé xíu cho đến khi trở thành một cô bé lớp 10 dường như vẫn không hề thay đổi. Điều ấy với tôi quan trọng lắm vì ngày bé, mỗi khi mẹ về muộn tôi lại chạy ra đường cái ngóng mẹ về. Khi nào nhìn thấy dáng vẻ quen thuộc của người gò mình trên chiếc xe đạp cũ kĩ chống chọi với cái hun hút của gió mùa đông bắc mặt tôi mới nở nang ra được chút xíu, không còn cau có, lo âu. Giờ đây, mỗi lần đi học về, đạp xe qua cánh đồng làng, thấy dáng mẹ lom khom cày cuốc tôi lại sung sướng nhìn đường sau trước, rẽ ào xe sang đường chạy về phía mẹ đợi người cùng về. Tôi tự hỏi tại sao cái dáng vẻ ấy sau bao năm không hề thay đổi? Cuộc sống gia đình có khác trước nhờ những đổi thay chung của xã hội nhưng so với xóm làng vẫn còn khó khăn, vất vả. Mẹ không trẻ lại nhưng cũng không mỏi mòn, hao gầy đi bao nhiêu. Đã có lần tôi ngây ngô thắc mắc với mẹ điều ấy. Người cười cười giễu cợt hỏi tôi: Vậy con mong mẹ già đi sao? Đùa tôi một chút rồi mẹ xúc động thủ thỉ với tôi: ngày xưa mẹ gầy gò, vất vả vì một mình nuôi con bé; bây giờ dù cuộc sống vẫn khó khăn, thời gian chuyển dời nhưng mỗi ngày thấy con một lớn một khôn mẹ lại thấy sung sướng, vui vẻ, con chính là liều thuốc hoàn xuân cho mẹ. Tôi không nói gì, chỉ im lặng rưng rưng và thấy mắt mình nhoè ướt.
Tôi nhớ có một lần, khi ấy tôi học cấp một, bài tập đọc của tôi có tên là “Bàn tay mẹ”. Tôi còn nhớ như in những câu văn trong bài tập đọc ấy: “Bàn tay mẹ thô ráp, gầy gầy, xương xương”. Và cũng mới gần đây thôi, tôi đọc một câu chuyện về cách tuyển nhân viên của một giám đốc. Người giám đốc hỏi ứng viên xem đã bao giờ anh ta rửa chân cho mẹ chưa và đề nghị người ứng viên trở về làm điều ấy rồi hãy đến xin việc. Người ứng viên trở về xin được rửa đôi chân của mẹ và anh ta đã bật khóc khi nhìn thấy đôi chân đen đúa, xương gầy vì bao năm trầy trật với đất đồng, sương gió. Tình yêu thương dành cho những người thân yêu nhất là cơ sở để con người biết yêu thương những điều khác quanh mình trong đó có công việc. Tôi xúc động vô cùng trước những mẩu chuyện như thế. Và ngay từ những ngày nhỏ tôi đã luôn ngắm nhìn mẹ từ làn da nâu vàng mỗi năm thêm nhửng vết nám sậm màu, mái tóc mỏng đi xơ váng, đôi tay khô lại xương xương đến đôi bàn chân thâm đen vì nhựa cỏ. Dáng hình người toát lên sự lam lũ, tảo tần và ấp ủ một tình yêu thương khôn nguôi dành cho con cái.
Tôi lớn lên trong tình mẹ dạt dào như thế. Mẹ nói tôi là lẽ sống của mẹ nhưng có một sự thật là ngược lại như vậy nữa. Mẹ cũng là lẽ sống của đời tôi. Có một người mẹ như thế, thật là nhẫn tâm nếu ai đó không biết cố gắng để vươn lên, để những tình cảm dạt dào của người cứ mỏi mòn không biết đâu là bến bờ mà dội tràn thấm ướt…
Cảm động vô bờ về tình mẹ, yêu thương người khôn nguôi nhưng tôi còn tự hào và khâm phục về mẹ nữa. Cuộc sống vất vả là thế nhưng mẹ luôn lạc quan tươi cười (về điều này mẹ cũng nói với tôi rằng tôi chính là cơ sở để mẹ lạc quan, tôi khôn lớn trưởng thành là đền đáp xứng đáng nhất mẹ nhận được sau những nỗ lực của mình). Tình yêu thương dồn lại cho tôi, cơm áo gạo tiền phải chật vật, vất vả lắm mới gom góp được nhưng chưa bao giờ mẹ chối từ giúp đỡ một ai. Với hàng xóm láng giềng mẹ tôi sống vui vẻ và hoà hợp rất mực. Tôi biết mẹ có những người hàng xóm tuyệt vời và bản thân người cũng là một người hàng xóm tốt của những người xung quanh. Nửa đêm tối tăm rét mướt, đang nằm trong chăn ấm nhưng nếu hàng xóm có chuyện mẹ sẵn sàng bật dậy sang giúp. Lại nữa, vụ mùa bận rộn, dù việc nhà có “ngập đầu” (câu nói mẹ và các cô bác hàng xóm thường dùng!) nhưng nếu có ai nhờ mẹ vẫn tranh thủ làm đồng giúp mọi người,…
Mẹ tôi là thế. Bao năm qua không hề thay đổi. Người trở thành một biểu tượng vững vàng của tình yêu thương và nhân cách để tôi yêu thương, khâm phục, tự hào và tôn thờ.
Tôi yêu ngôi trường của tôi-nơi từng bài ca ngân lên trong gió.Nơi những hàng cây Phượng đung đưa trong nắng hè rực lửa lên những ngọn đuốc hồng lung linh giữa bầu trời trong sáng. Ngôi trường ấy bao dung,hiền hòa như người mẹ dìu dắt ấm êm tôi lớn lên từ những bước chân còn chập chững.Nó mở ra cả hàng ngàn con đường mới mẻ chờ đón chúng tôi phía trước.Luôn yêu thương tôi ,nắn nót từng nét chữ thơ.Và giờ đây khi tôi lớn lên ngôi trường ấy vẫn còn rung động, còn mãi trong tim tôi.
Nhân hóa:Nó mở ra cả hàng ngàn con đường mới mẻ chờ đón chúng tôi phía trước.
Ẩn dụ: ngọn đuốc hồng(hình thức)
minhf trả lời rùi nhé nếu thấy k đc chỗ nà thì bạn sửa luôn trong bài nhé bích ngọc
Bài làm
Lớp của em là tập thể có tinh thần học tập rất hăng hái. Từ lớp trưởng, lớp phó cho đến những bạn học sinh khác đều chăm chỉ làm bài tập về nhà và chuẩn bị bài mới. Tan học, chúng em tự giác học bài cũ, hoàn thành bài tập thầy cô giáo đã giao. Sau đó, chúng em chuẩn bị bài mới, soạn sách vở cho buổi học ngày mai. Nhờ phương pháp này, từ đầu kì I cho đến bây giờ, lớp em luôn xếp số 1 về học tập và nề nếp của trường, được các thầy cô giáo khen ngợi. Cô giáo chủ nhiệm và các bậc phụ huynh đều vui mừng, phấn khởi vì tinh thần học tập hăng say của lớp em. Qua đây, em muốn nhắn nhủ với các bạn học sinh một điều nho nhỏ: Để đạt được kết quả cao, mỗi người cần kiên trì, cố gắng học tập và thực hành. Mỗi ngày học một lượng kiến thức, ắt sẽ có ngày thành công!
