K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

*Nguyên nhân của việc phá rừng: Do nhận thức của con người, khai thác không đúng quy hoạch.Do quy hoạch một số vụ việc, kế hoạch không đúng đối với quá trình điều chế rừng, sắp xếp ngành nghề...Hoạt động quản lý nhà nước về rừng yếu kém.Do tập tục du canh du cư, đốt nương làm rẫy của một số cộng đồng thiểu số bà con dân tộc vùng cao.Do quá trình chuyển hóa đất từ sản xuất lâm nghiệp sang sản xuất nông nghiệp.Do xây dựng cơ bản: xây dựng đường giao thông, công trình thủy điện,...Do hoạt động phá rừng của các lâm tặc nhằm để lấy lâm sản.

*Hậu quả của việc phá rừng: gây biến đổi khí hậu, mất cân = sinh thái, hiệu ứng nhà kính,trái đất nóng lên ,xảy ra các thảm họa thiên nhiên như động đất, sóng thần...v.v.làm ô nhiễm bầu khí quyển của trái đất, xói mòn, sạt lở

good luck pạn :)))))

25 tháng 4 2021

mk chỉ tìm đc nguyên nhân khiến rừng bị tàn phá thôi nhé ..., còn mấy khác mk ko rõ ạ !!!!

Có nhiều lí do khiến rừng bị tàn phá: Do con người đốt rừng làm nương rẫy; lấy củi, đốt than, lấy gỗ làm nhà, đóng đồ dùng,… ; phá rừng để lấy đất làm nhà, làm đường,…. Ngoài nguyên nhân do chính con người khai thác, rừng còn bị tàn phá do những vụ cháy rừng.

9 tháng 5 2021

- Việc phá rừng ồ ạt đã làm cho :

+ Khí hậu bị thay đổi ; lũ lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên ;

+ Đất bị xói mòn trở nên bạc màu ;

+ Động vật và thực vật quý hiếm giảm dần, một số loài đã bị tuyệt chủng và một số loài có nguy cơ bị tuyệt chủng.

- Con người khai thác gỗ và phá rừng để:

+ Con người phá rừng lấy đất canh tác, trồng các cây lương thực, cây ăn quả hoặc các cây công nghiệp.

+ Phá rừng lấy gỗ để xây nhà, đóng đồ đạc hoặc dùng vào nhiều việc khác.

+ Phá rừng để lấy chất đốt.

+Rừng còn bị tàn phá do những vụ cháy rừng.

- Có nhiều lí do khiến rừng bị tàn phá: đốt rừng làm nương rẫy, chặt cây lấy gỗ, đóng đồ dùng gia đình, để lấy đất làm nhà, làm đường,…

19 tháng 12 2020

Rừng giữ không khí trong  lành: Do chức năng quang hợp của cây xanh, rừng là một nhà máy sinh học tự nhiên thường xuyên thu nhận CO2 và cung cấp O2.. Đặc biệt ngày nay khi hiện tượng nóng dần lên của trái đất do hiệu ứng nhà kính, vai trò của rừng trong việc giảm lượng khí CO2 là rất quan trọng.

Rừng điều tiết nước, phòng chống lũ lụt, xói mòn: Rừng có vai trò điều hòa nguồn nước giảm dòng chảy bề mặt chuyển nó vào lượng nước ngấm xuống đất và vào tầng nước ngầm. Khắc phục được xói mòn đất, hạn chế lắng đọng lòng sông, lòng hồ, điều hòa được dòng chảy của các con sông, con suối (tăng lượng nước sông, nước suối vào mùa khô, giảm lượng nước sông suối vào mùa mưa).

Rừng bảo vệ độ phì nhiêu và bồi dưỡng tiềm năng của đất: ở vùng có đủ rừng thì dòng chảy bị chế ngự, ngăn chặn được nạn bào mòn, nhất là trên đồi núi dốc tác dụng ấy có hiệu quả lớn, nên lớp đất mặt không bị mỏng, mọi đặc tính lý hóa và vi sinh vật học của đất không bị phá hủy, độ phì nhiêu được duy trì. Rừng lại liên tục  tạo chất hữu cơ. Điều này thể hiện ở qui luật phổ biến: rừng tốt tạo ra đất tốt, và đất tốt nuôi lại rừng tốt.                           Nếu rừng bị phá hủy, đất bị xói, quá trình đất mất mùn và thoái hóa dễ xảy ra rất nhanh chóng và mãnh liệt. Ước tính ở nơi rừng bị phá hoang trơ đất trống mỗi năm bị rửa trôi mất khoảng 10 tấn mùn/ ha. Đồng thời các quá trình feralitic, tích tụ sắt, nhôm, hình thành kết von, hóa đá ong, lại tăng cường lên, làm cho đất mất tính chất hóa  lý, mất vi sinh vật, không giữ được nước, dễ bị khô hạn, thiếu chất dinh dưỡng, trở nên rất chua, kết  cứng lại, đi đến cằn cỗi, trơ sỏi đá. Thể hiện một qui luật cũng khá phổ biến, đối lập hẳn hoi với qui luật trên, tức là rừng mất thì đất kiệt, và đất kiệt thì rừng cũng bị suy vong, chúng ta có thể tóm tắt như sau       

Điều đó đã giải thích vì sao trong việc phá rừng khai hoang trước đây ở miền đồi núi, dù đất đang rất tốt cũng chỉ được một thời gian ngắn là hư hỏng.

Ngoài ra Rừng có vai trò rất lớn trong việc:  chống cát di động ven biển, che chở cho vùng đất bên trong nội địa, rừng bảo vệ đê biển,  cải hóa vùng chua phèn, cung cấp gỗ, lâm sản, Rừng nơi cư trú của rất nhiều các loài động vật:. Động vật rừng nguồn cung cấp thực phẩm, dược liệu, nguồn gen quý, da lông, sừng thú là những mặt hàng xuất khẩu có giá trị.

19 tháng 12 2020

thankyou bạn

 

30 tháng 10 2017

Các nguyên nhân khác khiến rừng bị tàn phá: Do chiến tranh, chất độc hóa học, phóng xạ, cháy rừng,…

28 tháng 10 2021

Có nhiều lí do khiến rừng bị tàn phá: đốt rừng làm nương rẫy, chặt cây lấy gỗ, đóng đồ dùng gia đình, để lấy đất làm nhà, làm đường,…

- Việc phá rừng ồ ạt đã làm cho:

+ Khí hậu bị thay đổi ; lũ lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên 

+ Đất bị xói mòn trở nên bạc màu

+ Động vật và thực vật quý hiếm giảm dần, một số loài đã bị tuyệt chủng và một số loài có nguy cơ bị tuyệt chủng.

28 tháng 10 2021

Có nhiều lí do khiến rừng bị tàn phá: đốt rừng làm nương rẫy, chặt cây lấy gỗ, đóng đồ dùng gia đình, để lấy đất làm nhà, làm đường,…

20 tháng 7 2021

Đây nè bạn. Nhớ tick hộ mik nhé ✔
  ⚠Việc phá rừng đã làm cho :
 → Khí hậu bị thay đổi; lũ lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên.
 → Đất bị xói mòn trở nên bạc màu.
 → Động vật và thực vật quý hiếm giảm dần, một số loài đã bị tuyệt chủng và một số loài có nguy cơ bị tuyệt chủng. 

20 tháng 7 2021

Phá rừng ảnh hưởng đến động vật hoang dã, thực vật và con người theo ít nhất bốn cách riêng biệt:

Xói mòn đất: có thể dẫn đến tắc nghẽn đường dẫn nước, sạt lở đất và các vấn đề khác.

Vòng tuần hoàn của nước bị ảnh hưởng có thể dẫn đến sa mạc hóa và mất môi trường sống.

Khí nhà kính dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu

Mất đa dạng sinh học có thể dẫn đến sự tuyệt chủng và mất đi vẻ đẹp của tự nhiên.

24 tháng 5 2016

     Chắc đủ dài roay!  banh

Tài nguyên rừng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của loài người, rừng là cái nôi của sự sống, là lá phổi xanh của nhân loại, có giá trị to lớn trong việc phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ nước chống xói mòn, rửa trôi, lũ lụt, hạn hán, cung cấp nguồn nước sạch sinh hoạt và sản xuất cho con người. Rừng là bảo tàng sống sinh động nhất, có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, trong đó có nhiều nguồn gen quý hiếm. Rừng phục vụ cho việc phát triển các ngành nông nghiệp, thủy lợi, thủy điện, công nghiệp, du lịch, an ninh quốc phòng,... Ngoài ra sản phẩm của rừng như gỗ và lâm sản ngoài gỗ phục vụ các nhu cầu thiết yếu của cộng đồng các dân tộc từ miền núi, nông thôn đến thành thị.

Từ xưa đến nay, nói đến giá trị của rừng ông cha ta thường kể đến các loài gỗ quý như đinh, lim, sến, táu, dổi, vàng tâm,... để xây dựng nhà cửa, đóng đồ mộc trang trí trong nhà chứ ít ai nhắc đến các sản vật khác lấy từ rừng, có nhiều lúc những sản phẩm tưởng như rất đơn giản này lại chính là cứu cánh cho sự sống còn, tồn vong và phát triển của con người, đó là các loài cây cho lương thực, thực phẩm thu hái trong rừng vào những năm đói kém hay vào thời gian giáp hạt, những căn bệnh hiểm nghèo duy nhất chỉ trông chờ vào các phương thuốc quý giá từ cây cỏ trong thiên nhiên. Những loại sản vật kể trên nói theo cách ngày nay được gọi là lâm sản ngoài gỗ (LSNG).

Rừng nước ta thuộc vùng nhiệt đới nên rất đa dạng và phong phú, cho đến nay về thực vật đã ghi nhận 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 2.524 chi của 378 họ. Về động vật ghi nhận 289 loài thú, 828 loài chim, 258 loài bò sát và 82 lưỡng cư và 1.340 loài côn trùng. Nghệ An là một trong những tỉnh có tài nguyên và diện tích rừng lớn nhất cả nước, riêng Vườn quốc gia Pù Mát đã ghi nhận 2.494 loài thực vật và 919 loài động vật, còn hai Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) là Pù Huống, Pù Hoạt và nhiều khu rừng khác chưa được điều tra đầy đủ đang ẩn chứa đựng nhiều loài động thực vật có giá trị.

