Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Cách xưng hô trong đoạn văn thứ nhất thể hiện rõ cách biệt về địa vị, hoàn cảnh giữa
+ Chị Dậu: người dân thấp cổ bé họng, thiếu sưu nên phải hạ mình, nhịn nhục: xưng hô cháu, nhà cháu – ông
+ Cai lệ, người nhà lí trưởng trái lại cậy quyền thế nên hống hách, xưng hô ông - thằng kia, mày
Cuối cùng khi bị o ép, dồn đến đường cùng chị Dậu chuyển sang xưng tôi - ông, rồi bà - mày
→ Cách xưng hô thể hiện sự “tức nước- vỡ bờ”, sự tự vệ cần thiết để bảo vệ chồng của chị
Một số từ ngữ thường dùng để xưng hô trong tiếng Việt: tôi - chúng tôi; bạn - các bạn; nó - chúng nó (họ); ta - chúng ta; anh, bác, ông - các anh, các bác, các ông; tao - chúng tao; mày - chúng mày; anh ấy, chị ấy, …
- Tao - chúng tao, mày - chúng mày, anh ấy, chị ấy…
Trong truyện " Kiều ở lầu ngưng bích ", Nguyễn Du miêu tả nỗi nhớ thương người yêu và cha mẹ của Kiều.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Trong tâm trí nàng vẫn còn như in hình ảnh hai người cùng uống rượu thề nguyền dưới trăng: “đinh ninh hai miệng một lời song song”. Kiều thương nhất là việc Kim Trọng vẫn chưa biết Kiều đã thuộc về người khác, vẫn đang ngày đêm trông chờ nàng một cách uổng công. Hết thương Kim Trọng, Kiều lại thương mình.
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Một mình nàng bơ vơ nơi chân trời góc bể nafgn nhó về Kim Trọng nỗi nhớ đau đớn, tình cảm của nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ phai nhạt. Câu thơ " tấm son gột rửa bao giờ cho phai " vừa sử dụng nghệ thuật ẩn dụ vừa là câu hỏi tu từ. Từ " tấm son " nghĩa là luôn giữ tấm lòng chung thủy, son sắc.
Xót người tựa cửa hôm mai…
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ ?
Nàng sót thương cha mẹ khi sáng chiều " tựa cửa " ngóng tin con, nàng không khỏi day dứt khôn nguôi vì cha mẹ đã tuổi già sức yếu mà nàng không thể tự tay chăm sóc. Tác giả sử dụng thành ngữ " Quạt nồng ấp lạnh" để nói lên tâm trạng nhớ thương cha mẹ của Kiều.
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Cụm từ " Sân lai, gốc tử " thể hiện tâm trạng xót xa, lo lắng của Kiều. Hình ảnh " cách mấy nắng mưa " vừa gợi sự xa cách vừa gợi sức mạnh tàn phá của tự nhiên đối với cảnh vật. Trong cảnh ngộ như vật Kiều là một người vô cùng đáng thương nhưng nàng đã quên đi cảnh ngộ của bản thân để nghĩ về người yêu, nhớ về cha mẹ không biết giờ này họ ra sao. Nàng là một người chung thủy, một người con hiếu thảo, một người phụ nữ có tấm lòng vị tha và đáng trân trọng. Trong bài thơ, còn có một chi tiết vô cùng quan trọng đó là Kiều ẫ bày tỏ nỗi nhớ Kim Trọng trước cha mẹ sau bởi trong cơn gia biến, Thúy Kiều đã hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh thành” cho cha mẹ. Với Kim Trọng , Kiều luôn canh cánh bên mình vì cảm thấy đã phụ tình chàng và có lỗi với chàng khi không giữ được lời hẹn ước. Nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Thúy Kiều khiến Thúy Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng. Đọc đoạn thơ, chúng ta không chỉ hiểu được tâm trạng Kiều, mà còn thấy ở Kiều những phẩm chất tốt đẹp. Đó là một con người đầy lòng vị tha. Đồng thời chúng ta cũng thấy được sự đồng cảm của nhà thơ đối với nhân vật. Và nhất là thấy được nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du.
* đây là mình có tham khảo một chút ở trên mạng ạ *
Chúc bạn học tốt !!!
a, Không nên để nhân vật Thu sử dụng từ ngữ toàn dân vì trong ngữ cảnh giao tiếp văn hóa Nam Bộ, Thu sử dụng phương ngữ Nam Bộ hợp lý hơn
Ở đây tác giả tả khí thế của đoàn thuyền ra khơi kết hợp với động từ “lại” diễn tả công việc lao động hằng ngày đầy hứng khởi
→ Khí thế phơi phới, mạnh mẽ của người lao động trên biển làm chủ cuộc đời đang chinh phục biển khơi
Cách giải thích thứ nhất: dừng ở việc nêu đặc tính bên ngoài của sự vật, cách giải thích trên cơ sở kinh nghiệm, cảm tính
Cách giải thích thứ hai: thể hiện đặc tính bên trong của sự vật, phải tìm ra thông qua nghiên cứu khoa học
→ Cách giải thích thứ hai đòi hỏi phải có trình độ, chuyên môn mới hiểu thấu đáo được
Bạn có thể tham khảo quy tắc phân biệt bằng các âm tại đây :)))
A, /i/ làm âm cuối.