Trong cuộc đời của mỗi con người ai cũng mong muốn sau này lớn lên sẽ trở thành một con người có ích trong xã hội, đặc biệt trong thời đại mà xã hội ta đang trên con đường đổi mới theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đất nước có thể theo kịp các nước khác chúng ta phải có nhiều nhân tài. Và đối với thế hệ học sinh, nhiệm vụ học tập là vô cùng quan trọng vì họ chính là người chủ tương lai đất nước, họ phải là những con người có tri thức có trình độ mới có thể làm tốt vai trò quan trọng của mình sau này. Về ý thức học tập Lênin có một câu nói rất nổi tiếng “Học, học nữa, học mãi”.
Để hiểu nội dung của lời khuyên này trước hết chúng ta cần hiểu học là gì? Học là một quá trình thu nhận, tích lũy kiến thức, kĩ năng để giúp cho bản thân có thêm hiểu biết về trình độ khoa học, kĩ thuật. Học là một khái niệm rất rộng chứ không phải bó hẹp trong phạm vi ngôi trường mà ngay từ nhỏ khi sống giữa vòng tay yêu thương của cha mẹ, ông bà chúng ta đã được dạy dỗ từ cách ăn nói, ứng xử, đi đứng đối xử với người trên với bạn bè. Thế rồi khi đến trường chúng ta lại được các thầy cô dạy kiến thức về khoa học về xã hội, và dưới bàn tay chăm sóc Ân cần của các thầy cô giáo ta còn được học cả rèn luyện cả về đạo đức. Và khi đi ra ngoài xã hội ta còn được học hỏi qua bạn bè, qua những người xung quanh mình, rồi còn qua các thông tin đại chúng như đài báo sách vở… Song có một điều chúng ta cần chú ý là phải học toàn diện tránh tình trạng hỏi về bất cứ vấn đề về tự nhiên thì đều biết còn hỏi về các vấn đề xã hội thì chẳng biết gì.
“Học nữa” là học hết trình độ này chúng ta phải chuyển sang trình độ khác, từ dễ đến khó, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng. Việc học không bao giờ được ngừng nghỉ mà là một mạch nối tiếp nhau và không ngừng nâng cao để ta có cơ hội trau dồi tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Mỗi lần nâng lên một mức học con người sẽ trưởng thành và vững chắc thêm một bước về tri thức và trình độ và đó là thứ hành trang quý giá giúp con người tự tin khi bước vào cuộc sống tự lập sau này và quan trọng nhất là có tri thức trí tuệ để có thể vận dụng tốt vào công việc và có thể sáng tạo ra những công trình khoa học, góp phần xây dựng quê hương thêm giàu đẹp.
Còn “học mãi” là học liên tục, học không ngừng nghỉ suốt đời, luôn nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Học mãi để tạo thành thói quen ham học hỏi, say mê với khoa học. Và việc học phải được liên tục không bị hạn chế bởi tuổi tác. Khi ta còn trẻ việc học tập là đương nhiên thế nhưng khi ta càng cao tuổi thì việc học không vì thế mà ngưng trệ, mà ta cũng cần chăm chỉ học hỏi hơn nữa bằng cách tự học, nghiên cứu qua sách vở. Như vậy việc học là vô tận vừa học vừa làm vô cùng có lợi bởi quá trình làm việc sẽ giúp ta hiểu được mình còn thiếu kiến thức gì và việc học sẽ bổ sung cho ta. Như vậy câu nói rất đơn giản của Lênin đã cho ta thấy cần phải học như thế nào mới giúp ta trở thành con người hoàn thiện, một người có tri thức.
Vậy vì sao chúng ta phải hiểu như vậy? Trước hết việc ta học tập tốt sẽ có lợi cho chính bản thân ta, bởi nếu ta không học sau này ta sẽ không thể làm tốt công việc được. Kết quả công việc sẽ không được tốt đẹp như ta mong muốn và chúng ta sẽ không thể nuôi sống bản thân mình, không thể giúp được gia đình công như không thực hiện được nghĩa vụ cao cả của đất nước; là người làm chủ tương lai đất nước. Bác Hồ đã từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không chính là nhờ một phần công lao học tập của các cháu”. Đúng như vậy nếu chúng ta không học tập thì cả thế hệ trẻ sẽ chẳng có ai tài giỏi để giúp cho đất nước tiến lên, vì thế việc học tập là vô cùng cần thiết và hơn thế còn là trách nhiệm đối với mỗi người học sinh chúng ta để đưa đất nước sáng ngang với các nước khác trên thế giới. Và chúng ta không học tập tốt không nắm được những tri thức khoa học hiện đại chúng ta sẽ trở thành những người lạc hậu trước sự lớn mạnh như vũ bão của khoa học kĩ thuật trong ngày nay. Như vậy học tập tốt là giúp cho ta và cho xã hội hơn nữa là phát huy truyền thống hiếu học của ông cha ta từ xưa cho đến nay.
Ngày xưa ông cha ta đã có một truyền thống hiếu học như Mạc Đĩnh Chi là con nhà nghèo nhưng vẫn ham mê học đêm đến vì nhà nghèo không có đèn học nôn ông phải bắt đom đóm cho vào vỏ trứng để học và sau thành tài… Ngày xưa chúng ta có biết bao tấm gương chăm học tập và ngày nay chúng ta cũng cần noi gương theo cha ông.
Song việc học như thế nào để đem lai hiệu quả tốt thì chúng ta thấy cần phải học tập thật chăm chỉ, học say mê hứng thú và phải luôn sáng tao, bên cạnh đó chúng ta cũng cần xem xét phương pháp học tập sao cho đại được kết quả cao. Khi đến lớp cần chăm chú nghe cô giáo giảng bài, ghi chép đầy đủ về nhà học lại và làm bài tập đầy đủ, chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp. Ngoài ra ta còn phải học hỏi thêm bạn bè thầy cô giáo và quan trọng là chúng ta phải luôn chủ động trong việc học tránh sự sao chép học tủ học lệch để có thể phát huy được tính sáng tạo của mình. Luôn tạo cho mình một thói quen học tập thật nghiêm túc, say mê, sáng tạo. Học phải đi đôi với hành bởi có như vậy chúng ta mới nhớ lâu kiến thức đã được học.
Câu nói trên của Lênin đã khuyên chúng ta phải học tập thật nhiều học không mệt mỏi để tạo thành nguồn kiến thức vô tận trong mỗi người để sau này trưởng thành có thể làm chủ mọi công việc, góp phần xây đựng đất nước, xã hội ngày một giàu đẹp văn minh. Đó là một lời khuyên mà mỗi học sinh chúng ta cần nhớ và làm theo.
Nguồn: https://diendan.hocmai.vn/threads/ngu-van-7-giai-thich-loi-day-cua-lenin-hoc-hoc-nua-hoc-mai.420760/
Bạn dựa vào một số ý chính để làm bài nha!
MB:
Đất nc của cta đang tiến theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hoa. Vì vậy rất cần có những người tài. Học sinh cta cx như tất cả những người dân Việt càng ngày phải có nhiều hiểu bt, trình độ cao để đáp ứng nhu cầu của xã hội . Vì vậy học là điều rất cần thiết vs cta để nâng cao trình độ, kĩ năng đáp ứng cho c/s sau này.Lê nin có câu nói rất nối tiếng:
"Học , học nữa, học mãi".
TB:
-Vậy học là j?-> học là 1 quá trình tìm hiểu , thu nhuận, tích lũy kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho mik để tăng thêm hiểu bt....; học ở đây ko chỉ đến trường ms học mà còn học ngay từ nhỏ, cha mẹ dạy ta học ăn, học...->tự phân tích.