Phần lớn người dân sống ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa là đồng bào các dân tộc thiểu số như Thái, Kh'Mú, H'Mông, Thổ, Ơ Đu... từ lâu sống chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Ngoài lấy gỗ để xây dựng nhà cửa thì con người sử dụng rất nhiều loài lâm sản khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất hàng ngày. Tuy nhiên, khi xã hội càng phát triển, tốc độ gia tăng dân số càng nhanh, áp lực về lương thực, thực phẩm ngày càng lớn, tình trạng chặt phá rừng diễn ra gay gắt, tài nguyên rừng bị suy thoái nghiêm trọng, chất lượng rừng giảm sút và xuống cấp đáng báo động, nhất là các khu rừng đặc dụng, người dân vẫn công khai hoặc lén lút chặt phá, khai thác các sản phẩm từ rừng, làm cho tài nguyên này trở nên cạn kiệt, nhiều loài đang đứng trước nguy cơ diệt chủng.

Lâu nay nói đến bảo tồn tài nguyên rừng người ta thường quan tâm đến những nguồn gen cây gỗ hay một loài động vật đang bị tuyệt chủng, loài quý hiếm, đặc hữu nào đó hay là toàn bộ hệ sinh thái rừng đặc trưng cho vùng, cho một khu vực mà chưa quan tâm đến yếu tố mang lại nguồn lợi cho người dân để nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo, giảm áp lực phá rừng bừa bãi, đó là các sản phẩm LSNG. Trong một thời gian dài các sản phẩm LSNG bị xem thường và đến một lúc nào đó nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu bảo tồn và phát triển chúng thì không những ảnh hưởng đến đời sống của người dân miền núi, vùng sâu, vùng xa mà còn đe dọa suy thoái tính đa dạng sinh học của rừng, hệ sinh thái rừng.

Thực trạng khai thác lâm sản ngoài gỗ.

Qua tìm hiểu thực tế một số huyện Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương,... cho thấy có nhiều loài quý hiếm, loài cấm hoặc hạn chế khai thác, loài có giá trị cao đang bị khai thác quá mức. Trong đó nhiều loài làm thuốc chữa bệnh có giá trị như bách bộ (Stemona tuberosa Lour.), thổ phục linh (Smilax glabra Roxb.), củ mài (Dioscorea persimilis Prain et Burk.), lá khôi (Ardisia sylvestris Pit.), cốt toái bổ (Drynaria bonii Christ), đẳng sâm (Condonopsis javanica (Blume) Hook.f.), ba kích (Morinda officinalis F.C.How.), sắn dây rừng (Pueraria montana (Lour.) Merr.),...

Nhiều loài đan lát thủ công mỹ nghệ như song mây, theo người dân sống ở vùng đệm Pù Huống, trước đây đi vào rừng chỗ nào cũng gặp nhưng đến nay trở nên hiếm, nguyên nhân do người dân khai thác quá mức, người dân lại có phong tục ngoài lấy thân mây trưởng thành còn đào lấy cả chồi non (đọt mây) làm rau ăn nên nguồn giống bị mất dần đến nay trở nên hiếm, cho nên việc tìm giống ở địa phương để gây trồng gặp khó khăn.

Nhiều loài cây cho tinh dầu cũng bị khai thác lạm dụng. Quế là một trong những loài bản địa có giá trị, trước đây sản phẩm nổi tiếng quế quỳ và quế quảng đã được thương lái Sài Gòn thu mua, qua con đường Hồng Kông xuất khẩu sang Hoa Kỳ, bán trên thị trường San Francisco với thương hiệu "Sai gon cassia". Trong đó quế quỳ được xếp vào loại nhất (theo Tập san kinh tế Viễn đông, quý IV năm 1941). Do đó, quế quỳ được mệnh danh là "Nhất quế quỳ, nhì quế quảng". Tuy nhiên, trong thời kỳ bao cấp một phần Nhà nước phát động trồng quế đại trà nên có nhiều nguồn giống quế được đem vào trồng, một phần quế quỳ nổi tiếng nên bị khai thác quá mức do vậy mà ngày nay nguồn gen quý hiếm này có nguy cơ biến mất và khó xác định. Một loài khác cho giá trị tinh dầu quý là trầm hương (Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte) cũng là đối tượng săn lùng những năm 1990 -1995 nên bị khai thác kiệt quệ, cây trong rừng tự nhiên trở nên hiếm. Các loài như vù hương (Cinnamomum balansae Lecomte), re hương (Cinnamomum parthenoxylon Meisn.) bị đe dọa cao, trong rừng tự nhiên chúng bị khai thác toàn bộ cây chưng cất tinh dầu nên cạn kiệt dần. Cây dây nhớt (Tiliacus sp.) làm hương liệu, được thu mua nhiều trên thị trường, cho thu nhập cao, nhưng người dân thường tước vỏ từ gốc đến ngọn cây nên cây dễ bị chết. Hương bài cũng cho một loại tinh dầu quý nhưng cho đến nay vẫn chưa được chú ý gây trồng và phát triển. Các loài cây cho hương liệu khác chủ yếu được nhân dân thu hái trong rừng bán hoặc sử dụng vào công dụng khác.

Đối với mật ong rừng thì người dân còn có tập tục là khai thác cả tổ, lấy mật và bắt luôn cả đàn ong ngâm rượu nên lượng mật ong khai thác bị giảm đáng kể, do đó khi khai thác ngoài khai thác đúng mùa vụ cho mật thì không nên bắt ong con, trừ trường hợp gây nuôi. Còn với cánh kiến đỏ, trước đây là một nghề truyền thống của đồng bào vùng cao xã Quang Phong, Cắm muộn,... (huyện Quế Phong), Hữu Kiệm, Hữu Lập,... (huyện Kỳ Sơn) nhưng theo thời gian bị mai một dần. Hiện nay, các ngành, các cấp đang giúp người dân khôi phục và phát triển, gây nuôi trên các cây rừng tự nhiên như đậu thiều, píc niễng,...

Kết quả khảo sát thu mua LSNG tại 3 huyện Quỳ Hợp, Quỳ Châu và Quế Phong cho thấy có 10 loại sản phẩm LSNG bị suy giảm nghiêm trọng bao gồm sắn dây rừng, hoàng đằng, thổ phục linh, thiên niên kiện, bách bộ, cẩu tích, vỏ dây nhớt, lá khôi, rễ chay, củ mài. Có 7 sản phẩm tương đối ổn định, ít biến động như hoa chít, quả tai chua, quả sa nhân sẹ, quả cau, dây guột, nhựa cánh kiến đỏ, vỏ quế. Có một loại sản phẩm măng là tăng dần theo các năm.

Nguyên nhân suy thoái tài nguyên lâm sản ngoài gỗ.

Nguyên nhân trực tiếp.

1. Cách thu hái, khai thác chưa phù hợp: Nhiều loài bị khai thác không đúng với bộ phận sử dụng của chúng hoặc khai thác đúng bộ phận nhưng lại khai thác kiệt. Ví dụ như lá khôi thì chỉ cần thu hái lá mà không cần đào cả thân, rễ. Những cây lấy quả hạt như trám, tai chua, dẻ,... chỉ thu hái quả mà không cần phải đốn cả cây. Cây lấy rễ củ như bách bộ, hoàng đằng, thổ phụ linh, cẩu tích, hà thủ ô trắng, củ mài... chỉ nên thu hái một phần rễ cho cây tái sinh hoặc thu hái xong phải lấp chồi gốc lại cho tái sinh mùa sau. Những cây lấy thân, măng như các loài tre nứa thì không khai thác kiệt hết cả khóm bụi mà nên chừa lại một số cây cho tái sinh, phát triển mùa sau. Như vậy do hình thức thu hái không phù hợp mà nhiều loài mất giống, loài không còn khả năng tái sinh, loài không kịp tái sinh dẫn tới sẽ bị diệt vong.

2. Lịch thu hái một số loài LSNG không đúng thời vụ: Trong hoạt động sản xuất cũng như tự nhiên thì các loài cây sẽ cho các sản phẩm có chất lượng cao trong một thời gian, mùa vụ nhất định, do đó mà khi thu hái con người phải biết vận dụng để mang lại hiệu quả cao nhất. Kết quả khảo sát 50 loài, nhóm loài chính được trao đổi buôn bán trên thị trường cho thấy có 19 loại sản phẩm thu hái cả năm, 31 loại thu hái theo mùa vụ. Tuy nhiên, đối với các loài thu hái cả năm, người dân khai thác cả thời kỳ cây ra hoa kết quả, điển hình là các loài song mây, rễ chay, hoàng đằng, sắn dây rừng, dây nhớt,... dẫn tới nhiều loài không còn nguồn hạt để phát tán, dẫn giống mở rộng phạm vi phân bố cho các thế hệ tiếp theo do đó cây trở nên khan hiếm dần nguy cơ đe dọa diệt chủng. Nhiều loài cây khai thác đúng mùa vụ như cây lấy quả như quả sa nhân sẹ, sở, trẩu, dẻ,... Nhưng muốn nâng cao năng suất và chất lượng thì người dân phải làm giàu rừng, xúc tiến tái sinh tự nhiên bằng cách trồng thêm, khoanh nuôi các loài cây trên để tạo ra hàng hóa cho thu nhập cao và ổn định.

3. Cường độ khai thác LSNG quá cao: Kết quả điều tra tại một điểm thu mua LSNG ở bản Nật Trên cho thấy trong năm 2003 (từ tháng 10 đến tháng 12) khối lượng thu mua rễ hoàng đằng mỗi ngày 1 tấn, sang năm 2005 cũng thời gian đó, mỗi ngày chỉ thu mua được 0,3 tấn. Một người dân mỗi ngày thu hái hái cho thu nhập 60.000 - 70.000 đồng cao hơn nhiều lần so với làm rẫy. Việc thu mua LSNG với khối lượng không hạn chế đồng nghĩa với việc người dân tăng cường cường độ khai thác, họ huy động mọi người trong gia đình, cả bản cùng vào rừng khai thác với phương thức tìm diệt, triệt, hạ dẫn tới nguồn tài nguyên LSNG bị cạn kiệt dần, không còn khả năng tái sinh, nhiều loài bị đe dọa ở mức cao.

4. Phát đốt chặt phá rừng làm nương rẫy: Việc đốt nương làm rẫy là phong tục truyền thống lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao. Tuy nhiên, một số hộ dân vẫn chặt đốt rừng phòng hộ, rừng đặc dụng hoặc rừng sản xuất được giao. Việc đốt nương làm rẫy nói chung và đốt rừng trái phép đều là nguyên nhân dẫn đến suy thoái tài nguyên rừng trong đó có các loài LSNG.

