Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Song Ngư là Snow nhưng Snow k bik bn cung nào
Lần sau k đăng câu hỏi linh tinh
Mở bài: - Dẫn dắt, giới thiệu về mùa thu
Thân bài:
- Miêu tả quang cảnh mùa thu vào buổi sáng
+ Không khí: mát mẻ, gió thổi vi vu,....
+ Bầu trời: như xanh hơn, cao hơn,...
+ Cây cối, hoa lá: Cây cối thay một bộ áo mới màu vàng rực rỡ, hoa lá như tươi hơn,....
+ Con người: Mọi người ra đường dạo chơi đón những cơn gió nhè nhẹ,....
Kết bài: Nêu cảm xúc của bạn về buổi sáng mùa thu.
#Tham_khảo
1. Mở bài:
- Quê em là một vùng nông thôn yên bình có nhiều cảnh đẹp.
- Em thích nhất là cánh đồng lúa chín vào buổi sáng.
2. Thân bài:
a) Trời chưa sáng hẳn:
- Cánh đồng trải dài như tấm thảm nhung mềm mại.
- Làn sương mờ ảo chập chờn.
- Những con đường nhỏ uốn cong như dải lụa, cỏ non ướt đẫm sương đêm.
b) Mặt trời lên:
- Cánh đồng hiện lên với tất cả vẻ đẹp của nó.
- Màu vàng óng ả của lúa chín bao phủ trên các thửa ruộng.
- Bông lúa cong oằn vì trĩu hạt.
- Lá lúa chuyển sang màu úa.
- Sóng lúa nhấp nhô khi làn gió thoảng qua.
- Mùi hương lúa mới thơm ngọt.
- Hơi nước ruộng hoà quyện cùng hơi sương sớm tạo cảm giác mát mẻ.
- Tiếng chim chiền chiên lảnh lót trên cao.
- Những chú cò đáp cánh xuống bờ ruộng để tìm mồi.
- Thấp thoáng bóng người đi thăm đồng.
- Những tốp người đang bàn chuyện ở đầu làng.
- Ai cũng vui trước một vụ mùa bội thu, no ấm.
3. Kết bài:
- Em rất yêu cánh đồng làng ở quê em.
- Em thầm biết ơn bố mẹ và biết ơn những người lao động đã tạo nên một vụ mùa trù phú.
học tốt nhé
kb vs mk luôn nha
hơi dài, nhưng mik cop cho bn tham khảo nhé:
Trước khi học môn Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam tôi cứ nghĩ không hiểu tại sao mình phải học môn này cũng như các môn có liên quan nhiều đến chính trị? Nhưng suy nghĩ của tôi đã thay đổi hoàn toàn khi bắt đầu học những tiết đầu tiên, tôi tham gia nó không chỉ để hoàn thành các tín chỉ bắt buộc mà còn để nâng cao thêm số lượng kiến thức ít ỏi của mình về lịch sử, về chiến tranh, về các đường lối của Đảng ta trước, trong và sau chiến tranh.
Chắc hẳn ai học môn Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam đều sẽ một có một lần đi thăm Bảo tàng chứng tích chiến tranh. Một nơi mà chắc tôi sẽ không hề biết và sẽ đi đến nếu như không học môn này. Bảo tàng chứng tích chiến tranh ra đời năm 1975 để lưu giữ những vật chứng của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Tọa lạc tại số 28 Võ Văn Tần quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, thông qua những gì trưng bày, du khách tham quan có thể phần nào thấy được sự ác liệt của chiến tranh cũng như sự can trường của người dân Việt Nam.
Người Mỹ nói gì khi nhìn lại chiến tranh Việt Nam:
“Tôi thực sự xúc động khi được tận mắt ngắm các bức tranh tại bảo tàng’’, Christina Verderosa nói. (Việt báo.vn)
“Chúng tôi tới thăm Viện bảo tàng Chứng tích Chiến tranh. Bảo tàng là một sự diễn đạt lịch sử trực quan về chặng đường tiến tới nền độc lập của Việt Nam - một con đường đẫm máu đầy những xác chết và bom mìn choán gần hết cả thế kỷ 20 và được bắt đầu với cuộc chiến chống lại người Pháp. "Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập," Hồ Chí Minh đã viết, và ông hô lớn điều này để khích lệ những đám đông trên Quảng trường Ba Đình năm 1945. Sự thách thức này đã cho phép người Pháp tra dầu vào chiếc máy chém của họ (cũng được trưng bày tại bảo tàng), thế nhưng chưa tới mười năm sau quân đội Pháp đã bẽ mặt và bị tiêu diệt tại Điện Biên Phủ. Và rồi đến lượt chúng tôi. Hình ảnh khủng khiếp về hành động tra tấn, tàn sát, ném bom rải thảm, thuốc diệt cỏ, chất làm rụng lá cây, nỗi khiếp sợ, chất dioxin được phun từ phi cơ, các binh lính Việt cộng bị đẩy ra khỏi trực thăng hoặc bị kéo lê trên đường cho tới chết, những cuộc giết chóc dân thường, và những chiếc xe bồn chở chất napalm được những lính Mỹ điều khiển miệng cười nhăn nhở và được khắc dòng chữ The Purple People Eater - gian triển lãm tranh ảnh tố cáo tội ác khủng khiếp này, gồm mười căn phòng, là tất cả những gì gây cảm giác sửng sốt hơn về những hành động của hầu hết là người Mỹ nếu không phải là bởi các nhiếp ảnh gia người nước ngoài”
* "Có một tốp phụ nữ và một bé gái chừng 13 tuổi mặc bộ đồ màu đen bị dẫn tới. Một người lính giằng lấy cô bé trong khi những tên khác giữ chặt cô bé cho hắn tụt quần áo cô bé ra. Hắn bảo: "Hãy xem nó như thế nào nào!". Một tên nói: "Tao đang nóng đây!". Trong khi bọn họ giật bỏ quần áo cô bé, xung quanh tất cả bốc cháy: những căn nhà, những xác chết. Người mẹ của cô bé xông vào để bảo vệ đứa con. Thế là một tên lính đá bà ấy nhiều cú và một tên khác tát bà rất mạnh.
Họ chỉ dừng khi Haeberle, một phóng viên ảnh, chạy tới để chụp một kiểu ảnh. Họ cư xử như tất cả đó là chuyện bình thường. Rồi một tên nói: "Bây giờ chúng ta làm gì?". Một tên khác trả lời: "Giết nó đi!". Tôi quay mặt chỗ khác. Rồi tôi nhìn thấy những phụ nữ, cô bé và cả lũ trẻ con đều chết" (Jay Roberts, phụ trách thông tin của đại đội Charlie).
"Thấp thoáng một bóng phụ nữ, rồi cái đầu xuất hiện phía sau hàng rào. Đám lính hét lên rồi bắn vào cô ta và người phụ nữ ngã xuống bị móc vào một cái cọc. Thế là cái đầu của người phụ nữ ấy trở thành điểm ngắm, họ bắn vào cái đầu, có thể thấy xương sọ văng ra từng mảnh. Tôi không tin vào mắt mình nữa. Dọc con đường mòn chúng tôi gặp hai đứa trẻ: một đứa lên bốn và một đứa lên năm, tôi đoán vậy. Một người bắn vào đứa trẻ nhỏ hơn và đứa trẻ lớn hơn lao vào để che chở cho nó. Tên này nhả sáu phát đạn vào người thằng bé.
Sau đó chúng tôi gặp một người đàn ông với hai đứa trẻ khác, chúng bé tí xíu, một bé trai và một bé gái. Những tay súng nổ súng và cắt họ ra làm đôi. Đứa bé trai bị thương vào cánh tay và cẳng chân. Thằng bé nhào về phía chúng tôi trong sự thất đảm kinh hoàng, người nó đầy máu. Tôi quì gối để chụp ảnh thằng bé và một người lính cũng quì gối cạnh tôi để bắn nó. Phát đầu tiên hất ngửa thằng bé ra phía sau, phát thứ hai hất tung nó lên cao, đến phát thứ ba thằng bé rơi xuống.
Bắn xong tên này bỏ đi dửng dưng. Không có một chút biểu hiện nào trên bộ mặt của hắn ta, không có một chút thể hiện nào trên gương mặt của tất cả những người lính Mỹ. Họ phá hủy, giết hại với một vẻ hoàn toàn thản nhiên, với vẻ của người đang làm một công việc bình tâm" (Ron Haeberle, phóng viên ảnh thuộc đại đội Charlie).
* "Có một ông già núp trong hầm trú ẩn. Ông ta ngồi co rúm lại trong đó. Một ông già rất già. Viên trung sĩ David Mitchell gào lên: "Giết nó đi!". Thế là một ai đó giết ông già.
Chúng tôi lùa đàn ông, đàn bà, trẻ sơ sinh ra giữa làng, một làng trơ trọi như một hòn đảo nhỏ. Trung úy Calley xông tới và nói: "Các người có biết phải làm gì với họ không?". Rồi ông ta bắt đầu xả súng bắn họ và ông ta bảo tôi cũng phải bắn. Thế là tôi nhét bốn băng đạn vào khẩu súng M16 của tôi, có tất cả 68 viên và tôi bắn thẳng vào họ, tôi đã giết khoảng 10-15 người" (Binh sĩ Paul David Meadl).