+"Học nữa" là học hết trình độ này lại đến trình độ khác, từ dễ đến khó.->đưa vào thực tiễn để nhận xét
- Mỗi lần nâng một mức học, con người sẽ trưởng thành và đc trang bị đầy đủ, toàn diện, đáp ứng mọi yêu cầu của xã hội, sau này tự nuôi sống bản thân, giúp đỡ gđ....
+ "Học mãi" là học liên tục , ko ngừng nghỉ suốt cuộc đời, luôn nâng cao vốn hiểu bt của mik vè mọi mặt. đó là người ham học....;Tuy đã già nhưng họ vẫn tham gia hoạt động, công vc, học tập,..
=>Như vậy học là vô tận, học ở mọi lúc , mọi nơi, mọi điều , nó giúp cho con người cta hiểu bt sâu rộng hơn, nâng cao năng suất công vc. Lời nói của Lê-nin rất đúng vs thực tếm chí nghĩa , chí tình->Những người thực hiện đúng lời dạy ấy sẽ là người tài giỏi
-nêu ra một số dẫn chứng :*Trong quá khứ:
+Mạc đĩnh chi bắt đom đóm cho vào vỏ trứng để hok
+Trạng Nồi lak 1 hs nghèo khó, mỗi lần học xong, chàng thường sang beeb hàng xóm mượn nồi, vét cơm thừa ăn. Sau này ông thi đõ trạng nguyên và vẫn ko quên công ơn tốt bụng của nguwoif hàng xóm đó.
+Trong kháng chiến chống Pháp, Mĩ có rất nhiều bạn nhỏ phải lặn looij trong mưa bom bão đạn của giặc để đến trường.->đánh giá của bản thân
*Trong ngày nay:
+Những bạn nhỏ ở vùng sâu vùng xa phải leo đèo , lội suối qua những quãng đường dài để đến học ở những lớp học nghèo nàn, đơn sơ dựng tạm
*TRong văn học:
+Mã lương trong truyện cây bút thần
- Vậy muốn thực hiện lwoif dạy của lê nin ta phải lm j?->Cta phải tự tìm lấy những cái thích thú, say mê trong hok tập và phải luôn sáng tạo trong hok tập. bên cạnh đó còn cần đến nghị lực và sự quyết tâm phấn đâu...
KB:
Câu nói trên của Lê-nin đã khuyên cta phải học tập thật nhiều, ko đc ngừng nghỉ để rồi sẽ phục vụ cho công vc sau này của mình. Học lak rất quan trọng, vì nhờ có học, có kiến thức ms giúp cta lm dc vc, nuôi sống bản thân, gđ và xây dựng đất nc.Bản thân ta sẽ luôn cố gắng để hok tập thật tốt để góp phần xây dựng đất nc giàu đẹp, văn minh.hãy đừng bh quên lời dạy của Lê-nin:"Học, học nữa, học mãi"
| Nhà nước thời Lý - Trần | Nhà nước thời Lê sơ |
Thành phần quan lại | Chủ yếu là quý tộc, vương hầu | Các nho sĩ trí thức đỗ đạt, có học vị thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau. Không còn tầng lớp quý tộc thời Trần. |
Tổ chức bộ máy chính quyền | - Nhà nước tổ chức theo chế độ quân chủ tập quyền (vua nắm mọi quyền hành) nhưng chưa hoàn chỉnh bằng thời Lê sơ. - Là nhà nước quân chủ quý tộc. | - Vua là người trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả chỉ huy quân đội. - Hoàn chỉnh hơn, chặt chẽ hơn, tính tập quyền cao hơn. - Là nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền cao độ, mang tính quan liêu. |
| Nhà nước thời Lý - Trần | Nhà nước thời Lê sơ |
Thành phần quan lại | Chủ yếu là quý tộc, vương hầu | Các nho sĩ trí thức đỗ đạt, có học vị thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau. Không còn tầng lớp quý tộc thời Trần. |
Tổ chức bộ máy chính quyền | - Nhà nước tổ chức theo chế độ quân chủ tập quyền (vua nắm mọi quyền hành) nhưng chưa hoàn chỉnh bằng thời Lê sơ. - Là nhà nước quân chủ quý tộc. | - Vua là người trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả chỉ huy quân đội. - Hoàn chỉnh hơn, chặt chẽ hơn, tính tập quyền cao hơn. - Là nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền cao độ, mang tính quan liêu. |
~ Fighting ^^ ~
Cherry
Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta chẳng thấy mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước cảnh đất nước thương đau, trước thói đời lắm nỗi éo le. Nỗi buồn ấy càng sâu càng đậm từ khi ông cáo quan về ở ẩn. Nhưng ta niềm vui bất chợt khi đọc Bọn đến chơi nhà. Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn bằng hữu tâm giao cao quý vượt lên mọi nghi thức đời thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp chân thành.
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta.
Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng sự phát triển của ý thơ khá bất ngờ không theo cấu trúc (đề, thực, luận, kết) thường thấy ở thơ Đường. Có lẽ đây cũng là một điều rất đặc biệt như chính tình bạn của họ.
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Câu thơ mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp nhau. Tuổi già thường cảm thấy cô đơn nên người ta khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Vì vậy khi có bạn đến thăm thì quá đỗi vui mừng. Cách xưng hô thân mật bằng bác, cách gọi thân mật dân dã gợi sự nể trọng cũng như thân tình thể hiện sự gắn bó trọng tình giữa chủ và khách. Câu thơ giống như lời chào quen thuộc hàng ngày: đã lâu rồi nay có dịp bác đến chơi nhà, thật là vui quá. Tôi, bác chẳng xa lạ gì thôi thì mong bác thông cảm cho! Ngày còn ở chốn quan trường việc có bạn tới thăm là lẽ thường nhưng giờ ông đã từ quan, có bạn đến tận nhà thăm thì hẳn phải là thân thiết lắm bởi thói đời: giàu thời tìm đến, khó thời ***** lui. Vui sướng, xúc động nhà thơ đã lấy sự sung túc, giàu có của tình bạn thay vào cái túng thiếu về vật chất để tiếp bạn.
Thông thường theo phép tắc xã giao khi bạn đến nhà dù là thân hay sơ thì trước hết trầu nước sau là cơm rượu đãi bạn. Nhưng sau lời chào bạn Nguyễn Khuyến nhắc đến một loạt những khó khăn của gia đình:
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Nhà thơ như đang phân trần với bạn về sự tiếp đãi chưa chu đáo của mình.
Phần thực, luận tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói. Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân. Có ao và có cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu, nhưng ... Bức tranh vườn hiện lên sống động vui tươi. Một nếp sống thôn dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch ấm áp cây đời và tình người. Ta cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn mình ra thăm vườn cây, ao cá và hơn thế mong bạn cảm thông với cuộc sống của mình chăng?
Các từ (sâu, cả, rộng, thưa), các trạng từ chỉ tình trạng (khôn, khó), các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động (chửa, mới, vừa, đương) hô ứng bổ trợ cho nhau một cách thần tình, khéo léo, dung dị và tự nhiên. Những từ ngữ này biểu hiện một cuộc sống dung dị, tự nhiên gần gũi đáng yêu.
Dân gian có câu:
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên Yên Đổ lại đến mức ấy ư? Nhà thơ đã cường điệu hoá cái nghèo của mình. Một ông quan to triều Nguyễn về ở ẩn, với một cơ ngơi chín sào tư thố là nơi ở thì không thể “miếng trầu” cũng không có. Rõ ràng đây là lời bông đùa hóm hỉnh với bạn. Đồng thời để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của giặc Pháp, lui về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương.