5. Khai thác gỗ: Đối với những loài khai thác gỗ thì cũng là nguyên nhân suy thoái LSNG, nhưng thông thường khai thác những sản phẩm LSNG từ cây gỗ như sến mật, lim xanh, dâu da xoan,... chưa có giá trị cao mà chủ yếu gỗ vẫn là sản phẩm chính do đó nguyên nhân này cần kết hợp bảo tồn những loài cây gỗ quý hiếm.

Nguyên nhân gián tiếp.

1. Đói nghèo: Đói nghèo là nguyên nhân của mọi vấn đề, đối với việc suy giảm tài nguyên LSNG cũng vậy, kết quả khảo sát hộ đói nghèo (năm 2005) một số xã như Châu Cường (32%), Châu Thành (36%), Châu Hoàn (33%), Diên Lãm (34%),... Như vậy số hộ đói nghèo vẫn còn rất lớn, nên người dân phải vào rừng khai thác gỗ và LSNG.

2. Đất dùng cho sản xuất nông nghiệp ít, dân số ngày càng tăng: Tuy tổng diện tích tự nhiên của các xã miền núi rất lớn nhưng hầu hết là rừng và đất rừng. Nhiều nơi rừng và đất rừng lại nằm dưới sự quản lý của các Ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và các Công ty lâm nghiệp. Do diện tích canh tác bị thu hẹp, đất nông nghiệp dành cho sản xuất lúa nước lại rất ít (một số bản như bản Cướm xã Diên Lãm chỉ có 87m2 mỗi người). Các hộ dân lại dân sống xen kẽ trong rừng hàng trăm năm nay nhưng đất thuộc quyền quản lý của các cơ quan Nhà nước nên họ không được khai thác các LSNG, phát đốt làm nương rẫy. Trao đổi với chúng tôi, nhiều người dân tại Bản Khì xã Châu Cường (huyện Quỳ Hợp) than phiền rằng ông cha họ sống tồn tại và phát triển đến nay nhờ dựa vào rừng nhưng nay Nhà nước khoanh vùng không cho họ có đất thì lấy gì mà làm ăn. Không đủ đất cho người sản xuất tăng thu nhập nên người dân phải vào rừng thu hái LSNG, nhưng rừng thuộc các đơn vị Nhà nước quản lý nên họ tịch thu hết các LSNG của người dân khai thác ở trong rừng.

3. Trình độ dân trí thấp: Kết quả điều tra cho thấy số người mù chữ vẫn còn nhiều, đơn cử tại xã Diên Lãm (năm 2005) có 700/2.380 người chiếm 34,11% nhân khẩu toàn xã. Số trẻ em bỏ học còn nhiều, phần vì đường sá xa, đi lại khó khăn, trường cách lối với bản, phần vì gia đình nghèo đói. Do trình độ dân trí thấp nên nhận thức của người dân của người dân về chính sách pháp luật của Nhà nước còn hạn chế, phương tiện thông tin thiếu nên chưa nhận biết được các loài cây quý hiếm cần bảo vệ, không nắm được thông tin về thị trường LSNG trong nước và xuất khẩu, chưa biết cách sơ chế, bảo quản một số loài LSNG.

4. Tác động của kinh tế thị trường: Quy luật kinh tế thị trường tác động vào mọi mặt đến đời sống kinh tế xã hội của các vùng miền khác nhau. Giá trị và giá trị sử dụng của các loài LSNG ngày càng được đánh giá cao trên thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là các loài có giá trị xuất khẩu, khối lượng thu mua lớn, lợi nhuận đem lại cao kích thích người dân khai thác LSNG càng lớn.

5. Hiệu lực pháp luật và chính sách công tác quản lý LSNG: Các cơ quan quản lý Nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến LSNG, chưa có hình thức tuyên truyền vận động thích hợp, công tác quản lý còn lỏng lẻo nên vẫn để cho người dân, các đại lý thu mua một số loài LSNG quý hiếm, loài nằm trong danh mục cấm khai thác và hạn chế khai thác dẫn tới nguồn LSNG có giá trị cao ngày càng trở nên hiếm. Nhà nước chưa đầu tư thích đáng cho việc phát triển LSNG, đặc biệt là các loài quý hiếm, loài có giá trị kinh tế cao. Một số vùng người dân trồng còn manh mún, tự phát chưa tạo lập được thị trường ổn định và vững chắc.

6. Phong tục tập quán của cộng đồng: Từ lâu đời cộng đồng các dân tộc thiểu số vẫn xem rừng là kho báu thiên nhiên vô tận nên họ chỉ biết ỉ lại, dựa dẫm vào tài nguyên thiên nhiên, trong đó có LSNG mà chưa biết gây trồng và phát triển chúng để phục vụ cho lợi ích của gia đình và cộng đồng.

Các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp trên đây, mỗi nguyên nhân không tách rời nhau mà có mối quan hệ qua lại biện chứng, nguyên nhân này ảnh hưởng đến nguyên nhân kia và ngược lại.

Giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững lâm sản ngoài gỗ.

Nâng cao nhận thức cho cộng đồng, đây là giải pháp vừa mang tính cấp thiết trước mắt, vừa mang tính chất lâu dài. Tạo ra nhiều việc làm cho cộng đồng đây là giải pháp mang tính ổn định và lâu dài. Định canh, định cư, quy vùng sản xuất nương rẫy, giao đất, giao khoán rừng phòng hộ, rừng đặc dụng cho người dân quản lý, bảo vệ. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về rừng, trong đó có LSNG. Thiết lập mạng lưới thị trường tiêu thụ ổn định, lâu dài về LSNG. Nghiên cứu, quy hoạch đầu tư phát triển các loài LSNG có giá trị kinh tế cao. Khuyến khích bảo tồn và phát triển dựa trên các kiến thức bản địa của cộng đồng về LSNG.

Hoạt động bảo tồn.

1. Xây dựng chương trình nghiên cứu tổng hợp, mở rộng quy mô và đối tượng điều tra, đi sâu tìm hiểu đặc điểm sinh thái, sinh vật học của từng loài LSNG, đánh giá mức độ phong phú, trữ lượng các loài có giá trị kinh tế, tìm hiểu phong tục tập quán, kiến thức bản địa về các loài LSNG làm cơ sở cho việc quy hoạch và đưa ra các biện pháp quản lý, bảo tồn và phát triển phù hợp cho từng loài, cho từng cộng đồng và từng vùng miền.

2. Nâng cao nhận thức về bảo tồn và phát triển các loài LSNG, chú trọng đến những loài có giá trị kinh tế tạo thu nhập cho người dân thông qua học tập, tuyên truyền, đào tạo, tập huấn, phổ biến chính sách và pháp luật Nhà nước cho cộng đồng người dân sống miền núi, vùng sâu, vùng xa.

3. Đối với một số cây thuốc và bài thuốc cần có điều tra nghiên cứu tỷ mỷ các cây thuốc và vị thuốc quý của đồng bào Thái, Khơ Mú, H' Mông, Thổ... được dùng trong cộng đồng và của các ông lang, bà mế. Cần tài liệu hóa để lưu giữ bảo tồn, phát triển không để mất đi những kiến thức y học cổ truyền quý giá của đồng bào thiểu số.

4. Thành lập các nhóm yêu thích LSNG trong cộng đồng thôn bản, thiết lập một quy chế về quản lý, khai thác, sử dụng các sản phẩm LSNG để nhóm và cộng đồng thực hiện. Quy chế cần định rõ về số lượng, đối tượng được khai thác, phương thức khai thác, nơi khai thác, bộ phận được khai thác, thời gian và luân kỳ khai thác, khai thác kết hợp với tái sinh. Các nhóm này hoạt động dưới sự giám sát của cộng đồng, chính quyền địa phương và được đào tạo tập huấn về cách nhận biết, cách thu hái, mùa vụ thu hái, cách chế biến, bảo quản, gây trồng và thông tin thị trường trong và ngoài nước về LSNG.

5. Do các sản phẩm LSNG thu hái đang còn bán nguyên liệu thô tại chỗ, chưa qua chế biến nên giá thành rẻ, dễ bị mốc, mối, mọt hư hỏng làm chất lượng giảm sút. Vì vậy cần có giải pháp hỗ trợ nghiên cứu đầu tư các dây chuyền chế biến đơn giản một số sản phẩm có giá trị kinh tế cao tại một số bản, xã, vùng, giúp nâng cao chất lượng và giá thành các sản phẩm.

6. Thiết lập thị trường tìm đầu ra cho sản phẩm LSNG, tổ chức dạy nghề tạo việc làm, khôi phục các làng nghề để cộng đồng cùng tham gia sản xuất các mặt hàng có giá trị kinh tế cao dùng cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu như làm chổi đót, làm hương, đan lát mây tre đan mỹ nghệ xuất khẩu... tạo thu nhập ổn định cho cộng đồng dân cư sống gần rừng.

7. Đầu tư kinh phí, hỗ trợ kỹ thuật hướng dẫn cho người dân nhân rộng các mô hình phát triển các loài LSNG bản địa có giá trị kinh tế cao sẵn có tại một số vùng miền như lá khôi tím, sở, luồng, riềng, nuôi thả ong mật, cánh kiến đỏ,... phù hợp cho từng vùng sinh thái. Lựa chọn danh sách các loài cây chủ lực để phát triển làm giàu rừng, tạo ra nhiều sản phẩm LSNG hàng hóa cung cấp cho thị trường.

8. Xây dựng các vườn ươm quy mô hộ gia đình để gieo ươm một số loài cây vừa cho gỗ và cho LSNG, vừa có tác dụng phòng hộ tốt như xoan ta, quế quỳ, luồng, mây tắt,... để cung cấp tại chỗ cho bà con gây trồng, giảm chi phí vận chuyển, tiếp cận và làm chủ được khoa học kỹ thuật trong sản xuất.

9. Tiếp tục triển khai chính sách định canh, định cư, quy hoạch vùng nương rẫy, ngăn chặn tình trạng lấn chiếm, phát đốt đất rừng trái phép làm nương rẫy. Tiến hành giao khoán bảo vệ rừng cho người dân sống trong khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ để tạo thu nhập cho họ không còn phá rừng và khai thác LSNG bừa bãi.

10. Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ và phát triển LSNG nói chung và những loài quý hiếm, loài cấm và hạn chế khai thác nói riêng bằng hình thức quản lý chặt chẽ những người dân xâm nhập vào các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ để khai thác LSNG, kiểm tra các chủ đại lý thu mua LSNG, xem xét nguồn gốc hợp pháp hay bất hợp pháp của các loài có trong danh mục cấm, hạn chế khai thác và loài quý hiếm.

25 tháng 5 2016

j

9 tháng 10 2016

Con người sống, tồn tại, làm việc, giải trí hàng ngày trong một môi trường sống trong sạch. Một trong những yếu tố tạo nên sự trong sạch đó chính là "rừng". 

Không phải dĩ nhiên mà trái đất được gọi là hành tinh xanh. Với diện tích lớn là biển, rừng và tầng ôzôn bao quanh, trái đất với điều kiện lý tưởng ấy là nơi bắt nguồn cho sự sống - một điều mà chưa hành tinh nào có. Đặc biệt là rừng - một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người. 

Rừng là gì? Đó là một quần lạc sinh địa, trong đó sinh vật rừng, đất và khí hậu tạo thành một thể thống nhất, có quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau. Nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Vậy thì tại sao rừng lại có một ảnh hưởng lớn như vậy đến cuộc sống con người? 

Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển. Hãy thử tưởng tượng xem nếu như trái đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân. Nói cách khác không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt. 

Đố các bạn đây là cái gì?

Cuộc sống con người không chỉ được quyết định ở yếu tố vật chất mà nó còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên khách quan. Trong đó xói mòn đất là một hiện tượng tự nhiên thường xảy ra nơi những vùng dồi dào, đất trọc ít cây bao phủ. Xói mòn làm cho lớp đất mặt bị rửa trôi, tạo thành khe rãnh gây lũ lụt, đất trôi lở... ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống con người. Rồi hiện tượng gió, gió mạnh ảnh hưởng lớn đến cây rừng làm giảm 30 - 90% sự đồng hóa thực vật, gió nóng làm giảm khả năng thụ phấn của cây, dèm cát vùi lấp đồng ruộng, nhà cửa... Tất cả những thiên tai khủng khiếp đó đều có thể được ngăn chặn hoặc giảm bớt bằng cách trồng cây xanh. Rừng điều hòa khí hậu, điều tiết dòng chảy trên mặt đất, bảo vệ, cải tạo làm tơi xốp đất, giữ nước cho sản xuất, hạn chế sức phá hoại của gió ngăn sự di chuyển của cát vào sâu đất liền, ngăn chặn gió, bão, mùa màng, làng xóm. Không chỉ thế rừng còn là nguồn cung cấp cho con người gỗ, củi, hoa quả và làm phân xanh. Có thể nói rừng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi con người. 

Không chỉ là yếu tố, thành phần chính trong hoàn cảnh sống của con người mà rừng còn là môi trường sống của rất nhiều động vật quý hiếm. Rừng có các loại cây từ thấp lên cao. ở mỗi tầng là một môi trường hoàn cảnh thích nghi riêng biệt với từng loài vật. Nào thỏ, hươu, nai, hổ đến khỉ, vượn, sóc, chim... đó là những loài động vật rất quý hiếm mà môi trường sống duy nhất của chúng chính là rừng - thiên nhiên hoang dã. 

Trong rừng có rất nhiều loài gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu,... rồi các loại thuốc quý. Có những khu rừng được con người trồng lên để phục vụ cho chế biến công nghiệp như rừng cao su, rừng tre, nứa, keo tai tượng,.... 

Bên cạnh đó rừng còn là môi trường sinh thái trong lành - một địa điểm du lịch lý thú, một danh lam thắng cảnh tuyệt vời đầy bí ẩn, hoang dã và tràn đầy hấp dẫn, lôi cuốn. 

Ảnh hưởng lớn và có tính chất quyết định đến sự sống con người rừng còn rất có ích với các lĩnh vực khác như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, dịch vụ... hiểu rõ được những lợi ích và ảnh hưởng của rừng ta mới thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của nó như thế nào? 

Đất nước ta với ba phần tư diện tích là rừng, đồi núi - một điều kiện thiên nhiên tuyệt vời. Vậy mà giờ đây diện tích rừng đó còn lại bao nhiêu? Không hiểu rõ tầm quan trọng của rừng rất nhiều người đã chặt phá cây bừa bãi nhất là những người dân thiếu hiểu biết "đốt nương làm rẫy" khai phá rừng một cách vô ý thức. Nhưng cũng có những người biết được lợi ích của rừng hiểu được sự sai trái trong hành động của mình nhưng vẫn chặt trộm, khai khác rừng trái phép để kiệm lợi về mình. Hậu quả của những việc chặt phá, khai thác thiếu quy củ, đốt rừng, phá rừng ấy thật không thể tưởng tượng được. Từng tự hào với cánh rừng U Minh rộng lớn, phong phú thì nhưng chỉ vì thiếu ý thức, công tác quản lý kém mà hàng trăm, hàng nghìn hecta rừng bị phá hủy, thiêu rụi trong ngọn lửa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường người dân và thiệt hại hàng trăm tỷ đồng của nhà nước. Những vùng đồi xanh đẹp đẽ xưa kia những cánh rừng nguyên sinh xưa kia giờ đây chỉ còn là những quả đồi trọc, những khu rừng thứ sinh. Tiếp theo đó là những thảm họa thiên nhiên liên tục xảy ra nào hạn hán, nào lũ lụt, nào sụt lở đất... làm thiệt hại bao tiền của và đau đớn hơn là tính mạng của những người dân vô tội. Không có rừng thì lấy cái gì để ngăn chặn lũ lụt, điều hòa không khí, để chống xói mòn, để bảo vệ làng mạc. Những tai hại to lớn và khủng khiếp ấy đều chỉ vì một sự vô ý thức, sự thiếu hiểu biết và hám lợi của một số cá nhân gây ra. 

Mất rừng đồng nghĩa với việc môi trường sống của con người đang dần dần bị tàn phá, hủy hoại. Những loại động vật hoang dã cũng mất đi môi trường sống của mình. Đã bao loài động vật bị tuyệt chủng, bị đem vào danh sách đỏ. Nguy cơ tuyệt chủng tất cả cũng vì chặt phá rừng. 

Hiểu rõ tầm quan trọng, thấy rõ những hậu quả của việc tàn phá rừng, chúng ta thêm phần yêu quý và biết bảo vệ rừng hơn. 

Hiện nay Đảng và chính quyền nhà nước ta đã có những biện pháp thích hợp và quản lý chặt chẽ trong việc khai thác rừng. Bằng cách khai thác hợp lý kết hợp với việc tái tạo rừng, nhiều khu rừng đã được phục hồi "phủ xanh đồi trọc". 

Tác động của con người tới tái sinh tự nhiên là rất lớn bởi trong tái sinh tự nhiên thường gặp hoàn cảnh bất lợi, ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt, sự sinh trưởng của cây con. Để khắc phục người sản xuất phải chủ động tạo hoàn cảnh sống thích hợp bằng cách chặt phá những cây, cành mọc quá rậm, phát bớt bụi để hạt tiếp xúc nảy mầm dễ và xới đất tơi xung quanh gốc. Là học sinh, sinh viên chúng ta có thể góp sức nhỏ của mình trong công cuộc cải tạo rừng bằng cách tuyên truyền tầm quan trọng của rừng, hậu quả của việc khai thác trái phép và có thể trồng cây quanh nhà để góp phần làm trong sạch không khí, môi trường sống trong xóm làng. 

Hãy yêu quý và bảo vệ rừng để trái đất của chúng ta mãi là "hành tinh xanh" "Tổ quốc Việt Nam yêu dấu, có sạch đẹp mãi được không. Điều đó tuỳ thuộc hành động của bạn, chỉ thuộc vào bạn mà thôi".

 

Đề bài: Em hãy viết một bai văn thuyết minh về vai trò cây xanh trong việc bảo vệ môi trường. 

Xã hội ngày càng hiện đại, nạn ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng, ảnh hưởng lớn đến đời sống sức khỏe của con người. Từ lâu, các nhà khoa học, các tổ chức bảo vệ môi trường đã không ngừng tìm kiếm những biện pháp tích cực để đi đến kết luận: trợ thủ đắc lực nhất giúp chúng ta bảo vệ môi trường trong sạch chính là cây xanh.

Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sống, sản xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội,… Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố tự nhiên như vật lí, hóa học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít chịu nhiều tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi rừng biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước,… Môi trường tự nhiên cho ta không khí để ở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.

Trong môi trường sống tự nhiên đó của con người, cây xanh có vai trò cực kì quan trọng. Nó điều hòa không khí nhờ khả năng hấp thu năng lượng mặt trời, xả hơi nước mát vào không khí, hấp thu các khí độc hại trong môi trường, đồng thời nhả khí oxi vào môi trường.

Cây xanh là cái máy điều hòa tự nhiên tuyệt vời nhất: Nó hấp thu và phản xạ năng lượng mặt trời chiếu xuống đất làm giảm sức nóng của trái đất, hấp thu khí cacbonnic, gây hiệu ứng nhà kính. Cái máy điều hòa không khí nhân tạo chỉ có thể làm mát trong nhà và thải khí nóng vào môi trường. Mặt khác, chúng cần năng lượng để hoạt động nên nó càng làm cho môi trường nóng lên, chưa kể đến các khí chạy máy lạnh còn hủy hoại tầng ôzôn. Như vậy, máy lạnh chỉ là thiết bị làm mát tạm thời trong một phạm vi rất nhỏ mà thôi, trong khi cây xanh lại chính là caí máy điều hòa không khí vĩ đại của chúng ta. Những số liệu tin cậy của các nhà vệ sinh học kết luận rằng, ngồi dưới bóng cây bàng ta bớt được bốn lần cái nắng cháy da buổi trưa hè trên đường nhựa. Các tầng lá cây xanh có tác dụng cản 50% bụi đường, tính ra trong một vụ hè, một trăm cây xanh ở đường phố đã giữ lại 340kg bụi để giũ xuống mặt đường sau mỗi trận mưa. Cây cối còn là hàng rào cách li tiếng động, hấp thụ và hắt lại những sóng âm thanh hỗn tạp để khỏi làm chấn động thần kinh. Người ta ví rất đúng: cây xanh là lá phổi của hành tinh chúng ta. Không có cây xanh thì chẳng mấy chốc muôn loài sẽ ngạt thở. Cây xanh ngăn cản và lọc khí độc trong không khí. Trong rừng thông, rừng bá thông không khí dường như vô trùng. Lượng vi trùng gây bệnh trong không khí ở nông thôn có nhiều cây xanh hay rừng ít hơn ở thành phố khoảng 10 lần. Cây xanh nhả ra các ion âm rất có lợi cho sức khỏe chúng ta qua đường hô hấp. Các ngôi nhà, đường sá, trường học được bao phủ cây xanh sẽ vô cùng có lợi cho sức khỏe con người. Tâm hồn chúng ta sẽ trở nên dịu lắng, thanh thoát, minh mẫn, sảng khoái. Ngược lại, thiếu cây xanh, không những bệnh tật dễ hoành hành , sức khỏe con người bị ảnh hưởng nghiêm trọng mà tâm hồn con người cũng có nguy cơ bị chai cứng, dễ sinh các tổn thương về tinh thần. Đối với con người trên hành tinh chúng ta, cây xanh là một vị thần hòa giải tuyệt vời.