* "Tôi không nhớ gì hết ngoài những người dân làng bị giết. Máu chảy khắp mọi nơi. Cả những lính Mỹ da trắng cả những lính Mỹ da đen đều bắn, giết. Họ bắn bửa những cái đầu làm đôi và rất nhiều lính Mỹ trên người dính những mảnh thịt. Họ đã giết của tôi một đứa con gái 24 tuổi và một đứa cháu nhỏ 4 tuổi" (Từ lời kể lại cho tờ Time của chị nông dân Đỗ Thị Chúc, người thoát chết trong vụ thảm sát).
Khi bước chân vào phòng trưng bày ở tầng trệt, tôi và mọi người được chị hướng dẫn viên giới thiệu, thuyết minh về những giai đoạn, những điểm mốc trong cuộc kháng chiến này trong lịch sử. 22 năm chống Mỹ cứu nước, 22 năm nhân dân ta nói chung và những người cộng sản nói riêng đã phải chịu những đau thương mất mát hết sức to lớn: mẹ già mất con, vợ mất chồng, con mồ côi cha mẹ, những người luôn phải ẩn nấp vì luôn bị theo dõi, rà soát,…và sẽ bị tra tấn dã man thậm chí là có thể bị giết khi bị địch bắt…. Những năm tháng tưởng chừng như không thể nào qua! 22 năm, liên tục hứng chịu những cơn giận dữ của Mỹ - Diệm, là đối tượng trực tiếp của hàng ngàn tấn bom đạn, hàng ngàn tấn chất khai quang thả xuống đầu dân ta. Đã từng chịu những trận càn khốc liệt của địch, tưởng chừng như nhân dân miền Nam và lực lượng bộ đội cụ Hồ không thể nào vượt qua được. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với các chiến lược sáng suốt, bằng lòng quyết tâm họ đã chiến đấu và sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Tuy đã nghe chị hướng dẫn viên thuyết trình trước nhưng khi đi vòng quanh khu vực trưng bày chính ở tầng trệt tôi thật sự bị sốc. Tôi không tin vào những gì đang bày ra trước mắt mình. Đó sản phẩm do những con người tạo ra cho chính đồng loại của họ hay sao? Tôi nhìn trong ánh mắt ngần ngại, tôi thấy sợ.
Bức ảnh là cuộc thảm sát ở Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, ngày 16/3/1968. Họ giết người già, phụ nữ, trẻ nhỏ… không chừa ai cả.
Khi nhìn bức ảnh trên đây chắc hẳn ai trong chúng ta cũng sẽ thắc mắc: Tại sao một cái ống cống mà lại được trưng bày ở trong Bào tàng như vậy?
“Khoảng 8 đến 9 giờ ngày tối ngày 25/2/1969, một toán biệt kích hải quân SEAL (1 trong những đơn vị thuộc lược lượng biệt kích tinh nhuệ của quân lực Mỹ, do trung úy Bod Kerrey chỉ huy tiến vào ấp 5, xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Họ đã cắt cổ ông Bùi Văn Vát 66 tuổi và bà Lưu Thị Cảnh 62 tuổi, rồi kéo 3 em bé là cháu nội của bà đang nấp trong ống cống và đâm chết hai cháu, mổ bụng 1 cháu. Sau đó toán lính di chuyển đến hầm trú ẩn của các gia đình khác bắn chết 15 người (trong đó có 3 phụ nữ mang thai), mổ bụng 1 bé gái. Nạn nhân duy nhất còn sống sót là bé gái tên Bùi Thị Lượm 12 tuổi bị thương ở chân. Đến tháng 4 năm 2001, cựu Thượng sỹ Mỹ Bod Kerrey mới thú nhận tội ác của mình trước dư luận quốc tế.)”. Chúng giết người và đốt phá, không chừa gì cả:
Không chỉ vậy, trong khi dân ta đang kêu khóc thì chúng cười sảng khoái, chụp hình “lưu niệm” bên cạnh một phần thân thể của chiến sĩ ta (sản phẩm bom đạn của chúng), chúng lấy xác người để làm chiến lợi phẩm.
Xem những bức ảnh mà tôi cứ tự hỏi mình “Những con người đó có trái tim hay không mà có thể hành động như vậy?”. Chúng giết người và xem đó là niềm hãnh diện. Chúng đối xử với chúng ta tàn bạo độc ác vậy mà bộ đội chúng ta thì lại đối xử hết mức nhân từ với chúng. Tại sao những con người “tiến bộ” ấy lại thua kém chúng ta xa như vậy? Từ đó mới thấy được lòng nhân ái của con người Việt Nam to lớn đến mức nào. Đó là tư tưởng của Bác, của Đảng và của nhân dân ta trong mọi thời đại. Tôi thấy hạnh phúc và tự hào hơn nữa khi mình là người Việt Nam.
Sau một khoảnh khắc lắng lòng hồi tưởng về quá khứ, tôi tiếp tục rảo bước trong Bảo Tàng. Tôi bước ra ngoài và tiến tới khu “Chuồng Cọp” - một cái tên phần nào hiện diện được những ngày tháng bị tra tấn đoạ đày của các nạn nhân của chế độ lao tù thời Ngô Đình Diệm tới Nguyễn Văn Thiệu. Mặc dù đã được dạy, được nghe nhiều nhưng tôi thực sự bàng hoàng khi nhìn những bản - biểu đồ thể hiện mạng lưới lao tù tại miền Nam Việt Nam.
Chỉ tính riêng những nhà tù thật sự lớn thì mật độ của nó cũng đã khiến ta phải choáng ngợp. Chỉ ở khu vực Sài Gòn và lân cận đã có đến 3 nhà tù lớn (kí hiệu màu đỏ), hàng chục nhà tù quy mô vừa và đến hàng mấy chục nhà tù nhỏ. Ở trong những lao tù ấy, biết bao chiến sĩ cách mạng của dân ta đã phải chịu những cực hình, phải trải qua những tháng ngày có thể nói là còn hơn ở địa ngục. Cũng ở những nơi ấy, các nữ chiến sĩ cách mạng của chúng ta cũng phải chịu đoạ đày… Đây là nhà tù Thủ Đúc, nơi giam cầm những phụ nữ Việt Nam yêu nước tham gia hoạt động chống chính quyền Sài Gòn cũ.
Còn đây là phòng giam biệt lập ở Thủ Đức, còn được gọi là phòng kỷ luật an ninh, hay còn gọi bằng cái tên nghe rùng mình hơn nữa, đó là “Hoả lò”, bởi lẽ cái phòng giam ấy quá chật chội, nóng bức; chật chội đến nỗi các tù nhân phải thay nhau ra cửa đứng để hít thở khí trời.
Tại Côn Đảo, chúng đã xây dựng “chuồng cọp”. Chuồng Cọp không phải là nơi nuôi cọp, mà là một kiểu xà lim đặc biệt dùng để giam giữ những người Việt Nam yêu nước mà Mỹ - ngụy khép họ vào loại ngoan cố nhất. Trong một không gian chật hẹp với diện tích 1.5m x 2.7m x 3m, người tù bị khóa hai chân lại, bị tra tấn dã man… Ăn uống, vệ sinh cũng trong 1 không gian ấy… “Chuồng cọp” chỉ được phác họa lại ở bảo tàng nhưng tôi đã cảm thấy như mình đang ở Côn Đảo và cảm nhận được sự tàn khốc thực sự ở đây. Tôi thấy rùng rợn, diễn lại những cảnh tra tấn tù binh của bọn đế quốc thật dã man, không còn tính người mà cảm thấy sự bất khuất, kiên định của những người cộng sản yêu nước.
Sự đàn áp dã man của chúng đã gây nên những cái chết bi thảm của các tù nhân. Thật tang thương khi nhìn đồng bào của mình phải đỏ máu, còn chúng, chắc đang phấn khởi “đếm” những “thành tích” mà chúng đã đạt được..!
Không chỉ có “Chuồng cọp”, tôi và mọi người còn được nhìn thấy chiếc máy chém, chiếc máy chém này từng gây kinh hoàng cho không biết bao người dân miền Nam dưới ách thống trị với chiến dịch “Lê máy chém đi khắp miền Nam”. Chiếc máy chém đầu tiên được hoạt động tại Pháp năm 1792, sau đó thực dân Pháp đưa sang để đàn áp phong trào nông dân của Việt Nam năm 1911. Sau đó không lâu chiếc máy chém thứ hai cũng được đưa sang. Đến năm 1960 người cuối cùng bị chém bằng máy chém là chiến sĩ Hoàng Lê Kha, tỉnh ủy viên tỉnh Tây Ninh. Với ai đã từng nhìn thấy chiếc máy chém này, không ai là không phải khiếp sợ. Chỉ cần lưỡi chém ấy rớt xuống thì đầu và thân sẽ tách rời nhau. Tôi không thể tưởng tượng được tại sao họ lại đưa ra cách giết người dã man như vậy?
Bị tra tấn, đàn áp dã man là thế, nhưng hầu hết các chiến sĩ đều đã vượt qua. Không biết động lực nào đã giúp cho ý chí của họ mạnh mẽ kiên cường, vượt qua tất cả như vậy. Phải chăng lòng yêu nước đã giúp họ chiến thắng mọi thử thách trong chốn lao tù, để mãi mãi kiên cường giữ lấy bí mật cách mạng, góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc ta ngày nay. Tôi tự hỏi nếu mình ở trong thời đó liệu mình có làm được như vậy?