Viết i ngắn và y dài có sự phân biệt. Quy tắc: Viết là 'i' khi âm chính là âm dài, ví dụ: ai, oi, ôi, ơi, ui, uôi, ươi. Viết là 'y', khi âm chính là âm ngắn, có hai trường hợp: ay, ây
Lý do của quy tắc: Sự đối lập dài ngắn của âm chính lại được khu biệt bởi cách viết của âm cuối /i/. Ta có /a/ dài và /ă/ ngắn đối lập với nhau, nhưng cả hai âm chính này khi kết hợp với âm cuối /i/ đều viết thành a, chúng khu biệt nhau bởi âm cuối được viết là i ngắn hay y dài: ai /ai/ vs. ay /ăi/
B, /i/ hoặc /ie/ làm âm chính
B1. Âm tiết dạng CVC: Luôn luôn viết là 'i' ngắn. Ví dụ: tim, tiêu tiền, nghiêng
B2. Âm tiết dạng C-u-V (C): Đứng sau âm đệm u, luôn luôn viết là 'y' dài: tuy, quýt, nguyên, khuya...
B3. Âm tiết dạng CV:
/ie/: luôn luôn viết là ia với i ngắn: chia lìa, kia kìa
/i/: Nếu C viết bởi 2 chữ cái trở lên, luôn luôn viết i ngắn: phi, thi, tri, chi, nhi, khi, ghi, nghi
Nếu C viết bởi 1 chữ cái: viết theo thói quen của xã hội. Những trường hợp chỉ viết 'i' ngắn: bi, đi, xi, ni. Những trường hợp viết cả 'i' ngắn hay 'y' dài đều có tiền lệ: mi/my, ti/ty, li/ly, si/sy, ki/ ky, hi/ hy.
B4. Âm tiết dạng VC:
/ie/: yê- (với 'y' dài): yêu, yêm, yên, yêng, yết
/i/: luôn luôn viết i ngắn: iu, im, in, inh, ip, it, ich
B5. Âm tiết dạng V:
/ie/ Chỉ có một cách viết là "ia". (Chỉ có 1 âm tiết duy nhất thuộc dạng này là "ỉa")
/i/ Viết theo thói quen. i/y đều có tiền lệ: ầm ĩ/ ầm ỹ, âm ỉ/ âm ỷ...
Một số trường hợp mà thói quen xã hội chỉ viết bằng "y" như: y (=hắn), ý định, y tá, ỷ lại...
Tóm lại, viết là i ngắn hay y dài có sự phân công khá rõ rệt.
1, Chỉ có hai trường hợp mà theo thói quen xã hội viết i ngắn hoặc y dài đều có, đó là dạng âm tiết CV (C=1 chữ cái) và dạng âm tiết V (/i/ làm toàn bộ âm tiết).
2, Những trường hợp chỉ viết với y dài:
+đứng sau âm chính là âm ngắn (ay, ây)
+đứng sau âm đệm -u- (eg. uy, uyên, quýt, khuya...)
+âm tiết dạng VC với V=/ie/ (eg. yêu, yêm, yên, yêng, yêt)
3, Những trường hợp chỉ viết với i ngắn:
+đứng sau âm chính là âm dài (eg.ai, oi, ôi, ơi, ui, uôi, ươi)
+âm tiết dạng CVC (eg. tìm kiếm)
+âm tiết dạng CV (C>1 chữ cái) (eg. khi, nghi, chi...)
+âm tiết dạng VC với V=/i/ (iu, im, in, inh, ip, it, ich)
+âm tiết dạng V (V=/ie/)
https://www.facebook.com/notes/nguyen-dai-co-viet/quy-t%E1%BA%AFc-vi%E1%BA%BFt-i-ng%E1%BA%AFn-y-d%C3%A0i/10154972953245085/
_Khi i đứng 1 mình thì ta có thể phân biệt như sau :
Những từ thuần Việt viết bằng âm "i" : ầm ỹ, ỉ ôi, ì ạch,.....
Những từ Hán Việt viết = âm "y" : y tế, y học, y phục,...
Cách dùng từ thì mình không rõ lắm, chỉ copy nguyên đoạn vậy thôi :)
bạn chỉ cần thuộc từ mà thôi