Những vật chất bình thường nhất mang ra tiếp bạn đều không có, mà thay vào đó là tình cảm chân thành tha thiết. Tình bạn của họ được vun đắp, dựng xây trên cơ sở của tình cảm, lòng yêu thương kính trọng. Vật chất là quan trọng nhưng không phải là tất cả. Thật xúc động khi đọc nhưng dòng thơ thể hiện tình cảm của Nguyễn Khuyến với bạn:
Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước
Bác với tôi hôm sớm cùng nhau
Tình cảm của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật cảm động, họ tri kỷ tri âm với nhau cũng xuất phát từ đó. Đúng vậy, trong bài thơ này những nghi thức xã giao vật chất dần bị bóc để lộ ra hạt ngọc lung linh - ấy là tâm hồn, tình cảm cao quý của họ.
Bác đến chơi đây, ta với ta
Câu kết là sự “bùng nổ” ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị mà chỉ cần có một tấm lòng.
Lần thứ hai chữ bác xuất hiện, bác không quản ngại đường xá xa xôi đến thăm bạn thì thật đáng quý. Tình bạn là trên hết, không gì mua được. Mong tiếp bạn bằng những thứ thật sang, thật bất ngờ nhưng rồi chỉ có ta với ta. Họ hiểu nhau, họ tuy hai nhưng là một, cái đồng điệu ấy chính là sự xem thường vật chất, trọng tình cảm, trọng tình bằng hữu.
Tôi và bác chỉ cần gặp nhau để trò chuyện tâm sự là đã đủ. Tình cảm của họ bộc lộ một cách trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng.
Ta với ta trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là sự bắt gặp đối diện với chính mình, chính tâm trạng cô đơn u hoài của nữ sĩ. Còn ta với ta trong bài thơ này là sự bắt gặp của hai tâm hồn, hai con người.
Có một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết về bạn khi đọc ta mới thấy hết được ý vị của nó:
Từ trước bảng vàng nhà có sẵn
Chẳng qua trong bác với ngoài tôi
Bài thơ Bạn đến chơi nhà là bài thơ hay viết về tình bạn, một tình bạn thắm thiết keo sơn. Một tâm hồn thanh bạch cao quý của hai con người hòa là một, một cách sống thanh cao trọng tình trọng nghĩa. Tình bạn của họ thật cảm động chứ không như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng lên án Còn bạc còn tiền còn đệ tử - Hết cơm hết rượu hết ông tôi. Tình bạn cao quý ấy còn chói ngời mãi, là điển hình cho tình bằng hữu xưa nay.
Khép lại bài thơ, ai ai cũng xúc động trước tình bạn cao quý của họ. Lời thơ dung dị, ý thơ chất chứa bao tình cảm thân thương trìu mến tạo nên nét đặc sắc của bài thơ.
Nguyễn Khuyến là nhà thơ nôm kiệt xuất của dân tộc ta đầu thế kỉ 20. Ông là tác giả của chùm thơ thu nổi tiếng: Thu điếu , thu vịnh , và thu ẩm. Ngoài ra , ông còn để lại nhiều bài thơ hay nói lên tình bạn cao quý , chân thành và cảm động. “Bạn đến chơi nhà” là một trong những bài thơ nôm tiêu biểu ấy.
Câu nhập đề rất tự nhiên, mộc mạc , giản dị nhưng lại biểu lộ sự vồn vã, vui mừng khôn xiết của một người đã quá lâu rồi mới gặp lại bạn tri âm.
“Đã bấy lâu nay bác tới nhà”
Chữ “bác” gợi lên thái độ niềm nở, thân mật, và trân trọng, một cách xưng hô thân tình. Ta như cảm nhận được những giọt lệ đang ứa ra ở khóe mắt đôi bạn già tri kỉ đã quá lâu rồi mới được gặp nhau. Sự xa cách, nhớ mong làm nỗi bật niềm xúc động, niềm vui sướng vô hạn khi gặp lại bạn.
“Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”
Nối tiếp sự vui mừng khôn xiết là một nụ cười rạng rỡ nhưng cũng vô cùng hóm hĩnh. Nhà thơ đã tự tạo ra một tình huống éo le. Đoạn thơ như vẽ lên một bức tranh thân thuộc của khu vườn nơi thôn dã. Có ao cá, có gà, có cà, có cải, có mướp, có bầu…,có hai người bạn già đang cầm tay nhau đi dạo trong vườn, tận hưởng thú vui dân dã của một ông quan về ở ẩn. Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn. Ta có cảm giác như ông đang phân giải với bạn, nhưng cũng có cảm giác ông đang nói lên cuộc sống thanh bạch của chính mình. “Miếng trầu là đầu câu chuyện” thế mà Nguyễn Khuyến thì “Đầu trò tiếp khách trầu không có”, sự thiếu thốn đã được ông nâng cao một cách hóm hỉnh, hài hước đến tột đỉnh. Tất cả để khẳng định :
“ Bác đến chơi đây, ta với ta”
Mọi cái đều “không có” ,chỉ có duy nhất một thứ, đó là tình bạn thắm thiết mà không một thứ vật chất nào có thể thay thế được. Tình bạn là trên hết. Tình bạn được xây dựng từ sự cảm thông , tôn trọng lẫn nhau, không vụ lợi. Cuộc đời một con người có được bao nhiêu người bạn thân như thế. Đoạn thơ như dạy cho chúng ta phải biết nuôi dưỡng tình bạn trong sáng như thế nào. Hãy trải lòng ra để sống với mọi người, đừng để vật chất làm hoen ố những tình cảm vốn rất đẹp trong mỗi chúng ta.
Tóm lại, bài “Bác đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến được viết bằng lời thơ giản dị, mộc mạc nhưng thanh thoát, nhẹ nhàng, tự nhiên, nói lên được tình bạn thâm giao, trong sáng, chân tình. Nó có tác dụng giúp chúng ta nhìn nhận lại chính bản thân mình, không bị cuộc sống vật chất của xã hội phát triển lôi kéo, giúp chúng ta luôn giữ được một tình bạn trong sáng, thủy chung, và cao đẹp vốn là bản chất của dân tộc Việt.
Tiểu sử của Lê Doãn Sửu :
Vào giữa mùa Xuân năm Tân Sửu(1901), Lê Doãn Sửu ra đời tại lkhu phố Đệ Thập, thành phố VInh(nay là phường Bến Thuỷ- thành phố Vinh), tỉnh Nghệ An. Vợ chồng anh Lê Doãn Xường và Nguyễn Thị Chắt đã đặt tên con là Lê Doãn Sửu để không quên năm sinh của cậu con trai đầu lòng.
Thành phố Vinh vào những năm đầu thế kỷ XX, các nhà tư bản Pháp lợi dụng quyền thống trị đã cướp đất của nông dân quanh vùng để xây dựng các nhà máy. Người nông dân không có một tấc đất cắm dùi, ngoài ra còn chịu cảnh sưu cao thuế nặng và họ lâm vào cảnh bần cùng hoá. Hàng ngày người đàn ông phải đi làm thuê trong các nhà máy còn phụ nữ ở nhà buôn thúng bán mẹt hoặc đi làm thuê, cấy rẽ nhưng vẫn không đủ ăn. Lớn lên trong hoàn cảnh gia đình khó khăn như bao gia đình khác ở trong vùng, Lê Doãn Sửu phải đi làm thuê cùng với cha trong nhà máy Diêm vào năm 16 tuổi.