22 năm đã trôi qua, chiến tranh cũng đã qua đi, hy sinh của nhân dân Việt Nam, con cháu Bác Hồ đã không vô ích, ngày 30/4/1975, nước ta giành được độc lập trong nỗi vui mừng khôn xiết của tất cả mọi người. Những tưởng rằng từ đây, cuộc sống hạnh phúc, ấm no của mọi người sẽ được như mong đợi. Nhưng không may thay, hậu quả chiến tranh mãi mãi trở thành nỗi ám ảnh của người dân các dân tộc bị xâm lăng. Trong cuộc chiến thảm khốc này, chúng đã rải xuống đất nước ta không biết bao nhiêu là lượng chất độc Dioxin - chất độc màu da cam! Chúng sử dụng những phương tiện tối tân nhất để thực hiện công việc này.
Và hậu quả thì sao? Những mảnh rừng xanh tốt, những vùng đất đầy sự sống, tất cả chỉ cỏn là bình địa không chút sự sống!
Chất độc màu da cam không những hủy diệt cây cố mà còn hủy diệt cả con người trên mảnh đất ấy. Có người trực tiếp là nạn nhân của chất độc màu da cam, chịu những thương tổn về thể chất lẫn tinh thần. Phải mang trên mình một cơ thể không trọn vẹn, họ có suy nghĩ gì..! Ắt hẳn chúng ta cũng phần nào cảm nhận được!
Có thể những nỗi đau trực tiếp trên thân xác họ còn nhẹ nhàng hơn là khi họ sinh ra những người con phải chịu hậu quả từ chất độc da cam… Mỗi sinh linh bé nhỏ chào đời là niềm hạnh phúc lớn lao của các mẹ, nói sao cho hết nỗi bàng hoàng và nỗi đau khi ôm trên tay một sinh linh vừa chào đời với những thương tật trên mình vì chất độc màu da cam..?
Chúng nào có tội tình gì mà phải chịu số phận: dị hình dị dạng ngay từ khi còn trong bụng mẹ, sinh ra bị thiểu năng trí tuệ, không phát triển được như người thường, bị dị tật,…! Thật tội nghiệp, chúng chỉ là những nạn nhân của chiến tranh! Chỉ vì một lý do duy nhất: cha mẹ, ông bà là kẻ địch của chế độ Mỹ - Diệm hay chỉ đơn thuần là người dân nằm trong vùng nghi ngờ của chúng, là những người hít thở bầu không khí đầy chất độc da cam
Hậu quả của chiến tranh còn đó, hậu quả của chất độc da cam cũng còn nguyên hình! Đảng, Nhà nước và con người Việt Nam đã tranh đấu trong hòa bình để giành lại quyền lợi cho những nạn nhưng ấy, những người đã trực tiếp hoặc có cha anh là người hiến máu xương vì độc lập dân tộc nhưng lại đang ghánh chịu những nỗi đau khủng khiếp. Dù cho đến nay thế giới cũng đã có nhiều hành động thiết thực để xoa dịu nỗi đau của nạn nhân chất độc màu da cam, nhưng chữa sao cho hết vết thương thể xác và vết thương tinh thần đã in hằn sâu trong con người này!
Không chỉ có những nạn nhân nhiễm chất độc màu da cam mà những người lính cụ Hồ năm xưa, bây giờ mỗi khi trời trở gió là lại đau nhức, hậu quả của những viên đạn, quả bom và những hình thức tra tấn dã man của giặc Mỹ. Nhìn những hình ảnh đáng sợ trưng bày trong các gian phòng của bảo tàng, không ai có thể tin được rằng chúng ta, một dân tộc với hình thể nhỏ bé lại có thể chịu đựng và vượt qua được sự tàn ác ấy. Chắc hẳn không nơi nào được chúng tặng cho nhiều bom đạn như Việt Nam. Nhiều về cả số lượng lẫn chủng loại, kích thước cũng như sức tàn phá. Để lại hậu quả khủng khiếp trên con người và đất nước Việt Nam.
Khi tham quan bảo tàng hàng loạt câu hỏi được đặt ra, và cũng hàng loạt câu hỏi rơi vào trong im lặng, không có câu trả lời, sự phẫn nộ bùng lên rồi lại lắng xuống. Tất cả đều được biện minh bằng một lý do duy nhất: Chiến tranh! Phải, chỉ có hai từ “chiến tranh” thôi mà mang lại nhiều đau thương quá, chiến tranh gây mất mát nhiều quá, tổn thương về tinh thần do chiến tranh gây ra đau đớn quá! Nhưng dù sao thì chiến tranh cũng đã qua, chúng ta đang sống và học tập trong thời bình, thành quả mà cha ông ta đã phải đánh đổi bằng máu và nước mắt trong suốt những năm dài trường kỳ kháng chiến, chúng ta, những lớp trẻ tương lai, những người có nhiều khát vọng và ý chí, có nghĩa vụ và bổn phận phải làm cho đất nước ta lưu danh thiên sử với những thành tựu trong các mặt của đời sống và xã hội, và dần dần xóa bỏ đi vết thương của chiến tranh. Xóa bỏ đi vết thương của chiến tranh không có nghĩa là để cuộc kháng chiến chống Mỹ đi vào quên lãng, mà chúng ta và những thế hệ con cháu sau này càng phải biết về chiến tranh để biết được giá trị của hòa bình, trân trọng từng phút giây mình được sống trên đất nước hòa bình, thống nhất và độc lập!
Bảo tàng chứng tích chiến tranh đã giúp tôi, một sinh viên đang ngồi trong giảng đường, thấy rõ hơn những tội ác chiến tranh của bọn đế quốc, bọn tay sai đã gây ra cho nhân dân Việt Nam, và nhắc nhở tôi phải ra sức học tập tốt, cố gắng phấn đấu hơn nữa để đền đáp công ơn của những người đã ngả xuống vì đất nước Việt Nam thân yêu. Chỉ bằng vài trang viết thì không thể nào diễn tả hết những cảm xúc và sự thật của cuộc chiến tranh, tôi nghĩ nếu là người Việt Nam hay bất kì ai đặt chân lên đất nước Việt Nam đều nên một lần ghé thăm Bảo tàng chứng tích chiến tranh, để có thể thấy được một phần của nỗi đau đã hằn lên thân xác con người Việt Nam nói riêng và tội ác của chiến tranh nói chung. Mỗi chúng ta phải nhìn vào đó mà ý thức sự hủy diệt, tàn ác của chiến tranh, từ đó chung tay góp sức để giữ gìn hòa bình cho đất nước mình và hướng tới hòa bình toàn thế giới.
BÀI CẢM NHẬN SAU KHI ĐI THAM QUAN “BẢO TÀNG CHỨNG TÍCH CHIẾN TRANH”
Có lẽ không cần phải nói nhiều về bảo tàng “Chứng tích chiến tranh” này cả thì bất kì ai, kể cả những người chưa bước chân vào bảo tàng cũng biết trong bảo tàng trưng bày những gì. Vâng! Đúng như thế, không còn gì khác ngoài câu chuyện về cuộc đấu tranh hào hùng chống lại đế quốc Mĩ và tay sai trong những trang sử vẻ vang của dân tộc ta!
Bước vào bảo tàng, cái nhìn đầu tiên của tôi là những cỗ máy chiến tranh thật hiện đại vào thời đó, nào là: xe tăng, máy bay chiến đấu, bom và súng đạn, rồi lần lượt tôi đi tham quan qua các gian nhà trưng bày hình ảnh nào là: những sự thật lịch sử, bộ sưu tập ảnh phóng sự hoài niệm, chứng tích tội ác và hậu quả chiến tranh xâm lược, chế độ lao tù trong chiến tranh xâm lược, nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến, tranh thiếu nhi “Chiến Tranh Và Hòa Bình”, những con người sau chiến tranh (Đa số là họ là những nạn dân của chất độc màu da cam) khi tôi đi đến đây và tôi thấy trưng bày mô hình của hai đứa bé bị chất độc màu da cam mà chưa ra đời, đến đây cảm giác cảm nhận về hậu quả chiến tranh đã để lại như thế nào, thật là cảm động, thật là thương tâm!! Nhưng khi đi đến gian nhà mà người ta dựng lại nhà tù ở Côn Đảo: “Chuồng cọp” thật rùng rợn, diển lại những cảnh tra tấn tù binh của bọn đế quốc thật dã man, không còn tính người gì cả, nguời xem mà còn cảm nhận được ghê rợn đến buốt xương như thế nào mặc dù đó chỉ là những mô hình được dựng lại!
Và tôi cũng được các chị hướng dẫn viên xinh đẹp giới thiệu, thuyết minh về những giai đoạn, những điểm mốc trong cuộc kháng chiến này trong lịch sử. 22 năm chống Mỹ cứu nước, 22 năm nhân dân ta nói chung và những người cộng sản nói riêng đã phải chịu những đau thương mất mát to lớn như thế nào: mẹ già mất con, vợ mất chồng, con mất cha, mổ côi mẹ, những con người không biết bám vào đâu mà sống khi xung quanh luôn có người kiểm tra, theo dõi, tra tấn dã man thậm chí là có thể giết người khi cần hay chỉ đơn giản là thích. Những năm tháng tưởng chừng như không thể nào qua! 22 năm, liên tục hứng chịu những cơn giận dữ của Mỹ – Diệm, là đối tượng trực tiếp của hàng ngàn tấn bom đạn thả xuống đầu dân ta, đã từng chịu những trận càn khốc liệt của địch, tưởng chừng như nhân dân miền Nam nói riêng và lực lượng bộ đội cụ Hồ nói chung không thể nào vượt qua được, những hình ảnh tàn ác và đẫm máu ấy vẫn ngày đêm ám ảnh những người trẻ tuổi đã có dịp bước chân vào bảo tàng như chúng ta!