Cây xanh là nguồn nhiên liệu và năng lượng quý giá cho cuộc sống. Trồng, chăm sóc cà bảo vệ cây xanh chính là hành động thiết thực nhất nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ chính cuộc sống của chúng ta. Đó vừa là lời khuyến cáo của các nhà khoa học vừa là nguyện vọng thiết tha, chân thành của mỗi con người trong cuộc sống hôm nay. Trồng một cây xanh cho mình, cho ngôi nhà của mình chẳng khó gì. Trồng một cây xanh cho hôm nay cũng là trồng một cây xanh cho thế hệ mai sau.

Nguồn: Kênh tri thức

 

Thuyết minh về vai trò của cây cối trong việc bảo vệ môi trường sống? 

Tính từ năm 1990 đến nay, thế giới đã mất đi 3% diện tích rừng nghĩa là mỗi năm mất 13 triệu ha rừng do chặt phá tràn lan. Nhưng mối năm, có đến 6 triệu ha rừng có nguy co bị phá huỷ. Hiện tại, có 76 nước trên thế giới không còn rừng nguyên sinh. Các bạn của tôi ơi! Liệu những con số này có đáng làm các bạn ngạc nhiên? 

Ai chả biết rừng là ngôi nhà tự nhiên của các loài chim muông. Thiếu đi rừng, muông thú sẽ lang thang để rồi rơi vào tay những người thợ săn. Theo báo cáo mới nhất của UICN, có 16,306 loài bị đe dọa biến khỏi bề mặt trái đất, nhiều hơn con số 16,118 loài công bố năm ngoái. Loài khỉ orang-outan đảo Sumatra, Indonesia, hiện chỉ còn 7.300 con. Trong vòng 75 năm qua, số lượng orang-outan ở đây đã giảm đi hơn 80%. Giống chim vẹt đảo Maurice chỉ có thể tìm thấy duy nhất ở vùng Đông-Nam đảo Maurice, trong khu vườn quốc gia PNBRG. Tại đây, một chương trình bảo tồn giống vẹt quý này đã được tiến hành ráo riết. Nạn tàn phá rừng là nguyên chính gây nên sự hiếm hoi của loài chim này. Hay ngay như trong đất nước ta, bạn có thể dễ dàng nhìn thấy những chú voi trên tivi, sách báo hay trong các vườn thú, vườn quốc gia. Nhưng bạn có biết, Việt Nam hiện nay chỉ còn khoảng 100-110 con?... Tất nhiên, có những con số ở đây bạn thấy còn nó rất lớn. Nhưng hãy thử nghĩ lại một chút. Đó là con số của cả một quốc gia, thậm chí của cả một thế giới thì có còn lớn nữa không? Đây là những con số thật sự đáng tiếc! 

Mà không chỉ với các loài động thực vật, nếu mất đi rừng, sẽ xảy ra hiện tượng lũ lụt, xói mòn, xói lở đất. Các bạn ơi, các bạn hãy thử nghĩ mà xem. Ngưòi nông dân vất vả cả năm trời được có 2 vụ lúa. Vậy mà chỉ một lần lũ về là cuốn sạch mất một vụ rồi. Thử hỏi nỗi khổ tâm ấy ai thấu? Hay dải đất miền Trung thân thương của Tổ quốc năm nào cũng phải chịu khổ vì nước lũ, các hộ dân khó mà tạo được cuộc sống ổn định. Như thế có thiệt thòi hay không? Vâng, xin nói lại rằng tôi và rất nhiều người ở đây chưa từng tham gia chặt phá rừng. Nhưng chúng ta có dám chắc rằng chúng ta chưa từng dung những sản phẩm của rừng xanh? Có những nhu cầu cơ bản quan trọng, nhưng lại có những nhu cầu chỉ để thoả mãn mục đích cá nhân. Hầu hết mọi người đều ưa dung đồ gỗ hơn, nhất là những loại gỗ quý. Vậy thì tại sao không từ bỏ một chút lợi ích cá nhân mà cứu lấy môi trường này- ngôi nhà chung của tất cả chúng ta? 

Rừng là lá phổi xanh của thế giới. Trong mỗi chúng ta, có ai có thể sống thiếu phổi? Cũng như vậy, chúng ta không thể sống thiếu rừng, thiếu cay xanh.

 

Cây cối với vai trò vô cùng quan trọng trong môi trường sống của chúng ta. 

Vai trò trước hết có thể nói là tạo ra môi trường sống! 

Thật vậy, trong sinh giới (thế giới sống), chúng là sinh vật sản xuất ra gần như toàn bộ chất hữu cơ mà từ trong đó là thức ăn của các động vật, tiếp đó động vật lại là thức ăn của các động vật ăn thịt ở cấp cao hơn trong chuỗi thức ăn,... 

Toàn bộ sinh giới có quan hệ chặt chẽ về mặt dinh dưỡng mà cây cối (thực vật) đã sản xuất ra nguồn hữ cơ cơ bản đầu tiên. 

Không chỉ là cỗ máy tạo ra môi trường sống mà nó còn vận hành, bảo tồn và phát triển môi trường sống. Sự sản sinh các chất thải từ con người và động vật trong trao đổi chất với môi trường đặc biệt là CO2 lại được cây xanh sử dụng để tái tạo chất hữu cơ. Việc tái tạo này đã sử dụng không chỉ CO2 mà còn sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời tích lũy trong các hợp chất hữu cơ tạo thành từ đó làm cho nhiệt độ trái đất không tăng cao mà còn dự trữ năng lượng cho con người và động vật sử dụng làm thức ăn, bảo tồn năng lượng (dầu mỏ, than đá có nguồn gốc từ thực vật). 

Nói tóm lại cây cối hay thực vật là một cỗ máy sinh học tuyệt vời mà chúng ta cần phải bảo vệ, triệt để khai thác một cách hợp lí sao cho có ích cho cuộc sống không chỉ của chúng ta mà toàn bộ sinh giới, không chỉ cho hôm nay mà còn cho mai sau. 

Bạn hãy trồng một cây xanh trong góc vườn, hay trong một chậu cây trên thềm cửa sổ, dù chỉ một hành động nhỏ bạn cũng cho thế giới xanh hơn, nhìn chúng bạn sẽ thấy quy luật tuần hoàn và ý nghĩa cuộc sống. 

Mỗi khi tiêu dùng một sản phẩm bạn hãy nhớ nó đa phần là có nguồn gốc hữu cơ hoặc sinh ra có liên quan hoặc sử dụng đến nguyên liệu hữu cơ mà nguyên liệu hữu cơ này lại bắt nguồn từ cây xanh, hãy biết tiết kiệm hợp lí vì tương lai của trái đất, vì tương lai thế giới.

 

Đề bài: Thuyết minh về cây xanh và môi trường

1. Yêu cầu của đề bài

- Về nội dung: Đề văn yêu cầu học sinh thuyết minh về mối quan hệ giữa cây xanh và môi trường, trong đó chủ yếu trình bày được vai trò của cây xanh, tác dụng của nó trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trướng sống của con người. Từ đó xác định trách nhiệm của mỗi người trong việc trồng, chăm sóc, bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường.

- Về cách thức làm bài: Bài viết yêu cầu tạo lập văn bản thuyết minh, nội dung bài là những tri thức, sự hiểu biết của người viết về vai trò của cây xanh đối với môi trường. Bằng những kiến thức của mình, học sinh cần biết vận dụng các phương pháp thuyết minh sao cho phù hợp, kết hợp các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm trong các bài văn để đạt hiệu quả thuyết phục cao nhất.

2. Gợi ý lập dàn ý

a) Mở bài

- Dẫn dắt, giới thiệu về vấn đề cần thuyết minh, đó là mối quan hệ giữa cây xanh và môi trường.

- Nêu khái quát suy nghĩ của bản thân.

b) Thân bài

-Giới thiệu khái niệm môi trường, các yếu tố cấu thành môi trường.

- Cây xanh và những công dụng chủ yếu

- Mối quan hệ giữa cây xanh và môi trường: Vì sao có cây xanh? Cây xanh có vai trò như thế nào đối với sự sống của con người, đối với việc giữ gìn bảo vệ môi trường (tăng vẻ mĩ quan, cân bằng hệ sinh thái, duy trì nguồn khí trong lành, đảm bảo sức khỏe của con người,…)

- Con người cần làm gì để bảo vệ môi trường, cây xanh?

c) Kết bài

Cảm xúc, suy nghĩ những gì bản thân mình có thể làm để đóng góp phần bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường.

 

Bài làm

Rừng và cây trực tiếp hoặc gián tiếp đều ảnh hưởng tới cuộc sống của con người, động vật và thực vật. Càng ngày con người càng nhận thức được tầm quan trọng của môi trường sống và đã có nhiều hoạt động tác động tích cực lên hệ sinh thái rừng và cây trồng, nhưng sự suy thoái của rừng vẫn đang tiếp tục diễn ra với một tốc độ đáng lo sợ. Để góp phần bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng, ở nước ta từ lâu đã có tục lệ đẹp "Mùa xuân là Tết trồng cây"... 