Nhà máy Diêm ra đời năm 1907 thuộc công ty vô danh Rừng và Diêm(gọi tắt là SIFA) với số lượng công nhân khoảng 750 người trong đó công nhân nam chiếm 1/4, nữ chiếm 2/4 và trẻ em chiếm ¼. Nhà máy có 6 bộ phận chính: nhà đẽo, nhà kẽm, bộ phận cầm bàn, sấy vỏ, bỏ que, quét phấn và dán tem. Ngoài ra có bộ phận nhỏ làm nhiệm vụ sửa chữa nhà cửa, phân xưởng. Mỗi bộ phận có một cai và một phó cai quản lý công nhân. Giám đốc và phó giám đốc nhà máy là người Pháp thông qua quản lý của nhà thầu khoán là Trương Đắc Lạp. Trẻ em vào làm việc trong nhà máy Diêm thường ở bộ phận bỏ que(que diêm đã hoàn chỉnh bỏ vào bao).
Lê Doãn Sửu hàng ngày được chứng kiến cảnh công nhân bị bọn chủ đánh đập vì những lỗi nhỏ. Trẻ em làm việc mỗi ngày từ 17 dến 18 giờ nhưng chỉ được trả với đồng lương hết sức thấp và thường xuyên bị đánh đập: nếu xếp que diêm vào hộp chậm là bị đánh hoặc xếp que không chặt cũng bị đánh...Lúc nào tên cai Học cũng lăm le chiếc roi dài dò xét công nhân trong xưởng.
Cùng các bạn trong khu phố làm ở nhà máy Diêm như Lê Mao, Lê Viết Thuật, Nguyễn Phúc, Nguyễn Viết Lục... trông thấy cảnh chủ nhà máy đối xử với công nhân như vậy Lê Doãn Sửu rất tức, nhung không biết làm thế nào. Tuổi trẻ hăng hái họ định tìm cách trừng trị bọn cai, nhưng nếu trừng trị không thành thì sẽ bị đuổi việc ...
Năm 1921, Lê Doãn Sửu và các bạn nghe nói có phong trào thanh niên xuất dương sang Xiêm, Trung Quốc để hoạt động cách mạng chống Pháp, nhưng nhà anh quá nghèo, cơm không đủ ăn lấy tiền đâu mà làm lộ phí. Hàng ngày các anh nghe tiếng thì thầm bên tai: ở nước ngoài có ông Mã Khắc Tư(Các Mác) giỏi lắm, ông Lý Ninh(Lê nin) đánh đổ chế độ Nga Hoàng ...ở nước ta có ông Nguyễn Ái Quốc đang ở bên Tây mà Tây thì lùng bắt mãi không được...
Lúc này Lê Mao, một người bà con trong họ cách nhà anh 2 km, ít tuổi hơn Lê Doãn Sửu nhưng được anh em công nhân trong nhà máy Diêm yêu quý, công nhân coi Lê Mao như anh trai, lớp có tuổi thì coi như người thân đã bàn anh và các bạn cần thiết phải tổ chức một hình thức sinh hoạt tinh thần để mở mang trí óc. Các anh tìm mua các sách báo như báo “Tiếng dân”, “Tân Thế kỷ” để qua đó hiểu thêm về phong trào cách mạng trên thế giới, hiểu thêm sinh hoạt của thợ thuyền trong nước.
Trong những năm 1923-1924, Lê Doãn Sửu cùng Lê Mao và các bạn trẻ làm trong các nhà máy Diêm, Trường Thi, Cưa....thường đến hội trường Quảng Tri ở trong thành phố Vinh để nghe thầy giáo Trần Văn Tăng, Hà Huy Tập và Trần Phú nói chuyện về lịch sử nhân loại, về những tấm gương nghĩa sỹ yêu nước. Từng bước một Lê Doãn Sửu và các bạn trẻ trong các nhà máy đã được bồi đắp thêm lòng yêu nước và ý chí đấu tranh chống ách cường quyền.
Giữa năm 1924, Lê Doãn Sửu và các bạn của anh nghe anh chị em thợ trong nhà máy bàn tán nhỏ to về việc Phạm Hồng Thái ôm bom giết tên Méc lanh, toàn quyền Đông Dương, lúc y đến Sa Điện (Quảng Châu- TrungQuốc). Lần đầu tiên được nghe chuyện lạ như vậy, tìm hiểu kỹ thì ra Phạm Hồng Thái trước đây là cũng thợ nhà máy Đèn Bến Thuỷ và anh cũng là người Hưng Nguyên đã xuất dương sang Trung Quốc từ đầu năm. Lê Doãn Sửu rất khâm phục tinh thần quả cảm của Phạm Hồng Thái và anh thường nghĩ: giá như trước đây mình có tiền đi xuất dương thì....Và thời gian sau dồn dập nhiều sự kiện trọng đại đã cuốn hút lớp thanh niên như Lê Doãn Sửu. Các anh tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu(1925) và dự lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh(tháng 3/1927).
Ngày 14/7/1925 tại núi Con Mèo(Bến Thuỷ) Hội Phục Việt ra đời do Lê văn Huân, Nguyễn Đình Kiên, Tôn Quang Phiệt, Trần Mộng Bạch, Ngô Đức Diễn ...sáng lập(Hội Phục Việt nhằm: tập hợp lực lượng yêu nước trong nhân dân, đánh đổ thực dân Pháp, khôi phục lại nền độc lập cho đất nước). Hội đã mở rộng cơ sở tổ chức ra cả nước. Dưới sự chỉ đạo của Tổng bộ Hội Phục Việt, phong trào yêu nước ở Vinh - Bến Thuỷ có điều kiện phát triển và nhanh chóng trở thành trung tâm của phong trào yêu nước trong tỉnh và cả xứ Trung Kỳ. Cơ sở của Hội phát triển hầu khắp trong các nhà máy và các đường phố và trường học ở Vinh Bến Thuỷ. Ở nhà máy Diêm, đồng chí Lê Mao đã sớm trở thành thành viên của Hội Phục Việt và anh đã tích cực xây dựng cơ sở của Hội trong nhà máy Diêm; một thời gian sau Lê Doãn Sửu cũng được kết nạp vào Hội. Năm 1927, 4 tiểu tổ Hưng Nam (sau này đổi tên là Tân Việt) do Nguyễn Khắc Long thành lập với tên “Xuân, Hạ Thu, Đông” ở trong các nhà máy và làng Yên Dũng Hạ, Lê Doãn Sửu cùng Lê Mao, Lê Viết Thuật, Nguyễn Viết Lục, Phạm Châu, Lê Thị Kiều Hà, Đinh Văn Đức, Lê Thị Vy là những thanh viên tích cực của các chi bộ đó.
Một thời gian sau do yêu cầu của tổ chức, Lê Doãn Sửu chuyển sang nhà máy Cưa làm việc cùng Nguyễn Viết Lục. Tại đây các anh đã xây dựng được cơ sở của Đảng Tân Việt, nhà máy Trường Thi có Lê Viết Thuật phụ trách, cảng Bến Thuỷ có Phạm Châu, nhà máy Diêm có Lê Mao. ..
Ngày 11/ 4/1928, nhân việc chủ nhà máy đuổi một công nhân, các đồng chí Lê Mao( nhà máy Diêm) và Nguyễn Viết Lục, Lê Doãn Sửu( nhà máy Cưa, thuộc hãng SIFA) đã lãnh đạo công nhân đình công phản đối chủ đuổi thợ vô lý và đòi tăng lương, bỏ cúp phạt. Công nhân nhà máy Diêm nghỉ việc buổi sáng thì chiều hôm đó công nhân nhà máy Cưa cũng nghỉ việc đồng thời đưa yêu sách tương tự. Lần đầu tiên bị thợ hai nhà máy bãi công cùng một lúc, bọn chủ hết sức hoảng hốt. Vì thế ngày hôm sau, chủ hai nhà máy này đã tập trung công nhân lại tuyên bố tăng lương đồng loạt cho mỗi người 5 xu một ngày.ắThng lợi của cuộc đấu tranh đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của công nhân trong toàn thành phố.