22 năm đã trôi qua, chiến tranh cũng đã qua đi, hi sinh của nhân dân Việt Nam, con cháu Bác Hồ đã không là vô ích, ngày 30/4/1975, nước ta giành được độc lập trong nỗi vui mừng khôn xiết của tất cả mọi người. Những tưởng rằng từ đây, cuộc sống hạnh phúc, ấm no của mọi người sẽ không còn là mơ nữa, nhưng không! Chiến tranh đã qua đi, nhưng hậu quả của nó vẫn để lại khiến cho bao nhiêu người dân phải lao đao, những đứa trẻ sơ sinh hay nằm trong bụng mẹ nào có tội tình gì mà phải chịu số phận như thế: dị hình dị dạng ngay từ khi còn trong bụng mẹ, hay là sinh ra lại bị thiểu năng trí tuệ, không phát triển được như người thường! Thật tội nghiệp, chúng chỉ là những nạn nhân của chiến tranh chỉ vì một lý do duy nhất: cha mẹ chúng là kẻ địch của chế độ Mỹ – Diệm hay chỉ đơn thuần là vì người dân nằm trong vùng nghi ngờ của chúng, là những người hít thở bầu không khí đầy chất độc màu da cam. Rồi những người lính cụ Hồ năm xưa bây giờ mỗi khi trời trở gió là lại đau nhức, hậu quả của những viên đạn, quả bom và những hình thức tra tấn dã man của giặc Mỹ. Cùng là con người với nhau, tại sao họ có thể làm được như thế: một bên thì cười vui, lấy việc tra tấn, giết chóc nhân dân Việt Nam và chiến sĩ cách mạng làm niềm vui, một bên thì kiên cường, bất khuất với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, vẫn mỉm cười ngạo nghễ dù cho thịt nát, xương tan vẫn không nói nửa lời! Nhìn những hình ảnh đáng sợ trưng bày trong các gian phòng của bảo tàng, không ai có thể tin được rằng chúng ta, một dân tộc với hình thể nhỏ bé lại có thể chịu đựng và vượt qua được. Theo Nhóc, điều đau đớn nhất trong tim người cộng sản, trong tim những người con sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc chính là bị tra khảo bởi những người anh em của mình, những người con Việt Nam lầm đường lạc lối theo địch tàn sát lại chính đất nước của mình. Cùng là người Việt Nam, tại sao lại là kẻ thù của nhau trong chiến tranh? Tất cả là vì nhận thức con người mà thôi, người thì được Đảng giác ngộ, kẻ thì bị lu mờ bởi hào nhoáng của sự giàu sang mà địch quân hứa hẹn mang lại. Càng đi sâu vào bảo tàng, điều ấy càng lộ ra ngày một rõ, tất cả vì lòng tham không đáy của con người! Tại sao lại có những người không còn tính người vì sao họ lại có thể cười khi chụp cạnh một tử thi (tử thi đó là một người dân Việt Nam,là một anh chiến sĩ giải phóng)? Đơn giản vì đó chính là thành quả của họ, bởi vì chính tay họ đã giết hại những người đó, phải chụp hình lưu lại những hình ảnh mà có lẽ chỉ có một mình họ dám làm: Giết người mà vẫn cười vui vẻ, thậm chí còn ganh đua nhau để giết cho đủ số lượng. Thật là kinh khủng! Có đau thương nào to lớn như chiến tranh Việt Nam? Có mất mát nào nhỏ bé hơn chiến tranh Việt Nam? Và cũng có ai vĩ đại như nhân dân Việt Nam, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ lầm đường lạc lối quay trở về? Có người mẹ nào có lòng vị tha vĩ đại như người mẹ Việt Nam, có thể tha thứ cho những kẻ đã giết con mình, đẩy con mình vào cảnh máu chảy đầu rơi, làm cho mình rơi vào cảnh sớm hôm một mình neo đơn? Ai có thể hiểu được cho sự tha thứ cao quí ấy? Tại sao khi họ đẩy người dân Việt Nam vào tình cảnh dở sống dở chết ấy, họ không nghĩ một lần về gia đình họ, họ không thể tưởng tượng ra được cảnh không phải là những chiến sĩ cộng sản đang chịu đòn roi, đang chịu bom đạn mà là chính họ đang chịu? Hàng loạt câu hỏi được đặt ra, và cũng hàng loạt câu hỏi rơi vào trong im lặng, không có câu trả lời. Tất cả đều được biện minh bằng một ly do duy nhất: Chiến tranh! Phải,chỉ có hai từ “chiến tranh” thôi mà mang lại nhiều đau thương quá, chiến tranh gây mất mát nhiều quá, tổn thương về tinh thần do chiến tranh gây ra đau đớn quá! Nhưng dù sao thì chiến tranh cũng đã qua, chúng ta đang sống và học tập trong thời bình, thành quả mà cha ông ta đã phải đánh đổi bằng máu và nước mắt trong suốt những năm dài trường kì kháng chiến, chúng em có nghĩa vụ và bổn phận phải làm cho đất nước ta lưu danh thiên sử với những thành tựu trong các mặt của đời sống và xã hội, và dần dần xóa bỏ đi vết thương của chiến tranh. Xóa bỏ đi vết thương của chiến tranh không có nghĩa là để cuộc kháng chiến chống Mỹ đi vào quên lãng, mà chúng ta và những thế hệ con cháu sau này càng phải biết về chiến tranh để biết được giá trị của hòa bình, trân trọng từng phút giây mình được sống trên đất nước hòa bình, thống nhất và độc lập!
Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh đã giúp tôi không thể nào quên được những tội ác chiến tranh của bọn đế quốc, bọn tay sai đã gây ra cho nhân Việt Nam chúng ta, và nhắc nhở chúng ta phải ra sức học tập tốt để đền đáp công ơn các chiến sĩ giải phóng,bộ đội cụ Hồ ngày đêm ra sức chiến đấu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chúng ta như được những ngày hôm nay! Hôm đi tham quan, tôi rất vui một điều là có rất nhiều người nước ngoài tìm đến tham quan bảo tàng cùng với người dân Việt Nam,Nhóc cảm thấy họ khâm phục nhân dân ta dũng cảm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, và họ cũng lên án tội án chiến tranh đã gây ra cho một đất nước kiên cường như thế này, đó là nước: Việt Nam!!
Mỗi một chúng ta, ai cũng có quê hương của mình. Quê hương là chùm khế ngọt, là nơi để lại những kỉ niệm đẹp trong cuộc đời. Dẫu có phải đi xa, bao giờ người ta cũng nhớ về quê cha đất tổ. Quê hương em có biết bao nhiêu cảnh đẹp. Mỗi chiều đi học về em lại được đắm mình trong cảnh đẹp cánh đồng lúa quê em.
Em lớn lên ở vùng chiêm trũng, nơi có cánh đồng thẳng cánh cò bay. Và có lẽ cánh đồng lúa quê em luôn có sức hấp dẫn kéo những người, đi xa nghĩ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Những buổi sáng mùa xuân ra đứng ở đầu làng mà nhìn cánh đồng thì thích thú biết bao! Gió xuân nhẹ thổi, sóng lúa nhấp nhô từng đợt, từng đợt đuổi nhau ra mãi xa. Một đàn cò trắng dang rộng đôi cánh bay qua, nổi bật trên nền trời xanh thẳm. Nhất là những buổi khi bà con nông dân đi làm cỏ, cánh đồng rộn lên bao câu ca tiếng hát. Từng đàn bướm đủ màu sắc sặc sỡ như đùa giỡn với thảm lúa xanh. Vào những mùa lúa chiêm đang chín rộ, nếu ai đứng ở xa nhìn lại sẽ thấy một biển vàng mênh mông. Rải rác khắp cánh đồng là cảnh bà con nông dân đang gặt lúa, nón trắng nhấp nhô trên đồng.
Chiều đến khi gió nồm nhẹ thổi, lúa khẽ lay động rì rào như đang thì thầm tâm sự với nhau. Những buổi chiều thu, làn sương phủ trên cánh đồng, trông xa như một màn khói loãng, trắng nhờ nhờ. Sáng ra, màn sương tan đi để lại những giọt sương long lanh trên lá lúa.
Đến khi mặt trời lên sưởi ấm cánh đồng, những tia nắng rọi vào hạt sương tưởng như muôn vàn hạt ngọc li ti, ánh lên những tia sáng muôn màu, muôn vẻ trông rất đẹp.
Ở xóm em, có những anh chị đi xa, lần nào về thăm quê cũng ra thăm cánh đồng. Họ say sưa nhìn ngắm những con chim sẻ đi kiếm ăn bay là là trên thảm lúa. Thỉnh thoảng, chúng đỗ hẳn xuống rồi lại bay vút lên trời xanh ríu rít gọi nhau.
Em yêu mến cánh đồng làng em, yêu mến quê hương em. Nơi đây, em đã sinh ra và lớn lên. Giờ đây, vùng chiêm trũng này đã có những cậu “trâu sắt” băng băng chạy trên cảnh đồng. Điện cao thế bừng sáng xóm làng. Cuộc sống đang đi lên trên con đường hạnh phúc.