Thực tế đã chứng minh cây có vai trò quan trọng trong việc cải thiện nguồn nước. Các khu rừng trồng làm giảm sụt lở và xói mòn đất. Sự che phủ của rừng và cây ở đầu nguồn góp phần tích cực bảo vệ, cân bằng nước cho sản xuất nông nghiệp. Cây cối thường được trồng trong các đô thị hoặc làng xã để làm giảm bụi, giảm ô nhiễm không khí và bảo vệ các công trình xây dựng lịch sử. Nhiều loài cây cũng đã được trồng để lấy dược liệu và lá, cành, vỏ cây rừng được thu hái để làm thuốc chữa bệnh. Cây Nim (Agadirachta) thường được trồng gần nhà để chống muỗi. Cây Mô-rin-ga thường được trồng xen với cây khác để thanh lọc nước. Cây che bóng và là nơi ẩn nấp cho người, gia súc khi đang làm việc trên các cánh đồng. Đây là một cách làm rẻ, đơn giản để làm giảm cơn nóng bức trên đồng ruộng.

Không có cây thì không có rừng, nhưng rừng không phải chỉ là một tập hợp của những cây rừng. Mỗi một khu rừng là một hệ sinh thái có ảnh hưởng qua lại, chứa đựng bên trong hàng triệu sinh vật sống khác nhau, có nhiều loài trong đó cho đến nay khoa học vẫn chưa mô tả hoặc chưa khám phá được.

Rừng và cây ảnh hưởng tích cực đối với môi trường ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng diện tích rừng bị phá hoại, sự suy thoái của rừng vẫn đang diễn ra ở mức độ rất cao. Theo điều tra mới đây của Tổ chức Lương – Nông thế giới (FAO), rừng bị tàn phá là do: Thiếu lương thực và nghèo đói do tốc độ gia tăng dân số, chiến tranh, thảm hoạ khí hậu; Nhiều quốc gia thiếu trách nhiệm, không có biện pháp để bảo vệ rừng; Không quản lý được việc khai thác rừng; Không rõ ràng về quyền sử dụng đất đai, pháp luật và hệ thống thuế liên quan; Thiếu hiểu biết và ý thức trách nhiệm; Thiếu cơ chế chính sách, quyền hạn, phương pháp để thực hiện chính sách; Quan tâm quá yếu việc phát triển nông thôn dựa vào sự tham gia của người dân.

Để bảo vệ rừng và sự đa dạng tài nguyên rừng, các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã xây dựng các chiến lược phát triển rừng, trong đó bảo vệ nghiêm ngặt rừng quốc gia và các khu bảo tồn tự nhiên. Bất kỳ khách du lịch nào đến tham quan khu vực này đều phải chấp nhận và chịu sự kiểm soát của viên chức nhà nước. Đa dạng sinh học là khía cạnh quan trọng nhất trong khu vực này với mục đích là giữ gìn hệ sinh thái cho thế hệ con cháu mai sau.

Tại Việt Nam, theo chiến lược phát triển rừng, đến năm 2020, diện tích rừng cần phát triển là 16 triệu héc-ta (gồm cả rừng cao su), rừng sản xuất hơn tám triệu héc-ta và rừng phòng hộ cùng với rừng đặc dụng gần tám triệu héc-ta. Việt Nam nằm sát biển mà hai phần ba diện tích thuộc vùng đồi núi nhiều và lại trong vùng nhiệt đới nhưng không thể xây dựng lâm phận quốc gia bằng khoảng gần 70% diện tích như Nhật Bản hiện nay. Nguyên nhân, do nước ta vẫn là một nước nông nghiệp và do mật độ số dân của Việt Nam hiện rất cao. Quỹ đất quốc gia còn phải ưu tiên để làm nhiều việc khác, như xây dựng đô thị, sản xuất lương thực, v.v.. và xây dựng khu công nghiệp. Nếu chỉ dừng lại như vậy, thì không thể tạo được đột phá trong việc xây dựng lâm phận quốc gia. Vấn đề quan trọng là hơn tám triệu héc-ta rừng sản xuất ấy sẽ làm thâm canh khoảng bốn triệu héc-ta (hơn hai triệu héc-ta rừng tự nhiên và 1,5 triệu héc-ta rừng trồng thâm canh) ở vùng trọng điểm để cung cấp gỗ, tre, v.v.. làm hàng xuất khẩu, sản xuất bột, giấy v.v.. và tạo ra một số mặt hàng đặc sản rừng. Trong gần tám triệu héc-ta rừng còn lại, thì sẽ có khoảng sáu triệu ha rừng phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng hộ môi trường và khoảng hai triệu ha rừng đặc dụng là các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và khu di tích lịch sử. 

Theo ý kiến của các nhà khoa học lâm nghiệp, cần tập trung xây dựng các khu rừng phòng hộ trọng điểm quốc gia (khoảng ba triệu héc-ta), như rừng phòng hộ đầu nguồn thủy điện. Trong hai triệu héc-ta rừng đặc dụng thì tập trung xây dựng hệ thống vườn quốc gia (Tam Đảo, Phong Nha - Kẻ Bàng, v.v...), các khu bảo tồn có đặc trưng nhiệt đới cao và khu di tích lịch sử trọng điểm, không dàn trải. Đây chính là điểm đột phá, tránh lãng phí trong đầu tư lâm nghiệp và là con đường hợp lý để nâng cao năng suất lao động, năng suất rừng, v.v...

Đối với công tác xây dựng rừng, cần phải làm có trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả, vì hiện nay chúng ta không còn ở giai đoạn phủ xanh đất trống, đồi núi trọc nữa. Cần khẩn trương xây dựng các khu rừng công nghiệp thâm canh gồm cả rừng tự nhiên có năng suất, chất lượng tốt, đáp ứng mục tiêu sản xuất đồ gỗ và làm nguyên liệu để chế biến ván nhân tạo, giấy, bột giấy. Hàng hóa đặc sản rừng thì trồng, tạo ra và chế biến, tìm thị trường cho sản phẩm quế, hồi, sa nhân, thảo quả, trầm, mật rắn, mật ong v.v…