Tháng 5/1929, nhân dịp cuộc đấu tranh vạch mặt tên Cao Kiên(phó trưởng khu phố Đệ Thập) một khu phố bao gồm thợ thuyền và dân cày, lạm dụng quyền để thu thuế nhà ở tăng gấp ba lần, Đảng Tân Việt chủ trương đưa người của mình vào nắm chính quyền cơ sở để tạo điều kiện cho tổ chức Đảng hoạt động, Đồng chí Lê Mao và Phạm Châu trúng cử chánh, phó lý làng Yên Dũng Hạ; Phạm Châu làm lý trưởng, Lê Mao làm phó lý, từ đó hai đồng chí càng có điều kiện đi lại công khai để hoạt động cách mạng.
Sau khi thành lập, cuối năm 1929, Ban chấp hành lâm thời Trung ương Đông Dương cộng sản Đảng đã cử đông chí Nguyễn Phong Sắc, Trần Văn Cung vào xây dựng cơ sở Đảng ở Trung Kỳ. Các đồng chí đã gặp đồng chí Võ Mai và thành lập Kỳ bộ Đông Dương cộng sản Đảng Trung Kỳ, Nguyễn Phong Sắc làm Bí thư. Cơ quan Xứ uỷ đóng ở làng Vang(thuộc Hưng Nguyên, giáp thành phố Vinh), được một thời gian cơ quan Xứ uỷ dời xuống cống Đệ Nhất, phố Cô Đầu(nay là khu vực bên trái nhà thiếu nhi Việt Đức, Thành phố Vinh).
Vào Nghệ An đồng chí Nguyễn Phong Sắc đặc biệt chú ý phong trào công nhân Vinh Bến Thuỷ. Đồng chí đã gặp Lê Mao, Lê Viết Thuật và Lê Doãn Sửu, lấy đó làm nòng cốt để phát triển tổ chức Đông Dương cộng sản Đảng trong giai cấp công nhân ở Vinh Bến Thuỷ. Kỳ bộ Trung Kỳ đã xây dựng được cơ sở Đảng sâu rộng ở vùng xung quanh thành phố Vinh Bến Thuỷ và trong các nhà máy.
Sau vụ Đông Dương cộng sản Đảng tổ chức rải truyền đơn ở Nghệ An kêu gọi quần chúng kỷ niệm ngày phản đối đế quốc chiến tranh(1/8/1929), đồng chí Trần Văn Cung bị bắt, cơ quan của Xứ uỷ phải chuyển đồ đạc và tài liệu ấn loát xuống nhà đồng chí Lê Doãn Sửu ở làng Yên Dũng Hạ.
Sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam ra đời(3/2/1930), tháng 3/1930, Xứ uỷ Trung Kỳ được thành lập và đã chỉ định ra hai Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tại Nghệ An: Tỉnh bộ Vinh (bao gồm Vinh Bến Thuỷ, hai huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc và thị xã Thanh Hoá); Tỉnh uỷ Nghệ An (gồm các huyện còn lại).
Ngày 20/2/1930, đồng chí Nguyễn Phong Sắc đã triệu tập Lê Doãn Sửu cùng các đảng viên Tân Việt như: Nguyễn Xuân Thanh, Nguyễn Lợi, Lê Viết Thuật, Lê Mao, Nguyễn Phúc, Nguyễn Khắc Thiện...tại Dăm Mụ Nuôi(làng Yên Dũng Thượng, tổng Yên Trường, huyện Hưng Nguyên (nay là phường Hưng Dũng, thành phố Vinh) nói về việc thống nhất lại Đảng và chuyển các đồng chí này thành đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Đồng thời thành lập Tỉnh đảng bộ lâm thời Vinh, đồng chí Lê Mao được bầu làm Bí thư, Ban chấp hành lâm thời gồm các đồng chí Lê Viết Thuật, Lê Doãn Sửu, Nguyễn Phúc, Nguyễn Viết Lục. Hội nghị đã phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí:
-Đồng chí Lê Mao: phụ trách phong trào chung cả tỉnh
- Đồng chí Lê Viết Thuật: phụ trách nhà máy Trường Thi và các khu phố khu vực Vinh
-Đồng chí Nguyễn Phúc: phụ trách khu vực Bến Thuỷ
-Đồng chí Nguyễn Viết Lục: trực tiếp nhận giấy tờ và mệnh lệnh cấp trên
-Đồng chí Lê Doãn Sửu: Phụ trách phong trào nông dân huyện Hưng Nguyên và Nghi Lộc.
Sau khi cơ quan Xứ uỷ chuyển xuống nhà đồng chí Lê Doãn Sửu, các đồng chí lãnh đạo Xứ uỷ, Tỉnh uỷ, giao thông liên lạc như Nguyễn Thị Nghĩa(cán bộ liên lạc giữa Trung ương và Xứ), Nguyễn Thị Duệ(cán bộ Xứ) ....thường đi ăn nghỉ tại đây. Để che mắt địch hoạt động, đồng chí Nguyễn Thị Nghĩa trong vai là cô vợ lẽ người Bắc Kỳ của anh công nhân Lê Doãn Sửu. Hàng xóm làng giềng xì xào anh Sửu có hai vợ nhưng các bà ăn ở hoà thuận. Anh Sửu là người tốt số biết dạy vợ... Sau những chuyến đi buôn xa từ ở ngoài Bắc Kỳ về, cô vợ lẽ lại đảm đang công việc nội trợ, gánh nước, quét nhà, giặt giũ quần áo cho “anh ấy” và đi chợ, nấu ăn đỡ tay cho bà cả.
Đồng chí Lê Doãn Sửu có dáng người mập, đầu anh thường húi cua đôi mắt to sáng và hay nhấp nháy,- Chị Nguyễn Thị Minh Khai đặt biệt danh cho anh là "anh nhấp nháy" và chị Nguyễn Thị Nhuân và NguyễnThị Duệ lúc làm việc với anh đều gọi là "anh nhấp nháy". Lê Doãn Sửu thường nói rất nhanh và tính hay đùa nên mọi người ai cũng quý mến. Trong lúc đi hoạt động Lê Doãn Sửu thường cài trang, lúc là công nhân khuân vác với áo nâu bạc màu cỏ vắt chiếc khăn có mỏ neo; lúc thì itrong vai một thầy cúng với áo dài thâm quần cháo lòng đội khăn đóng màu đen. Và không bao giờ bị lộ.
Một thời gian sau đồng chí Nguyễn Thị Nghĩa bị lộ và bị địch đón bắt tại sân ga Trường Thi. Chúng đưa chị về giam tại nhà lao Vinh. Tại nhà lao Vinh mặc dù bị tra tấn dã man nhưng chị Nghĩa không khai nửa lời và đồng chí đã hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Cơ quan Xứ uỷ lại phải chuyển đi nơi khác.