Quê hương tôi ngoài bãi đá bờ đê dòng sông bên lở bên bùi thì còn có cánh đồng lúa là thắng cảnh đẹp. có thể nó không được thế giới cũng như nhà nước công nhận nhưng nó luôn là cảnh tượng đẹp nhất trong lòng tôi. Còn gì đẹp hơn khi nhìn thấy những cánh đồng lúa rộng thẳng cánh cò bay, một nét đẹp của cội nguồn dân tộc mà mỗi chúng ta nên tìm về để chiêm ngưỡng cũng như gìn giữ nó. Một nét đẹp giản dị mộc mạc mang màu xanh của hòa bình
Cánh đồng lúa quê tôi mang một màu xanh hòa bình êm dịu bất cứ ai cũng yêu mến khi ngắm nhìn nó. Một hình ảnh quá đỗi quen thuộc của làng quê khiến cho những ai sinh ra ở đây thì sẽ không thể quên được nó. Cánh đồng lúa quê tôi được chia thành những ô nhỏ, những bờ ruộng vuông vắn với bờ cao được những người nông dân đắp cao để ngăn không cho nước chảy ra khỏi ruộng. Những cây lúa cứ thế không lo hết nước sinh trưởng và phát triển tốt.
Khi cây lúa mới được trồng lên ngọn của nó nhỏ nhắn thân mền trước gió, nếu gió to có thể gẫy cây bất cứ lúc nào. Những cây lúa non ấy chỉ khi qua mấy tuần nó sẽ cứng chân lên, xanh tốt và đẹp đẽ. Cái màu xanh non của lúa mới trông thật dễ mến làm sao. Cả đồng lúa mơn man một màu xanh nhẹ nhàng như thế, một màu xanh dịu dàng nhưng không kém phần tinh tế. Có những lúc cơn gió kia vội vàng thổi làm cho đồng lúa như múa reo vì những lá lúa non đua nhau phấp phới như múa như reo hay chính là nó đang vung vẫy nổi dậy để lớn lên?
Khi cây lúa lớn hơn những cây khác mọc lên thành khóm lúa, những khóm lúa có màu xanh đậm hơn, cứng cáp hơn dày dặn hơn. Thân vẫn không thiếu đi độ mềm dẻo khi có những cơn bão trở về từng khóm lúa bám chặt vào đất mặc cho sức gió lúa vẫn phát triển lớn lên. Khi cơn bão qua đi thì cánh đồng lúa không còn thẳng một màu được nữa vì cũng có những cây lúa đã đổ xuống. thế nhưng nó không chết đi mà nó vẫn gượng dậy và phát triển cho ra những hạt thóc vàng mùa bội thu. Cũng có những cây lúa nghiêng ngả đã vững vàng trước sóng gió đứng thẳng được dậy.
Thời này là nơi đẹp nhất người ta gọi nó là thời con gái, những hạt thóc đang ấp ủ bên trong những thân lúa, cái món mà lũ trẻ trâu chúng tôi thường hay ăn, mùi của nó thơm thơm, vị của nó ngọt ngào, ngọt cái ngọt riêng của thóc lúa mà không có cái nào giống được. Dân làng tôi gọi nó là đòng đòng, những nhánh đòng đòng dấu mình bên trong thân lúa giống như những cô gái thẹn thùng nép nép ngượng ngùng. Không chỉ thế gọi nó là thời con gái vì lúc này lúa dẻo dai nhất đẹp nhất, nhìn cả cánh đồng với màu xanh đậm ai cũng sẽ chạnh lòng nghĩ về một thời tuổi thơ trên cánh đồng xanh mượt này.
Còn khi đồng lúa có màu vàng đòng nghĩa là lúa đã đến mùa gặt, những bông lúa nặng trĩu trên tay vàng chói như những bông vàng, hạt châu báu của dân làng tôi. Cả đồng lúa tràn ngập sắc vàng, có chỗ vàng tươi, có chỗ lại vãng sẫm, có chỗ vàng xen lẫn xanh. Khi những cơn gió ùa về như nổi nhớ cả cánh đồng rì rào uốn lượn như từng lớp sóng đầy nhau về phía bờ. Thân lúa lúc này vững chải, người ta không thể lấy tay nhổ được nữa mà phải lấy liềm cắt. những bó lúa được xếp thành những lượm lúa nhỏ tuyệt đẹp. Lúa chín đều vui vẻ một mùa bội thu cho nhân dân. Nó giống như hạt ngọc của quê tôi vậy
Tôi rất yêu cánh đồng quê hương, nó không chỉ là chỗ để nhân dân tăng gia sản xuất mà nó còn là cánh đồng lúa xanh mướt, là cánh đồng tuổi thơ, cánh đồng kỉ niệm của cá nhân tôi cũng như của những người sinh ra trên quê hương cánh đồng lúa. Càng ngày tôi càng nhận thấy vẻ đẹp của nó và tôi biết nó đã chiếm một phần nào đó trong tái tim tôi.
Bai 1 :
a: Cai but nay cua em
b: ban Lan bang tuoi em
c: ban den nha minh hoac minh den nha ban
d; ban lan xin co nghi vi co li do
e: ban voi minh la hai nguoi ban than
Cái bút này là của tôi ĐỂ HỌC GIỎI BẠN ẤY PHẢI RẤT CHĂM CHỈ
DO CHĂM CHỈ NÊN BẠN EM HỌC GIỎI NHẤT LỚP TÔI VỚI CON CHÓ ĐÓ CÙNG ĐI DẠO PHỐ
TÔI CAO BẰNG BẠN ẤY
TÔI HOẶC EM TÔI SẼ ĐƯỢC ĐI BIỂN
BÀI 2
Quê hương là con diều biếc, tuổi thơ con thả trên đồng, quê hương là con đò nhỏ, êm đềm khua nước ven sông.Đúng thật, quê hương thật đẹp và mênh mông. Tuổi thơ tôi gắn liền với cánh đồng lúa quê hương. Nhớ những ngày nước lũ, tôi với bà ngoại lại ra đồng cắt lúa. Nước ruộng lên tới đầu gối. Nếu như ngày nào mưa thì bà ngoại ra đồng một mình, tôi ở nhà học bài. Tôi yêu quê hương mình rất nhiều, tôi sẽ cố gắng học tập thật tốt để sau này xây dựng quê hương đất nước.
- Quan hệ từ: và, với, Nếu- thì
mình có hai bài văn
Trong mỗi người đều có một niềm đam mê cho riêng mình và với tôi đó là đọc sách. Đọc sách mang lại những tri thức cho con người. Sách còn giúp tôi thư giãn sau những giờ học hành mệt mỏi. Tôi có rất nhiều loại sách như: sách văn học, sách tìm hiểu tri thức khoa học, sách địa lí – lịch sử… Hễ khi nào có dịp đi nhà sách thì tôi luôn chọn cho mình những cuốn sách bổ ích với bản thân. Tôi luôn trân trọng vàgiữ gìn cẩn thận những cuốn sách đó
quan hệ từ là và; như; hễ; thì; với.
nhớ k cho mình nhé mình là người đầu tiên
Đề 1: Bạn tham khảo bài này nhé
Đối với mỗi người chúng ta chắc hẳn đều có những ấn tượng hay những kỉ niệm mà ta không thể nào quên được. Đó đơn giản chỉ là những buổi tựu trường hay những hôm khai giảng và cả những người bạn khó quên. Còn đối với riêng tôi thì hình ảnh cô giáo chủ nhiệm say sưa giảng bài luôn để lại trong tôi những ấn tượng khó quên đối với tôi.
Đó là cô Mai cô giáo dậy văn và cũng là cô giáo chủ nhiệm của chúng tôi. Cô mới làm cô giáo chủ nhiệm trong lớp chúng tôi khi chúng tôi mới bước vào năm học lớp sáu. Cô là một cô giáo rất nhiệt tình rất chu đáo đối với chúng tôi nên có thể nói cô là cô giáo được tất cả lũ học sinh trong lớp chúng tôi yêu quý. Lớp chúng tôi không phải là một lớp chuyên văn mà là một lớp chuyên toán thế nên việc học văn đối với chúng tôi mà nói là một việc khó khăn. Thế nhưng chính cô đã truyền cho chúng tôi những cảm hứng về môn văn để chúng tôi dần dần yêu thích nó hơn chứ không ghét nó như trước kia nữa. Môn văn dần dần đến với chúng tôi thật nhẹ nhàng như cái cách giảng bài say sưa và cách dậy bài truyền cảm của cô đối với chúng tôi. Cô là một cô giáo cũng ở quê chúng tôi chính vì thế mà cô rất hiểu những đứa trẻ khó khăn như chúng tôi. Cô không chỉ đứng trên lớp giảng bài mà thường xuyên đến chỗ chúng tôi, xem chúng tôi ghi chép ra sao. Những lúc như thế nhìn ánh mắt cô thật nghiêm nghị nhưng cũng thật trìu mến trong đó có cả tình yêu thương của cô dành cho lũ học trò chúng tôi nữa.