31 tháng 10 2016

này bạn ơi, người ta ko rảnh để đi viết văn giúp bạn đâu, tự lên mạng mà tìmhaha

31 tháng 10 2016

Mở bài Bác Hồ đã có lần nói đất nước ta là rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu; ấy thế mà ngày nay, rừng không còn là kho vàng nguyên vẹn nữa, mà đang bị vơi dần, cạn kiệt dần, bởi bàn tay con người tàn phá. Quả là một sự thực rất đau lòng. Thân bài 1.Vai trò của rừng, của cây xanh đối với con người a. Ngay từ khi con người đang ở trong xã hội nguyên thủy, chủ yếu kiếm sống bằng săn bắt hái lượm, thì rừng đã thành môi trường, ngôi nhà, nguồn sống của họ. Rừng cung cấp cho họ thực phẩm hàng ngày. Rừng là nguồn cung cấp củ, quả để con người tồn tại và phát triển, tiến hóa từ nguyên thủy đến văn minh. b. Trong suốt trường kì lịch sử chống ngoại xâm, rừng ngoài việc cung cấp một phần thực phẩm, lương thực, còn cùng con người tham gia đánh giặc. Đúng như Tố Hữu đã viết “Nhớ khi giặc đến giặc lung Rừng cây núi đá, ta cùng đánh Tây. Núi giăng thành lũy sắt dày, Rừng che bộ đội,rừng vây quân thù.” Rừng Tây Nguyên, Tây Bắc đã cùng con người đứng lên để viết nên những chiến công sông Lô, Điện Biên, An Khê, Đồng Tháp oai hùng (oanh liệt). c. Ngày nay, xã hội bước vào thời kỳ hiện đại hóa, chất thải công nghiệp đã làm mất cân bằng sinh thái, gây nên hiệu ứng nhà kính, làm thủng tầng ô dôn đẩy con người đến thảm họa diệt chủng. Trong bối cảnh đó, rừng đã trở thành vị cứu tinh của con người. Với chức năng hấp thụ khí cacbonic và nhả dưỡng khí oxi, rừng đưa lại sự sống cho con người, làm cân bằng sinh thái, biến trái đất thành ngôi nhà xanh- sạch- đẹp cho con người. Rừng cung cấp cho chúng ta biết bao loại gỗ quý như: đinh, lim, sến, táu và nhiều dược liệu quan trọng để chữa bệnh, kéo dài tuổi thọ cho con người như: sâm, quế, sa nhân, tam thất… Rừng có tác dụng phủ xanh đồi trọc, chống xói mòn, làm cho khí hậu điều hòa, mưa nắng phải thì, hạn chế thiên tai. Chưa kể rừng còn là nơi bảo tồn nguồn gen động vật, thực vật quý hiếm như: tê giác, bò tót, voi, gấu, sao la, hổ,… 2.Tình trạng chặt phá rừng Thế mà ngày nay, con người vì nông nổi, vì thiếu văn hóa, vì hám lợi mà đã chặt phá rừng không thương tiếc để lấy gỗ bán, lấy đất làm hàng hóa, trồng ngô, trỉa lúa, nuôi tôm…Những kẻ phá rừng ấy được nhân dân đặt cho cái tên: “lâm tặc”, nghĩa là những tên giặc rừng. Vì bọn chúng mà hàng ngày, hàng giờ những cánh rừng Tánh Linh đang hấp hối phải lên tiếng kêu cứu. Vì bọn chúng mà những khu rừng Lạng Sơn, Quảng Nam, rừng quốc gia Cát Tiên đang bị triệt hại một cách dã man. Chúng phá rừng đốt rừng là đốt lá phổi của chúng ta, là giết màu xanh, sự sống thiêng liêng của nước ta. 3.Hậu quả Vì những cánh rừng đang bị thu hẹp lại bởi bàn tay của bọn “lâm tặc” bất nhân mà dẫn đến hậu quả mất cân bằng sinh thái, thiên tai, lụt lội, hạn hán, bão tố xảy ra liên miên và bất thường, trái đất không còn là ngôi nhà bình yên nữa. Hàng năm nhân dân ta phải gánh chịu biết bao tổn thất. Chỉ riêng năm 2008, theo thống kê của Chính phủ: nước ta đã mất hơn 1.300 tỷ đồng và trên bốn trăm (400) người bị chết do thiên tai. Đúng là một con số biết nói làm nhức nhối triệu triệu trái tim của những người lương thiện 4.Trách nhiệm của tuổi trẻ chúng ta Trước thực trạng ấy, chúng ta hãy cùng nhau ngăn chặn ngay bàn tay tàn bạo của bọn lâm tặc. Phải tích cực tham gia trồng rừng, phủ xanh đồi trọc, cần tuyên truyền cho mọi người, từ trẻ em đến người già hiểu rõ lợi ích của rừng và phá rừng là một hành động tự sát. Kết luận Rừng là bài ca của sự sống “khi nghĩ về một đời người,tôi thường nhớ về rừng cây” (nhạc Trần Long Ẩn). Để bảo vệ đời người, hãy bảo vệ rừng, lá phổi xanh của đất nước chúng ta. Suy nghĩ của anh chị về lời dạy của Phật: “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung” A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI I/Nội dung cơ bản của câu nói:Đề cao đức tính khoan dung,xem đó là tài sản lớn nhất hơn tất cả mọi thứ của cải vật chất,danh vọng...của một đời người.Vì lòng khoan dung với mọi người không chỉ là một phẩm chất quan trọng của người lương thiện và là một nét đẹp của tâm hồn có thể cảm hoá được người khác mà còn đưa lại một điều vô cùng quý giá cho xã hội,gia đình và mỗi cá nhân.Đó là sự hoà thuận,bình an,thân thiện,đầy tình yêu thương. II/Bài làm cần phải đạt được những ý cơ bản sau: Giải thích khái niệm lòng khoan dung và ý nghĩa của nó Bình luật mở rộng về lòng khoan dung Chứng minh bằng thực tế Liên hệ bản thân III/Phương pháp nghị luận: Giải thích,bình luận,chứng minh I/Mở bài Mở rộng lòng khoan dung,tha thứ độ lượng là một trong những đức tính,phẩm chất vô cùng cao quý,tốt đẹp của con người.Vì vậy ,Phật,người được xem là hiện thân của lòng bác ái đã xem đó là một thứ tài sản vô giá.Người đã dạy chúng sinh rằng: “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung”. II/Thân bài 1)Thế nào là lòng khoan dung và ý nghĩa của nó Khoan dung là lòng rộng lượng,bao dung,thương yêu con người,sẵn sàng tha thứ,không khắt khe,không trừng phạt,hoặc sẵn sàng xoá bỏ những lỗi làm mà người khác (thường là người dưới) đã phạm phải. Khoan dung vừa có lợi cho ta vừa có lợi cho người.Chẳng thế mà danh nhân Pierre Benoit đã khẳng định “Khoan dung là đức tính đem lợi về cho cả ta lẫn người khác”.Khi ta thể hiện lòng khoan dung với ai đó thì tâm hồn ta cảm thấy thanh thản,nhẹ nhõm vì đã làm được một điều vừa có ý nghĩa của phẩm chất nhân ái,vì như thế là không vị phạm vào sự nhỏ nhen,hẹp hòi,trái với phẩm chất quý giá của con người. Mặt khác,khoan dung,tha thứ lỗi lầm cho người khác thì có thể cảm hoá được họ.Khi được nhận lòng khoan dung của ta ,thì bản thân người đó sẽ ăn năn hối lỗi,tự tu chỉnh bản thân mình,sửa chữa lỗi lầm và có thể biết ơn ta nữa,để từ đó không tiếp tục phạm lỗi mà họ đã từng mắc phải. 2)Bình luận mở rộng Vì thế,lòng khoan dung,độ lượng,tha thứ đã được nhà Phật đánh giá rất cao,xem đó là “Tài sản lớn nhất của đời người”.Bởi trong con người ta,có phần tốt và phần xấu,phần thiện và phần ác,phần người và phần con.Chính lòng bao dung đã góp phần tẩy rửa phần con,tô đậm thêm phần người,phẩm giá làm người.Nó làm cho tâm hồn ta trở nên thánh thiện,cao thượng và giàu có hơn mà như chúng ta đã biết sự giàu có về vật chất không thể nào sánh được với sự giàu có của tâm hồn.Đúng như một triết gia nào đó đã nói:sự nghèo nàn về của cải vật chất không đánh sợ bằng sự nghèo nàn về tâm hồn. Mặt khác,lòng khoan dung sẽ là một yếu tố quan trọng đem lại sự bình yên,hoà thuận,thân thiện cho xã hội và gia đình.Trong cuộc sống đa dạng thường ngày,tránh sao khỏi sự va chạm trong lời nói ,việc làm có thể dẫn đến mâu thuẫn,xung đột.Trong tình thế ấy,ta nên bình tĩnh suy nghĩ và sẵn sàng đối xử bằng sự nhường nhịn,lòng khoan dung,thì mọi sự sẽ trở nên “hoà bình” và sự tốt đẹp của cuộc sống sẽ lại tiếp diễn.Trong gia đình cũng vậy,tình nghĩa cha mẹ,vợ chồng con cái là thiêng liêng,bền chặt nhưng tránh sao khỏi có những lúc xung khắc,bất hoà.Vì thế,ta phải lấy sự khoan dung ,sự nhường nhịn làm phương châm xử thế “Một sự nhịn,chín sự lành” , “Chồng giận thì vợ bớt lời;Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê”.Có thế thì gia đình mới luôn luôn được sống trong sự bình an,mà sự bình an là niềm sung sướng lớn nhất của con người.Vì như lời nhà đại thi hào nước Đức Gớt : “Dù là làm vua chúa hay là dân cày,kể nào tìm thấy sự bùnh an trong gia đình,kể ấy là người sung sướng nhất”. Mặt trái của lòng khoan dung là sự khắt khe,cố chấp và cao hơn nữa là sự mặc cảm,thù dai.Mang trong mình lòng khoan dung thì không được cố chấp,thù dai.Nhà Phật từng dạy : “Oán thù nên cởi chứ không nên buộc” , “Oan ức mà trả thù thì oán đối kéo dài” (Lời tâm niệm thứ 10 của Phật).Còn cha ông ta ngày xưa từng khuyên con cháu : “Đấng trượng phu không thù mới đáng.Người quân tử không oán mới nên”.Người xưa gọi đó là “Trượng phu”, “quân tử”,nhưng ngày nay,ta gọi đấy là những người có sự bao dung,rộng lượng,biết ứng xử có văn hoá. “Người yêu người,sống để yêu nhau”.Được như thế thì “Có gì đẹp trên đời hơn thế”.Ta bao dung người,yêu thương,độ lượng,tha thứ người thì một lúc nào đó sẽ được người hay người khác tha thứ cho ta.Đúng như ca dao xưa từng nói: “Thương người người lại thương ta;Ghét người,người lại hoá ra ghét mình”. 3)Chứng minh mở rộng bằng thực tế cuộc sống Sự khoan dung,độ lượng “hoà hiếu thực lòng”, “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn;lấy chí nhân để thay cường bạo” đã trở thành phẩm chất truyền thống,tài sản quý giá của dân tộc ta được biểu hiện qua các cuộc chống ngoại xâm.Ngày nay,phẩm chất ,đức tính đó đã được kết tinh ở Hồ Chí Minh “Con người đẹp nhất của nhân loại;Trí tuệ tình yêu của bốn phương”... 4)Liên hệ với bản thân (thay cho kết luận) III/Kết luận Thấm thía lời dạy của Phật,bản thân mỗi chúng ta,phải không ngừng tự rèn luyện,phấn đấu bồi đắp cho mình có lòng khoan dung rộng lớn.Lòng khoan dung là tài sản vô giá của con người và cũng là phương châm đối nhân xử thế tốt nhất để nhằm hoàn thiện nhân cách bản thân và đưa lại sự bình an cho cuộc sống. Suy nghĩ về ý kiến của nhà văn Pháp M.ixêrông “ Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động “ . Liên hệ voi vk hoc tap cua ban than A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI Đề này cần : 1. Giải thích ý kiến. - Đức hạnh là phẩm chất đạo đức tốt đẹp ở con người. - Đức hạnh phải được biểu hiện qua hành động, lối sống. - Hành động thực tiễn là thước đo của đức hạnh 2. Mỗi học sinh phải luôn luôn gìn giữ và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của mình thông qua việc làm, lối sống, quan hệ xã hội. - Lòng hiếu thảo đối với cha mẹ : là người con ngoan, chăm học, giúp cha mẹ việc nhà, giản dị, tiết kiệm. - Đối với thầy giáo và người cao tuổi : kính trọng và lễ phép. - Đối với bạn bè : trung thực, chân thành, quan tâm, giúp đỡ khi cần. - Đối với xã hội : thực hiện lối sống văn minh, giữ vệ sinh môi trường, ý thức thực thi pháp luật như luật giao thông, phòng ngừa tệ nạn cờ bạc, ma túy…. - Thực hiện phương châm : lời nói đi đối với việc làm, không ba hoa, hứa hẹn lung tung. - Dũng cảm vạch trần các hành vi gian lận, tiêu cực trong học tập và thi cử. 3. Chứng minh, bình luận, mở rộng - Hành động thiết thực là học, học nữa, học mãi, học tập suốt đời. - Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Đánh giá con người không căn cứ vào lời nói mà qua việc làm, hành động cụ thể của họ. - Con người trưởng thành qua hành động thực tiễn, phải luôn luôn tham gia tích cực các hoạt động xã hội như mùa hè xanh, thanh niên tình nguyện, hành trình xanh, các hoạt động Đoàn, Đội ở trường và làng xóm, khu phố…. 4. Sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận : giải thích, bình luận, chứng minh. B. BÀI LÀM THAM KHẢO : Mở bài : Ý kiến của nhà văn Pháp M.ixêrông “ Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động “ gợi em nhiều suy nghĩ về việc tu dưỡng và học tập của bản thân. Thân bài: 1. Đức hạnh là phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người. Đức hạnh đó là những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người. Đó là : Lòng yêu nước, yêu đồng bào, hiếu thảo với cha mẹ, kính yêu thầy cô giáo, các bậc lão thành, yêu thương em nhỏ, chăm chỉ học tập, cần cù lao động… 2. Đức hạnh phải được biểu hiện qua hành động, lối sống. Làm thế nào để xã hội và những người xung quanh biết chúng ta là người đức hạnh? Ý kiến của nhà văn Pháp nêu trên đã trả lời cho câu hỏi đó. Hành động là biểu hiện cụ thể, là thước đo của “Mọi phẩm chất của đức hạnh”. Hành động cụ thể của ta báo cho mọi người biết ta có đức hạnh hay không và nếu có thì mức độ sâu rộng như thế nào. Đức hạnh là cội rễ, hành động là hoa thơm quả ngọt dâng đời. Không có hành động thì đức hạnh không để lại gì, không đóng góp gì cho người thân và xã hội. Đánh giá đức hạnh con người nhất thiết phải thông qua hành động của người đó, không thể chỉ dựa vào lời nói mà kết luận vội vàng. Tình yêu thương đồng bào và lòng nhân văn cao cả phải thể hiện ở sự đóng góp dù rất ít ỏi cho quỹ người nghèo, ủng hộ đồng bào bị thiên tai bão lụt, qua hành động giúp cụ già, em bé đi qua đường. Gặp đám cháy chúng ta phải xông vào cứu chữa. Gặp người bị tai nạn giao thông, như hai bạn ở Nghệ An trên đường đi thi tốt nghiệp phổ thông, không ngần ngại đưa họ đi cấp cứu mặc dù việc đó có thể gây thiệt hại cho bản thân. Lòng hiếu thảo, yêu thương cha mẹ phải thể hiện ở hành động chăm học, sống tiết kiệm, biết quý trọng đồng tiền cha mẹ vất vả kiếm được để nuôi mình ăn học. Khi xa gia đình, ta phải thường xuyên viết thư, gọi điện thăm hỏi sức khỏe cha mẹ. Khi cha mẹ ốm đau, ta phải hết lòng, hết sức quan tâm, chăm sóc, chạy chữa. Lòng yêu thiên nhiên đất nước phải thể hiện ở hành động giữ gìn vệ sinh, tiết kiệm điện nước, trồng cây để cho môi trường sống xung quanh ta ngày càng xanh, sạch đẹp. Lòng yêu lao động thể hiện ở hành động chăm làm, chăm học ( Học tập cũng là một loại hình lao động ). Học tập suốt đời để sống tốt, lao động tốt, sức khỏe tốt, tu dưỡng phẩm chất đức hạnh tốt. Đức hạnh bắt nguồn từ tri thức, nhận thức đúng đắn về xã hội và tự nhiên, con người và cuộc sống. Học tập là cơ sở để ta có phẩm chất của đức hạnh và hành động phù hợp với phẩm chất của đức hạnh. 3. Đức hạnh phải được tu dưỡng rèn luyện thường xuyên trong thực tiễn. Phẩm chất của đức hạnh, chứa đựng trong nhận thức và biểu hiện ở hành động không phải tự nhiên mà có. Chúng ta phải tu dưỡng và rèn luyện thường xuyên, đặc biệt khi ta còn trẻ. Hành động thể hiện phẩm chất của đức hạnh cũng không có một tiêu chuẩn cứng nhắc, cố định. Trong chiến tranh giữ nước, hành động có thể là vứt bút nghiên theo nghiệp binh đao, nhưng cũng có thể là lao động sản xuất tốt. Còn khi thời bình và đang tuổi đi học, chúng ta học tập tốt, tu dưỡng tốt để trở thành người có ích cho xã hội, có việc làm, hành động thể hiện các phẩm chất đức hạnh cao quý là người yêu nước. Học tập, tu dưỡng, rèn luyện để có đức hạnh, cả trong nhận thức và hành động, là quá trình gian nan, vượt nhiều khó khăn thử thách. Hôm nay ta lười học thì ngày mai ta sẽ lười lao động. Hôm nay ta ăn cắp 1 quả trứng thì ngày mai ta dễ ăn trộm con bò. Cuộc vận động “ Nối không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong học tập” cần được chúng ta hưởng ứng bằng hành động thiết thực, cụ thể. Hành động của con người, nói rộng ra là thực tiễn, là “tiêu chuẩn của chân lý”, là tiêu chuẩn, thước đo của phẩm chất “ đức hạnh”, bản chất ở bên trong của con người. Khi con người biết nhìn nhận, đánh giá mình qua hành động cụ thể, việc làm hàng ngày, qua lao động sản xuất và quan hệ ứng xử là con người “ có học” có hiểu biết và là có “phẩm chất tốt” , “đức hạnh cao”, Một trí thức, một người có văn hóa, có giáo dục không thể tự nói với người khác rằng họ có bằng cấp, có học vị, học hàm cao nên “ phẩm chất đức hạnh tốt đẹp”. Họ phải thể hiện ở hiệu quả các công trình khoa học, cái hay trong cuốn sách mà họ viết, số người bệnh mà họ cứu chữa được. 4. Con người phải tự nhận thức và đánh giá đức hạnh của mình. Hành động là thể hiện, là kết tinh của đức hạnh. Con người phải luôn luôn tự đánh giá, tự nhận thức bản thân mình qua việc làm, qua ứng xử cụ thể, qua hành động chứ không phải qua lời nói của mình. Phầm chất đức hạnh con người được đo bằng kết quả thực tế việc làm chứ không phải bằng những lời ba hoa, lý thuyết, hùng biện, mị dân, tự đánh bóng mình. Con người phải luôn luôn hoàn thiện tư cách đạo đức phẩm giá bằng những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn. 5. Học tập đạo đức, tác phong của Bác Hồ. Phẩm chất đạo đức cao cả của Bác Hồ luôn thể hiện ở hành động, việc làm. Lòng yêu thương con người, yêu quê hương đất nước, lối sống giản dị, trong sáng của Bác Hồ đã được thể hiện qua rất nhiều hành động, việc làm mà sách báo đã viết về Bác. Kết luận : Noi gương Bác, em nguyện lời nói đi đôi với việc làm, học đi đôi với hành, rèn luyện tu dưỡng bản thân qua thực tiễn lao động, học tập và quan hệ xã hội để không ngừng hoàn thiện phẩm chất đức hạnh. Hãy viết một bài văn ngắn (Không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh /chị về ý kiến sau: “Một ngày so với một đời người là quá ngắn ngủi, nhưng một đời người lại là do mỗi ngày tạo nên”. (Theo sách Nguyên lý của thành công, NXB Văn hoá thông tin, 2009 trang 91). Đề thi tuyển sinh Cao đẳng năm 2009 Mở bài Giờ đây chúng ta đã đứng thẳng hai chân kiêu hãnh làm người, mới thấm thía một sự thật: Có một thứ của cải có thể vô hình và vô hạn, mà thật ra lại rất quý, hiếm. Đó là thời gian. Nhiều thứ của quý mất đi, vẫn có thể mua lại được, nhưng thời gian thì không thể. Vì thế có người đã khẳng định sự quý hiếm của thời gian được định giá theo từng ngày một của đời người “Một ngày so với một đời người là quá ngắn, nhưng một đời người lại là do mỗi ngày tạo nên”. Thân bài 1. Giải thích ý kiến Câu nói so sánh sự đối lập giữa thời gian rất dài của đời người và thời gian rất ngắn của một ngày để nhấn mạnh: Giá trị cuộc sống của mỗi ngày là cơ sở để tạo nên chất lượng, ý nghĩa cuộc sống của một đời người. Thực chất, ý nghĩa của câu nói: trong cuộc đời con người, mỗi ngày là rất quan trọng, quý giá, đừng để lãng phí thời gian. Cha ông ta xưa chẳng từng để khuyên con cháu bằng một câu ca dao giản dị mà vô cùng sâu sắc: “Đời người được một gang tay Ai hay ngủ ngày, còn lại nửa gang,” đó sao? 2. Suy nghĩ, bình luận, chứng minh mở rộng về câu nói bằng chứng minh Đúng như vậy, cái quý nhất của con người là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần. Muốn cho cuộc đời tươi đẹp như hoa, và có một tương lai huy hoàng và tráng lệ, chúng ta không được sống hoài sống phí. Đặc biệt là không được phí hoài thời gian, vì thời gian là một điều kiện rất quan trọng để tạo nên cuộc sống của mỗi con người. Vả lại đã là người ai cũng muốn được sống lâu với thời gian để làm việc, để cống hiến, để tận hưởng niềm hạnh phúc của trần thế. Nhưng thời gian lại được đếm đo theo từng đơn vị cụ thể đó là “một ngày” “mỗi ngày” . Ta có thể hình dung một cuốn sách được hình thành từ những trang cụ thể, thì cuộc đời con người sẽ được làm nên, hoàn thiện từ thời gian của từng ngày, của một ngày. Vì một ngày tuy rất ngắn ngủi, nhưng con người có thể làm được nhiều việc có ích cho bản thân, cho xã hội: học tập, lao động sáng tạo. Có những phát minh, công trình khoa học được gặt hái trên hành trình miệt mài làm việc không ngừng, không nghỉ của từng giờ từng ngày, nhưng cũng có những phát kiến thiên tài được lóe sáng, trong một khoảng khắc rất ngắn của thời gian. Những nhà khoa học, những nghệ sĩ vĩ đại đều miệt mài làm việc từng phút, từng giờ, từng ngày trên bàn viết, trong phòng thí nghiệm. Đại văn hào thế giới Bandắc mỗi ngày chỉ ngủ có 4 tiếng đồng hồ. Vì thế tất cả cuộc đời ngắn ngủi của ông đã sáng tạo nên bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời” đồ sộ gồm chín mươi bảy tập, một tài sản tinh thần vô giá của nhân loại sống mãi với thời gian. Sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu luôn “Vội vàng” vì sợ thời gian trôi, không đứng đợi: “Vì tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại; còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi; nên bâng khuâng tôi tiếc đất trời”. Cũng có nghĩa là tôi tiếc từng ngày của cuộc đời. Nhà văn hoá lớn, Phan Ngọc, một Người tự học mà biết rất nhiều ngoại ngữ, người đã sáng tạo một số công trình văn hoá đặc sắc đã ngoài 80 tuổi mà đến bữa ăn, còn phải ăn vội, ăn vàng, để chạy đua với thời gian, để tranh thủ từng giây từng phút một mà lao động, sáng tạo 3. Bình luận, mở rộng Sự so sánh đối lập giữa một ngày và một đời người còn thể hiện ý nghĩa sâu sắc về mối quan hệ việc nhỏ và việc lớn, có nhiều việc nhỏ xem ra không đáng quan tâm, nhưng là cơ sở để tạo thành những việc lớn. Người xưa từng nói “góp gió thành bão”. Còn nhà văn thì nói “góp nhặt từng chữ cuộc đời mà viết nên trang”. Đối với chúng ta thì sao? Trong khi có biết bao người đang chạy đua với thời gian, luôn “giục giã” mình và giục giã người hãy mau lên tranh thủ từng phút, từng giờ vì những thành quả lao động, vì những công trình sáng tạo được khai sinh kịp thời, thì cũng có không ít người, thậm chí là những chàng trai, cô gái mới tuổi đôi mươi, mà đã để cho cuộc đời bình thản trôi qua vô vị bằng cách đốt cháy những năm tháng quý giá của đời mình vào những “cuộc truy hoan” thâu đêm suốt sáng, hoặc khép kín phòng riêng miên man ngủ. Thật là “Nắng trôi đi oan uổng biết bao ngày”.