Nhân ngày Quốc tế Lao động(1/5/1930), chủ trương của tỉnh bộ Vinh - Bến Thuỷ là huy động công nhân và nông dân khu vực Vinh - Bến Thuỷ làm cuộc biểu tình nhằm biểu dương lực lượng và đưa yêu sách cho nhà chức trách thực dân ở Vinh. Đồng chí Nguyễn Phong Sắc, đặc phái viên của Trung ương Đảng tại Trung Kỳ được cử phụ trách chung. Tỉnh bộ Vinh- Bến Thuỷ do đồng chí Lê Mao làm Bí thư trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy. Vì các nhà máy riêng biệt nên Tỉnh bộ quyết định mỗi nhà máy có một Ban chỉ huy riêng(mỗi ban có từ 3-7 người). Nhà máy Diêm Bến Thuỷ có 3 người trong ban chỉ huy là: Lê Viết Cường, Nguyễn Thị Duệ, Dương Diên và Lê Mao ngoài việc chỉ huy chung còn trực tiếp chỉ huy cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy Diêm. Nhà máy Điện có 3 người: Nguyễn Duy Thiện, Tài Dung, Bình. Nhà máy Cưa Lao Xiên gồm ba người: Lê, Hậu, Hiến. Nhà máy Cưa Kỳ Sùng Thúc gồm Lê Văn và hai ngườ nữa. Các đơn vị công nhân khuân vác ở cảng Bến Thuỷ có 7 người do Lê Doãn Sửu chỉ huy, nhà máy Trường Thi do Lê Viết Thuật trực tiếp chỉ huy.
Về phía nông dân quanh vùng Vinh Bến Thuỷ, ban chỉ huy gồm Hoàng Trọng Trì, Trần Cảnh Bình...
Cuộc biểu tình của công nông Vinh- Bến Thuỷ đã thu hút hơn 1.200 người (gồm công nhân các nhà máy và nông dân các làng Ân Hậu, Lộc Đa, Yên Dũng ...)tham gia, được tổ chức chu đáo; tuy bị đàn áp đẫm máu nhưng đã gây tiếng vang lớn, mở đầu cho cao trào đấu tranh cách mạng trong cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cuộc biểu tình được Đảng đánh giá “Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng xứ ta, công - nông - binh bắt tay nhau giữa trận tiền”.
Được phân công phụ trách phong trào cách mạng huyện Nghi Lộc và Hưng Nguyên, đồng chí Lê Doãn Sửu như con thoi đi lại giữa hai vùng. Đã nhiều lần đồng chí cùng đồng chí Nguyễn Phong Sắc tham dự và chỉ đạo trực tiếp phong trào đấu tranh của nhân dân Nghi Lộc.
Vào khoảng tháng 3/1930, Xứ uỷ Trung Kỳ bắt liên lạc với Lê Xuân Đào, là một đảng viên Tân Việt tích cực ở Hưng Nguyên để xây dựng cơ sở Đảng Tháng 4/1930, đồng chí Lê Xuân Đào đã thành lập chi bộ ghép Đảng cộng sản đầu tiên của hai tổng Phù Long(Hưng Nguyên) và Nam Kim(Nam Đàn) do đồng chí Lê Xuân Đào làm Bí thu. Đồng chí Lê Doãn Sửu lúc này với bí danh là Đông đã về bắt liên lạc với Lê Xuân Đào để xây dựng cơ sở Đảng trong cả vùng.
Để chuẩn bị cho cuộc biểu tình của nhân dân huyện Nam Đàn, Hưng Nguyên ngày 12/9/1930 đạt kết quả tốt, đồng chí Lê Doãn Sửu đã cùng đồng chí Lê Xuân Đào và các đảng viên trong chi bộ ghép tuyên truyền vận động nhân dân tham gia. Do được chuẩn bị chu đáo, cuộc biểu tình đã thu hút hơn 8.000 nông dân thuộc ba tổng Phù Long, Thông Lãng p(hủ Hưng Nguyên) và tổng Nam Kim(huyện Nam Đàn) tham gia. Đoàn biểu tình với hàng ngũ chỉnh tề, trang bị gậy gộc, giáo, mác giương cao cờ búa liềm vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu. Đến ga Yên Xuân, ban chỉ huy bắt trói xếp ga và cắt đứt đường điện tín. Khi đoàn biểu tình đến Thái Lão, thực dân Pháp cho hai máy bay ném bom vào đoàn người. Cuộc biểu tình giải tán. Đến chiều khi bà con nông dân ra khâm liệm và mai táng những đồng chí hy sinh thì thực dân Pháp lại cho máy bay đến ném bom một lần nữa. Tổng cộng số người thiệt mạng trong cuộc biểu tình lên đến 217 người và 125 người bị thương. Ngoài ra chúng còn bắt giam hàng trăm người khác. Vụ tàn sát cực kỳ dã man của thực dân Pháp đã làm chấn động dư luận trong nước và Quốc tế. Ngay sau cuộc biểu tình của nhân dân Hưng Nguyên, đồng chí Lê Doãn Sửu đã cùng các đồng chí trong Tỉnh Đảng bộ Vinh, đồng chí Lê Xuân Đào tổ chức truy điệu những người hy sinh, quyên góp ủng hộ những người bị thương.. Xứ uỷ Trung Kỳ và Tỉnh uỷ Nghệ An phát truyền đơn, đăng báo ca ngợi tinh thần đấu tranh của quần chúng, tố cáo tội ác của chính quyền thực dân Pháp và tay sai. Truyền đơn của Đảng cộng sản Việt Nam kêu gọi nhân dân cả nước đấu tranh: không được đụng đến nhân dân Nghệ Tĩnh; không được đuổi công nhân xã Đệ Thập; không được bắn giết các cuộc biểu tình; không được ném bom tàn sát....
Sau cuộc biểu tình ngày 12/9 ở Hưng Nguyên, đồng chí Lê Doãn Sửu và Lê Xuân Đào đã tích cực chuẩn bị cho việc thành lập phủ uỷ Hưng Nguyên. Cũng trong thời gian này vợ đồng chí Lê Doãn Sửu sinh con gái đầu lòng nhưng vì nhiệm vụ cách mạng, việc nhà đồng chí đã trông nhờ vào ông bà nội ngoại.
Vào cuối tháng 9/1930, Tỉnh uỷ Vinh đã chỉ định ra Ban chấp hành Thành Đảng bộ Vinh - Bến Thuỷ gồm các đồng chí: Trần Hường, Nguyễn Văn Dật, Nguyễn Thị Liên và đồng chí Lê Doãn Sửu, Uỷ viên Tỉnh uỷ Vinh được cử làm Bí thư. Thành uỷ Vinh - Bến Thuỷ được Tỉnh uỷ giao nhiệm vụ quản lý, lãnh đạo các tổ chức cơ sở Đảng và phong trào cách mạng trong thành phố, còn các chi bộ Đảng ở nông thôn giao về huyện uỷ Hưng Nguyên và Nghi Lộc.
Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Nghệ An và Hà Tĩnh dưới sự lãnh đạo của các tỉnh Đảng bộ phát triển mạnh mẽ. Từ tháng 9/1930 trở đi chính quyền địch ở nhiều địa phương tan rã, các xã bộ nông đứng lên nắm chính quyền điều hành công việc của địa phương.
Tháng 10/1930, khi đồng chí Lê Viết Thuật đang hoạt động ở Hà Tĩnh được điều về cơ quan Xứ uỷ, đồng chí Lê Doãn Sửu và Nguyễn Phúc...được Xứ uỷ giao nhiệm vụ chỉ đạo phong trào cách mạng hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh nhằm duy trì thành quả Xô Viết và đối phó với những âm mưu, thủ đoạn mới của địch.