Cô để lại trong chúng tôi rất nhiều những kỉ niệm nhưng đối với riêng tôi thì cái tiết học văn của chúng tôi khi mới bước vào lớp sáu luôn để lại trong chúng tôi những kỉ niệm khó quên về cách giảng bài say sưa nhưng cũng đầy cuốn hút của cô. Hôm ấy tôi vẫn còn nhớ như in cô giáo tôi mặc một chiếc áo dài màu vàng càng làm tôn thêm những nét đẹp trên con người cô. Trông cô thật dịu dàng với tà áo dài đó và cô như đang đưa một làn gió một không khí đến cho lớp học của chúng tôi. Cô giới thiệu về bản thân mình cho chúng tôi rồi chỉ một lát sau cô đã giới thiệu chúng tôi đến với tiết học đầu tiên. Chúng tôi ngồi dưới lớp đứa nào đứa đấy chăm chú từng hành động từng cử chỉ của cô. Bàn tay mền mại với những ngón tay búp măng nhỏ nhỏ xinh xinh của cô dần dần viết những nét chữ rất đẹp mà chúng tôi cứ nghĩ những nét chữ ấy chỉ có trong những quyển tập viết của chúng tôi thôi. Tà áo dài thướt tha ấy đi đi lại lại trên bục giảng khiến chúng tôi cảm thấy đây không giống một buổi học văn thông thường nữa mà là một buổi thảo luận về văn thì đúng hơn bởi chính sự hiền dịu của cô dành cho chúng tôi. Tấm bảng đứng bắt đầu dày những phấn trắng, những nét chữ đều đặn gọn gàng chỗ thanh chỗ đậm chỗ được gạch chân được cô trình bày rất khoa học chứng tỏ người viết là một người cực kì cẩn thận. Nhìn nét chữ của cô chúng tôi càng ngại ngùng về tính cẩu thả của mình.
Cô giới thiệu cho chúng tôi một cách chi tiết về hoàn cảnh ra đời cũng như nội dung chính của tác phẩm, cô nói đây là một bài văn khó nên chúng tôi cần chú ý. Sau đó cô hướng dẫn cho chúng tôi về cách đọc tác phẩm sao cho truyền cảm nhất. Cô đọc cho chúng tôi một đoạn đầu, cả lớp tôi ngồi im phăng phắc nghe cô đọc. Chao ôi sao giọng cô truyền cảm và ấm áp như vậy, chúng tôi chưa được nghe một giọng đọc nào hay đến vậy. Cô say sưa đọc từng dòng chữ cho chúng tôi mà không vấp một chữ nào, chúng tôi đứa nào đứa đấy tròn mắt vì cô đọc rất lưu loát đoạn văn này. Cô đặt câu hỏi cho chúng tôi trả lời mỗi khi có câu hỏi nào khó cô lại gợi ý cho chúng tôi, cô không chỉ dùng lời mà cô còn dùng cánh tay làm hành động để cho chúng tôi hiểu nữa. Ở những câu hỏi ấy cô còn cho điểm để cho chúng tôi hào hứng hơn. Những bạn không trả lời được cô hơi chau mày ròi cô từ từ giảng lại cho bạn ấy hiểu được. Ở những chi tiết khó cô thường nhấn mạnh nói lại một vài lần để cho chúng tôi có thể nhớ được. Cô không giảng một cách nhanh chóng mà cô luôn hỏi chúng tôi đã hiểu bài chưa. Những khi như thế chúng tôi đồng thanh đáp “chúng em hiểu bài rồi ạ” những lúc như thế cô mỉm cười rồi lại tiết tục giảng. Một tiết học đầu tiên của cô diễn ra vô cùng nhanh chóng, chúng tôi đứa nào đứa đấy đều không muốn kết thúc buổi học một chút nào bởi cô giảng cho chúng tôi rất hấp dẫn.
Tiết học đã tan mà những lời giảng dậy của cô vẫn còn văng vẳng bên tai chúng tôi. Cô không chỉ dừng lại ở một người dậy văn mà cô còn là một người truyền cảm hứng cho chúng tôi để chúng tôi yêu văn hơn hiểu văn hơn.
Mik làm một đề thôi nhé
Hok tốt
hãy viết một bài vă từ 10 đến 15 câu về mmootj bài văn tả cảnh
Mẹ)
Mỗi khi nhắc đến câu tục ngữ:
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra..."
là em lại nhớ đến người mẹ của em.Người đã mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày để sinh được em ra rồi nuôi em bằng dòng sữa ngọt lành để rồi đây em lớn và trưởng thành.Mẹ quả là người thật dũng cảm nên em yêu quý mẹ nhất trong nhà.
Bà)
Mỗi khi nhắc đến câu hát :
"Bà ơi bà cháu yêu bà lắm!..."
thì em lại nhớ đến người bà muôn vàn kính yêu của em.Vì bố mẹ không hay ở nhà chơi với ba chị em em vì bố mẹ còn phải sơm tối đi làm nên bà là người chăm sóc,chơi và trông nom ba chị em nên em quý bà vô cùng.
Mình làm rồi đấy k nha ! Chúc bạn học tốt
“Nếu ai còn mẹ
Xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn
Vương mắt mẹ nghe con...”
Người cho bạn thiên chức được sống như ngày nay chính là mẹ. Người mà ở đó ta không bao giờ thấy thiếu vắng hơi ấm, không bao giò thua lỗ về tình thương, không bao giờ bị lừa dối bởi tình cảm... Trên đời chỉ có mẹ là người ta đáng tin nhất. Ai cũng có một người mẹ như thế. Và bản thân tôi cũng vậy, cũng có một người mẹ tuyệt vời biết bao.
Mỗi lần về quê, cảm giác khiến tôi thoải mái nhất là ra thăm đồng vào buổi sáng. Cánh đồng lúa rộng bao la, bát ngát, trải đầy những ánh nắng vàng của mặt trời. Những bông lúa non nghiêng nghiêng theo chiều gió, những cánh lúa lấp lánh những ánh vàng. Mùi lúa non quyện với mùi đất, mùi nước tạo nên một thứ cảm giác thật tuyệt vời, khó diễn tả. Chỉ biết nó đem lại cho tôi một cảm giác rất sáng khoái. Xa xa, những đàn cò kêu eng éc, bay lên trời rồi lại đậu xuống, cứ dập dình dập dình như những chiếc bập bênh. Loáng thoáng, mấy người nông dân đang ra đồng thăm lúa, trên mặt ai cũng rạng rỡ, tràn đầy năng lượng. Khung cảnh đồng lúa buổi sớm bình dị là thế, đến mãi sau này khi đã đi xa nơi này tôi vẫn mai không thể nào quên.
NHỚ K NKA
uê hương tôi ngoài bãi đá bờ đê dòng sông bên lở bên bùi thì còn có cánh đồng lúa là thắng cảnh đẹp. Có thể nó không được thế giới cũng như nhà nước công nhận nhưng nó luôn là cảnh tượng đẹp nhất trong lòng tôi. Còn gì đẹp hơn khi nhìn thấy những cánh đồng lúa rộng thẳng cánh cò bay, một nét đẹp của cội nguồn dân tộc mà mỗi chúng ta nên tìm về để chiêm ngưỡng cũng như gìn giữ nó. Một nét đẹp giản dị mộc mạc mang màu xanh của hòa bình.
Cánh đồng lúa quê tôi mang một màu xanh hòa bình êm dịu bất cứ ai cũng yêu mến khi ngắm nhìn nó. Một hình ảnh quá đỗi quen thuộc của làng quê khiến cho những ai sinh ra ở đây thì sẽ không thể quên được nó. Cánh đồng lúa quê tôi được chia thành những ô nhỏ, những bờ ruộng vuông vắn với bờ cao được những người nông dân đắp cao để ngăn không cho nước chảy ra khỏi ruộng. Những cây lúa cứ thế không lo hết nước sinh trưởng và phát triển tốt.
Khi cây lúa mới được trồng lên ngọn của nó nhỏ nhắn thân mền trước gió, nếu gió to có thể gẫy cây bất cứ lúc nào. Những cây lúa non ấy chỉ khi qua mấy tuần nó sẽ cứng chân lên, xanh tốt và đẹp đẽ. Cái màu xanh non của lúa mới trông thật dễ mến làm sao. Cả đồng lúa mơn man một màu xanh nhẹ nhàng như thế, một màu xanh dịu dàng nhưng không kém phần tinh tế. Có những lúc cơn gió kia vội vàng thổi làm cho đồng lúa như múa reo vì những lá lúa non đua nhau phấp phới như múa như reo hay chính là nó đang vung vẫy nổi dậy để lớn lên?
Khi cây lúa lớn hơn những cây khác mọc lên thành khóm lúa, những khóm lúa có màu xanh đậm hơn, cứng cáp hơn dày dặn hơn. Thân vẫn không thiếu đi độ mềm dẻo khi có những cơn bão trở về từng khóm lúa bám chặt vào đất mặc cho sức gió lúa vẫn phát triển lớn lên. Khi cơn bão qua đi thì cánh đồng lúa không còn thẳng một màu được nữa vì cũng có những cây lúa đã đổ xuống. thế nhưng nó không chết đi mà nó vẫn gượng dậy và phát triển cho ra những hạt thóc vàng mùa bội thu. Cũng có những cây lúa nghiêng ngả đã vững vàng trước sóng gió đứng thẳng được dậy. Thời này là nơi đẹp nhất người ta gọi nó là thời con gái, những hạt thóc đang ấp ủ bên trong những thân lúa, cái món mà lũ trẻ trâu chúng tôi thường hay ăn, mùi của nó thơm thơm, vị của nó ngọt ngào, ngọt cái ngọt riêng của thóc lúa mà không có cái nào giống được. Dân làng tôi gọi nó là đòng đòng, những nhánh đòng đòng dấu mình bên trong thân lúa giống như những cô gái thẹn thùng nép nép ngượng ngùng. Không chỉ thế gọi nó là thời con gái vì lúc này lúa dẻo dai nhất đẹp nhất, nhìn cả cánh đồng với màu xanh đậm ai cũng sẽ chạnh lòng nghĩ về một thời tuổi thơ trên cánh đồng xanh mượt này.
Còn khi đồng lúa có màu vàng đòng nghĩa là lúa đã đến mùa gặt, những bông lúa nặng trĩu trên tay vàng chói như những bông vàng, hạt châu báu của dân làng tôi. Cả đồng lúa tràn ngập sắc vàng, có chỗ vàng tươi, có chỗ lại vãng sẫm, có chỗ vàng xen lẫn xanh. Khi những cơn gió ùa về như nổi nhớ cả cánh đồng rì rào uốn lượn như từng lớp sóng đầy nhau về phía bờ. Thân lúa lúc này vững chải, người ta không thể lấy tay nhổ được nữa mà phải lấy liềm cắt. những bó lúa được xếp thành những lượm lúa nhỏ tuyệt đẹp. Lúa chín đều vui vẻ một mùa bội thu cho nhân dân. Nó giống như hạt ngọc của quê tôi vậy
Tôi rất yêu cánh đồng quê hương, nó không chỉ là chỗ để nhân dân tăng gia sản xuất mà nó còn là cánh đồng lúa xanh mướt, là cánh đồng tuổi thơ, cánh đồng kỉ niệm của cá nhân tôi cũng như của những người sinh ra trên quê hương cánh đồng lúa. Càng ngày tôi càng nhận thấy vẻ đẹp của nó và tôi biết nó đã chiếm một phần nào đó trong tái tim tôi.
Đinh Bộ Lĩnh sinh vào ngày Rằm tháng Hai, năm Giáp Thân (tức 22 tháng 3 năm 924) ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình)[12][13]. Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Hoan Châu. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ngoại (Gia Thủy, Nho Quan) ở, vẫn nương nhờ người chú ruột là Đinh Thúc Dự ở quê nội gần đó. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và trong đám bạn đó, có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú, những người sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự nghiệp.
Theo sách An Nam chí lược: Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, Giao Châu. Cha là Công Trứ, làm nha-tướng của Dương Đình Nghệ. Cuối thời Ngũ Đại, Dương Đình Nghệ đi trấn Giao Châu, lấy Công Trứ quyền Thứ sử Hoan Châu. Trước đây, Ngô Quyền giết Kiều Công Tiễn, cha con Bộ Lĩnh về với Ngô Quyền, Quyền nhân khiến Công Trứ về nhiệm chức cũ. Khi Công Trứ mất, Bộ Lĩnh kế tập chức cha.[14]
Theo sách Việt sử tiêu án: Vua Đinh, tên Bộ Lĩnh, người làng Đại Hoàng, động Hoa Lư. Thân phụ vua là Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, cai trị Hoan Châu, mẹ là họ Đàm, nằm mộng thấy có một người lớn tay cầm cái ấn vua đến xin làm con, bèn có mang mà sinh ra vua, được ít lâu thì thân phụ dắt vào ở trong động, chơi với trẻ chăn trâu, lũ trẻ tôn làm đàn anh. Mỗi khi chơi đùa, giao tay nhau cho vua ngồi lên, khiêng đi làm xe, lấy bông lao làm cờ, dàn ra hai bên, rước đi làm như nghị vệ nhà vua. Trong nhà nuôi được con lợn, thừa lúc mẹ đi vắng, vua mổ lợn khao bọn trẻ rồi di cư đến Đào Úc Sách. Bà mẹ sợ, mang chuyện ấy nói với chú Đinh Dự, Dự cầm dao đi tìm, đuổi đến bờ sông, vua chạy sa vào bùn lầy, thấy có con rồng vàng, đỡ hai bên vua sang qua sông. Ông chú sợ bỏ về, vua bèn theo bọn ngư hộ làm nghề đánh cá, bắt được ngọc huê lớn để vào đáy giỏ. Đến đêm vào chùa ngủ trọ, nhà sư thấy trong cái giỏ có tia sáng tròn, hỏi cớ sao, và nói rằng: "Anh này ngày sau cao quý không thể nói được". Sau đến nương nhờ Trần Minh Công, làm chỉ huy của quân Trần đánh đâu được đấy, gọi là Vạn Thắng Vương. Quần thần dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế.[15]
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép::"Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự hiểu kiến thức không bằng vua, cùng nhau suy tôn ông làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi, thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho bọn chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau: "Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, Chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn". Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan,[16] cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồngvàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương."
Họ Đinh, tên húy là Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng1 con của Thứ sử châu Hoan Đinh Công Trứ, dẹp yên các sứ quân, tự lập làm đế, ở ngôi 12 năm [968-979], bị nội nhân là Đỗ Thích giết, thọ 56 tuổi [924-979], tán ở sơn lăng Trường Yên.
Vua tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các hùng trưởng, tiếp nối quốc thống của Triệu Vũ [Đế], song không biết dự phòng, không giữ được trọn đời, tiếc thay!
Xưa, cha của vua là Đinh Công Trứ làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, được Đình Nghệ giao giữ chức quyền Thứ sử châu Hoan, sau theo về với Ngô Vương, vẫn được giữ chức cũ, rồi mất. Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự biết kiến thức không bằng vua, [1b] cùng nhau suy tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau: "Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, bọn ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn". Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan2 , cầu gãy, vua rơi xuống bùn, [2a] người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương.
Đinh Tiên Hoàng
Kể chuyện Lịch Sử Việt Nam Thời Đinh
Mười Hai Sứ Quân (Trọn Bộ 2 Tập)
Bấy giờ Mười hai sứ quân đều tự xưng hùng trưởng, cát cứ đất đai. Ngô Xương Xí chiếm Bình Kiều, Ngô Nhật Khánh chiếm Đường Lâm, Kiểu Tam Chế chiếm Phong Châu, Nguyễn Thái Bình chiếm Nguyễn Gia Loan, Đỗ Cảnh Thạc chiếm miền sông Đỗ Động, Nguyễn Lệnh Công3 chiếm Tây Phù Liệt, Tế Giang thì có Lữ Tá Đường, Tiên Du có Nguyễn Thủ Tiệp, Siêu Loại có Lý Lãng Công, Hồi Hồ có Kiểu Lệnh Công, Đằng Châu có Phạm Phòng Át, Bố Hải có Trần Minh Công4 . Vua một phen cất quân là dẹp yên, bèn tự lập làm đế. Chọn được chỗ đất đẹp ở Đàm thôn, vua muốn dựng [2b] đô ở đó, nhưng vì thế đất chật hẹp lại không có lợi về việc đặt hiểm, nên vẫn đóng đô ở Hoa Lư5 (nay là phủ Trường Yên).
Mậu Thìn, năm thứ 1 [968], (Tống Bảo năm thứ 1). Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời Kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế.
Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm.
Lê Văn Hưu nói: Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu [3a] quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh bậc thánh triết để tiếp nối quốc thống của Triệu Vương chăng?
Kỷ Tỵ, năm thứ 2 [969], (Tống Khai Bảo năm thứ 2) . Tháng 5 nhuận, phong con trưởng là Liễn làm Nam Việt Vương.
Canh Ngọ, Thái Bình năm thứ 1 [970] , (Tống Khai Bảo năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, đặt niên hiệu. (Sử cũ nói rằng nước Việt ta có niên hiệu bắt đầu từ đây. Nhưng Lý Nam Đế [trước đó] đã đặt niên hiệu là Thiên Đức [544-548]. Sai sứ sang nhà Tống giao hảo. Bấy giờ nhà Tống sai Đại tướng Phan Mỹ dẹp yên Lĩnh Nam (chỉ Lưu Xưởng6 ), cho nên mới có mệnh ấy.
Lập 5 hoàng hậu (một là Đan Gia, hai là Trinh Minh, ba là Kiểu Quốc, bốn là Cồ Quốc, năm là Ca Ông).
Lê Văn Hưu nói: Trời đất cùng che chở, mặt trời mặt trăng cùng chiếu soi, mới sinh thành muôn vật, nảy nở mọi loài, cũng như hoàng hậu sánh với ngôi vua, cho nên mới có thể [3b] đứng đầu tiêu biểu cho nội cung, tác thành cho thiên hạ. Từ xưa chỉ lập [hoàng hậu] một người để chủ việc nội trị mà thôi, chưa từng nghe nói lập đến 5 người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học, mà bầy tôi đương thời lại không có ai biết giúp sửa cho đúng, để đến nổi chìm đắm trong tình riêng, cùng lập 5 hoàng hậụ Sau đến 2 triều Lê, Lý cũng phần nhiều bắt chước làm theo, ấy là do Tiên Hoàng khởi xướng sự rối loạn thứ bậc vậy.
Tân Mùi, [Thái Bình] năm thứ 2 [971] , (Tống Khai Bảo năm thứ 4). Bắt đầu quy định cấp bật văn võ, tăng đạo. Lấy Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư253, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân7 , Tăng thống8 , Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục9 , Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi10 .
[4a] Nhâm Thân, [Thái Bình] năm thứ 3 [972] , (Tống Khai Bảo năm thứ 5). Sai Nam Liệt Vương Liễn sang sứ thăm nhà Tống.