Cuối năm 1930, phong trào đấu tranh của công nhân phát triển mạnh ở thành phố Vinh các tổ chức quần chúng ra đời. Đồng chí Lê Doãn Sửu giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Thị Nhuận và NGuyễn THị Duệ(công nhân nhà máy Diêm) tổ chức Hội phụ nữ giải phóng. Tổ chức này đã thu hút được đông đảo phụ nữ tham gia(công nhân, buôn bán...). Các hội viên đóng góp ủng hộ vê ftinh thần và vật chất trong lúc gặp khó khăn, quyên góp quần áo gửi cho anh em tù chính trị ở lao Vinh đấu tranh bị địch tịch thu và đốt hết quần áo.
Để chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng sát sao hơn, Xứ ủy Trung Kỳ đã tổ chức Hội nghị toàn thể (từ ngày 22/4 đến 29/4/1931) tại làng Lộc Đa, tổng Yên Trường, Hưng Nguyên(nay là xã Hưng Lộc, thành phố VInh). Hội nghị ra quyết định giải thể cấp Tỉnh ủy Vinh và thành lập Khu ủy Vinh, Khu ủy Bến Thủy. Hai khu ủy này trực thuộc Xứ ủy. Xứ ủy đã cử hai đồng chí là Nguyễn Văn Lợi và Đinh Văn Đức chỉ đạo việc thành lập hai khu ủy(tháng 5/1931).
Khu ủy Vinh gồm 5 ủy viên do đồng chí Phan Công Vượng làm Bí thư. Khu ủy Bến Thủy do đồng chí Lê Doãn Sửu làm Bí thư.
Để đối phó với phong trào cách mạng đang dâng lên ở hai tỉnh, thực dân Pháp đã tìm mọi cách dìm phong trào vào trong biển máu. Chúng xây thêm các đồn bốt, điều lính các nơi về Nghệ Tĩnh, hàng ngàn chiến sỹ cách mạng bị bắt và chuyển giam trong các nhà tù Lao Bảo, Kon Tum, Ban Mê Thuột, Côn Đảo, Trà Khê....Vào tháng 8/1931 đồng chí Lê Doãn Sửu bị sa vào tay địch. Chúng kết án đồng chí khổ sai chung thân cùng với 12 người khác như Nguyễn Cầu, Phạm Châu, Nguyễn Cận, Mai Trọng Tín, Tôn Gia Chung...(theo bản án số 152 ngày 29/10/1931) và sau đó bản án được Hội đồng cơ mật giảm xuống 13 năm khổ sai và 7 năm quản thúc; đồng thời đày đi nhà tù Buôn Ma Thuột. (theo bản án số 246 ngày 24/6/1932 của Hội đồng cơ mật).
Giữa năm 1934, đồng chí Lê Doãm Sửu và nhiều đồng chí khác được trả tự do nhân dịp toàn quyền Rô bin đến Đông Dương và vua Bảo Đại cưới vợ. Về Vinh Lê Doãn Sửu xin trở lại làm công nhân và tiếp tục hoạt động. Tên của anh lại nằm trong sổ theo dõi của mật thám Pháp(số A.15.941).
Năm 1936-1937 phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ ở Vinh phát triển mạnh. Anh Sửu hòa mình vào phong trào đấu tranh của công nhân Vinh Bến Thủy. Ngày 15/7/1937 Lê Doãn Sửu bị bắt trên đường từ Thà Khẹt(Lào) về Vinh(theo Thông tư mật số 845-CS ngày 27/5/1937 của Paul. Hum bert chánh mật thám Vinh gửi liêm phóng Trung Kỳ tại Huế. bị giam ở đồn bang tá VInh, nhưng không có lý do buộc tội thực dân Pháp phải thả anh ra.
Cuối năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, chính phủ Pháp tuyên chiến với Đức và bắt đầu thi hành chính sách phát xít giải tán Đảng cộng sản và các tổ chức dân chủ trong nước cũng như ở các nước thuộc địa của Pháp. Ở Đông Dương chúng điên cuồng tấn công vào Đảng cộng sản và các đoàn thể quần chúng của đảng. Toàn quyền Đông Dương ngày 28/9/1939 ra Nghị định giải tán các tổ chức nghiệp đoàn, tương tế, ái hữu ở Đông Dương. Ngày 5/10/1939, chính phủ Nam triều ra Đạo dụ cấm hội họp, tuyên truyền cộng sản và tịch thu sách báo tiến bộ ở Việt nam. Ở Nghệ An, nhất là ở VInh Bến Thủy, ngoài llực lượng cảnh sát , mật thám cũ, thực dân Pháp còn cấp thêm ngân sách cho mỗi phố trưởng lập một đơn vị "đoàn phòng" gồm 30 tên canh phòng trong khu phố. Những người tù chính trị đã mãn hạn đều bị quản thúc chặt chẽ.
Ngày 20/7/1940, Sô nhi(chánh mật thám Trung Kỳ) đã ra lệnh cho các sở mật thám thuộc Trung Kỳ : "không thể đợi chúng tổ chức xong và có bằng chứng cụ thể mới truy tố. Trong bất cứ tình huống nào, dù chưa có bằng chứng để truy tố cũng phải thi hành tức khắc một trong những biện pháp đã định trong Sắc luật ngày 21/1/1940, đặc biệt là đem những tên hoạt động mạnh nhất đi trại trung đặc biệt".
Lê Doãn Sửu lại bị thực dân Pháp bắt và đưa đi an trí tại Trà Khê(Tỉnh Phú Yên) theo Quyết định số 4206 ngày 7/12/1943. Nói là an trí nhưng nơi đây là rừng thiêng nước độc hoang vu. Thực dân Pháp muốn đọa đày để giết dần giết mòn người chiến sỹ cộng sản.
Hôm bị dẫn giải qua ngã ba đầu làng, vợ chồng đồng chí gặp nhau lần cuối. Lê Doãn Sửu khuyên vợ đừng khóc, can đảm đứng lên, nuôi dạy con thật tốt. Lời đồng chí dặn vợ câu nói cuối cùng mà sau này bà thường nhắc lại với con cháu: “Anh ra đi lần này không hẹn ngày về, em ở nhà chịu khó nuôi con. Nếu các con có nhớ cha, hãy nói: Các con nhìn lên Rú Quyết mà nuôi chí lớn. Còn em nếu nhớ anh, hãy nhìn xuống dòng sông Lam mà nuôi hận rửa sạch căm hờn”.
Đồng chí Lê Doãn Sửu ra đi lần này không bao giờ trở về nữa. Chỉ biết rằng vào một đêm giữa năm 1944, có 3 người lạ mặt vào nhà bà Cao Thị Kỷ, vợ đồng chí Lê Doãn Sửu tại khu phố Đệ Thập; họ mang theo một nải chuối, 5 quả cau và 1 thẻ hương. Một người nói với bà Kỷ: “Anh ấy đi rồi, chúng tôi là bạn của anh ấy trốn được về đây. Chúng tôi xin lập bàn thờ thắp cho anh ấy nén nhang”. Nói rồi họ lập bàn thờ thắp hương khấn vái và chào gia đình rồi vội bước đi thật nhanh. Trong khi đó mẹ con bà chưa hết bàng hoàng và chưa kịp hỏi thăm chồng mình mất ở đâu? nay mộ ở đâu...?
Và cho đến năm 2010 trong thời gian tìm hiểu về quá trình hoạt động cách mạng của đồng chíLê Doãn Sửu, chúng tôi mới được biết đồng chíi đã hy sinh tại Trà Khê(Phú Yên) ngày 27/3/1944 trong thời gian bị an trí tại đây vì bị kiết lỵ nặng nhưng không được cứu chữa
Đồng chí Lê Doãn Sửu đã hy sinh vẻ vang vì sự nghiệp cách mạng. Đó là một tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Mình chỉ biết có thế thôi . k cho mình nhé !
dai the