Quý Dậu, [Thái Bình] năm thứ 4 [973] , (Tống Khai Bảo năm thứ 6). Nam Việt Vương Liễn đi sứ về. Nhà Tống ai sứ sang phong cho vua làm Giao Chỉ Quận Vương, Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ. (Lời chế đại lược nói: "[Họ Đinh] đời làm vọng tộc, gìn giữ được phương xa, chí hâm mộ phong hoá Trung Hoa, thường nghĩ đến việc nội phụ. Nay chín châu hợp một, miền Ngũ Lĩnh sạch quang11 , bèn trèo non vượt biển đến dâng đồ cống. Khen người làm con biết giữ lễ phiên thần, vậy ban cho cha ngươi theo lối cắt đất phong tước, xếp phẩm trật cho vào hạng được cầm quân, được hưởng mức "tỉnh phú"12 . Như thế là để khen thưởng đức tốt của người già, há chỉ hạn chế trong điển chương thường lệ đâu?".
Giáp Tuất, [Thái Bình] năm thứ 5 [974] , (Tống Khai Bảo năm thứ 7). Muà xuân, tháng hai, quy định về quân mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người, đầu đội mũ bình đính13 vuông bốn góc (loại mũ này làm bằng da, chóp phẳng, bố bên khâu liền, trên hẹp dưới rộng, quy chế này đến đời bản triều khởi nghĩa vẫn còn dùng, đời sau vẫn theo thế).
Hoàn thứ tử là Toàn sinh.
[4b] Ất Hợi, [Thái Bình] năm thứ 6 [975] , (Tống Khai Bảo năm thứ 8). Mùa xuân, quy định áo mũ cho các quan văn võ. Sai Trịnh Tú 14 đem vàng lụa, sừng tê, ngà voi sang nhà Tống.
Mùa thu, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự dẫn đầu bọn Vương Ngạn Phù đem chế sách sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ Quận Vương. Từ đó về sau, sai sứ sang nhà Tống đều lấy Liễn làm chủ.
Bính Tý, [Thái Bình] năm thứ 7 [976] , (Tống Khai Bảo năm thứ 9. Từ tháng 10 trở về sau thuộc về Tống Thái Tông [Triệu] Khuông Nghĩa, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ nhất). Muà xuân, thuyền buôn của các nước ngoài đến dâng sản vật của nước họ. Sai Trần Nguyên Thái sang đáp lễ nhà Tống.
Mùa đông, tháng 10, Tống Thái Tổ băng.
Đinh Sửu, [Thái Bình] năm thứ 8 [977] , (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 2). Sai sứ sang nhà Tống mừng Thái Tông lên ngôi.
Mậu Dần, [Thái Bình] năm thứ 9 [978] , (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, động đất. Lập con nhỏ là Hạng Lang [5a] làm hoàng thái tử, phong con thứ là Toàn làm Vệ Vương. Tháng hai, mưa đá.
Mùa hạ, tháng sáu, nắng hạn.
Kỷ Mão, [Thái Bình] năm thứ 10 [979] , (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 4). Mùa xuân, Nam Việt Vương Liệt giết hoàng thái tử Hạng Lang. Liễn là con trưởng của vua, thuở hàn vi cùng chịu gian khổ, đến khi định yên thiên hạ, ý vua muốn truyền ngôi cho, mới phong làm Nam Việt Vương, lại từng xin mệnh và nhận tước phong của nhà Tống. Sau vua sinh con nhỏ là Hạng Lang, rất mực yêu quý, lập làm thái tử. Liễn vì vậy bất bình, sai người ngầm giết đi.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nối ngôi dùng con đích là đạo thường ôn đời, bỏ đạo ấy, chưa từng không gây loạn. Cũng có khi nhân thời loạn mà lập Thái tử, thì trước hết chọn người có công, [5b] hoặc con đích trưởng quá ác phải bỏ thì sau mới lập con thứ. Thế là xử việc lúc biến mà vẫn được đúng đắn, người xưa vẫn từng làm. Nam Việt Vương Liễn là con trưởng, lại có công, chưa thấy lầm lỗi gì. Tiên hoàng yêu con thứ mà quên con trưởng, cho như thế mới đủ tỏ tình yêu quý, không biết như thế là làm hại con. Liễn lại nhẫn tâm, đến nỗi giết em, thiên đạo nhân luân mất hết, chuốc họa chết thiệt thân, còn liên lụy cả cha nữa, há chẳng rùng rợn lắm thay! Không thế thì tội đại ác của Đỗ Thích do đâu nảy ra để hợp với lời sấm được?
Mùa đông, tháng mười, Chi hậu nội nhân Đỗ Thích262giết vua ở sân cung. Bọn Đinh quốc công Nguyễn Bặc bắt được đem giết. Trước đó Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng, Thích cho là điềm tốt, bèn nảy ra ý định giết vua. Đến đây, nhân lúc vua ăn yến ban đêm, say rượu nằm trong sân, [6a] Thích bèn giết chết, lại giết luôn cả Nam Việt Vương Liễn. Khi ấy lệnh lùng bắt hung thủ rất gấp, Thích phải lén núp ở máng nước trong cung qua 3 ngày, khác lắm, gặp lúc trời mưa thò tay hứng nước uống, cung nữ trông thấy liền đi báo. Đinh quốc công Nguyễn Bặc sai người bắt đem chém, đập nát xương, băm thịt ra từng mảnh, chia cho người trong nước ăn, chẳng ai không tranh lấy mà nhai nuốt. Ngày trước, khi vua còn hàn vi, thường đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được viên ngọc khuê to nhưng va vào mũi thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào ngũ nhờ ở chùa Giao Thủy, giấu ngọc ở dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ bán cá. Bấy giờ vua đang ngũ say, trong giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư chùa ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, vua nói thực và lấy ngọc khuê cho xem. Sư than rằng: "Anh ngày sau phú quý không thể nói hết, chỉ tiếc phúc không được dài".
Lại vào năm Thái Bình thứ 5 [974], có lời sấm ngữ: "Đỗ Thích thí Đinh Đinh, Lê gia xuất thánh minh, cạnh đầu đa hoành nhi263, đạo lộ tuyệt nhân hành. Thập nhị xưng đại vương, thập ác vô nhất thiện [6b], thập bát tử đăng tiên, kế đô15 nhị thập thiên" (Đỗ Thích giết hai Đinh, nhà Lê nỗi thánh minh, tranh nhau nhiều hoành nhi, đường sá người vắng tanh. Mười hai xưng đại vương, toàn ác không một thiện, mười tám con lên tiên, sao kế đô hai chục ngày)265. Người ta cho là số trời đã định như thế. Khi ấy Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, cùng thập đạo tướng quân Lê Hoàn rước Vệ Vương Toàn lên ngôi Hoàng đế, tôn gọi vua là Tiên Hoàng Đế, tôn mẹ đẻ [vua mới] là Dương Thị làm Hoàng thái hậu. Rước linh cữu Tiên Hoàng Đế về táng ở sơn lăng Trường Yên16 .
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đế vương dấy nghiệp không ai không nhờ ở trời. Nhưng thánh nhân không cậy có mệnh trời mà làm hết phận sự của mình. Việc đã thành, lại càng lo nghĩ đề phòng. Sửa sang lể nhạc hình án chính sự là để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều lần cửa, đánh hiệu canh là đề phòng kẻ hung bạo. Bởi vì [7a] lòng dục không cùng, việc đời không bến, không thể không đề phòng trước. Đó là nghĩ xa cho đời sau, mưu tính cho con cháu cũng chính là ở đó. Cho nên Tiên Hoàng không được trọn đời là do chưa làm hết việc ngừơi, không phải mệnh trời không giúp. Cũng vì vua không giữ được trọn đời khiến cho cái thuyết sấm đồ16 đắc thắng, đời sau không thể không bị mê hoặc vì điều đó.
Hok_Tốt
#Thiên_Hy
Năm nay, em đã lên lớp 5; vậy là em sắp phải xa ngôi trường tiểu học. Nhà trường đã cho chúng em đi tham quan ở Hải Đăng và Hoàng Thành Thăng Long vào thứ sáu tuần trước (có thể thay thời gian). Đây có thể coi là một chuyến đi bổ ích và thú vị nhất em từng có.
Chỉ cách khu Trung Tâm Hà Nội 15 km thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội. Khu du lịch Hải Đăng là 1 vùng đất '' non thanh thủy tú'' với khí hậu trong lành, phong cảnh hùng vĩ ẩn chứa bao điều kì diệu . Ở đây em được chơi nhiều trò chơi như : nhảy bao bố lấy quả , trồng cây, trồng hoa,.... có thể nói ở đây người ta lấy chủ đề hoa quả làm chủ đạo. Nói sang lịch sử thì phải nói đến hoàng thành Hà Nội. Đậy chính là nơi đã tái hiện lại những sự kiện của các vua chúa và trải qua 13 thế kỉ lịch sử chồng chất lên nhau. Nó đã có những dấu vết từ thời kỳ Bắc thuộc của nhà Tùy và nhà Đường ( thế kỉ VII đến thế kỉ IX) xuyên xuốt các triều đại nhà Lý, Trần ,Lê ,Mạc, Nguyễn. Ở đây chúng em được (anh)chị HDV giúp đỡ nhiệt tình.
Đây là chuyến đi bổ ích và vui vẻ nhất!