K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

14 tháng 3 2018

câu này khó quá

9 tháng 4 2019

Theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, đc Lê Lợi chấp thuận, ngày 12-10-1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công đồn Đa Căng( Thọ Xuân - Thanh Hóa), sau đó hạ thành Trà Lân 

Mk tóm tắt đc đến đây thôi ahihihi

25 tháng 12 2018

Giữa năm 1418, quân Minh huy động một lực lượng bao vây chặt căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi. Trước tình hình nguy cấp đó, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc. Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.
Cuối năm 1421, quân Minh huy động hơn 10 vạn lính mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.
Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng 5 - 1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn.

k cho m nha!

21 tháng 3 2019

Ví dụ di sản văn hóa Vịnh Hạ Long:

Vịnh Hạ Long là một di sản độc đáo vì nó chứa đựng những dấu tích quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển lịch sử trái đất, là cái nôi cư trú của người Việt cổ, đồng thời là tác phẩm nghệ thuật tạo hình vĩ đại của thiên nhiên với sự hiện diện của hàng nghìn đảo đá muôn hình vạn trạng; nhiều hang động kỳ thú quần tụ thành một thế giới vừa sinh động vừa huyền bí.

Bên cạnh đó, vịnh Hạ Long còn là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… cùng với hàng nghìn loài động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng.

Năm 1994, UNESCO đã chính thức công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên thế giới bởi giá trị ngoại hạng về mặt cảnh quan. Năm 2000, vịnh Hạ Long tiếp tục được UNESCO công nhận lần thứ hai là Di sản địa chất thế giới vì những giá trị độc đáo về địa chất, địa mạo.

21 tháng 3 2019

 *Vịnh Hạ Long:

            

Vịnh Hạ Long (vịnh nơi rồng đáp xuống) là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo thuộc thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả và một phần huyện đảo Vân Đồn của tỉnh Quảng Ninh.

     Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo có khí hậu phân hóa 2 mùa rõ rệt: mùa hạ nóng ẩm với nhiệt độ khoảng 27-29 °C và mùa đông khô lạnh với nhiệt độ 16-18 °C, nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng 15-25 °C

    Vùng di sản trên vịnh Hạ Long được thế giới công nhận (vùng lõi) có diện tích 434 km², như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía Tây), hồ Ba Hầm (phía Nam) và đảo Cống Tây (phía Đông), bao gồm 775 đảo với nhiều hang động, bãi tắm.

   Các đảo ở vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía Đông Nam Vịnh Bái Tử Long và vùng phía Tây Nam vịnh Hạ Long.Các đảo trên vịnh Hạ Long có những hình thù riêng, không giống bất kỳ hòn đảo nào ven biển Việt Nam và không đảo nào giống đảo nào. Bên cạnh các đảo được đặt tên căn cứ vào hình dáng, là các đảo đặt tên theo sự tích dân gian (núi Bài Thơ, hang Trinh Nữ, đảo Tuần Châu), hoặc căn cứ vào các đặc sản có trên đảo hay vùng biển quanh đảo (hòn Ngọc Vừng, hòn Kiến Vàng, đảo Khỉ v.v.).

     Vịnh Hạ Long là nơi tập trung đa dạng sinh học với 2 hệ sinh thái điển hình là "hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới" và "hệ sinh thái biển và ven bờ". Trong mỗi hệ lớn nói trên lại có nhiều dạng sinh thái.

    Ủy ban Di sản Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng toàn cầu về mặt thẩm mĩ (tiêu chí VII), theo tiêu chuẩn của Công ước Quốc tế về bảo vệ Di sản tự nhiên và văn hóa của thế giới.

    Di sản thế giới lần 1: giá trị thẩm mỹ

   Di sản thế giới lần 2: giá trị địa chất địa mạo

   Đề cử di sản thế giới lần thứ 3

Cuối tháng 9 năm 1257, chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất báo tin có sứ Nguyên sang. Vua Trần không nghe lời dụ hàng, xuống chiếu ra lệnh đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế của Trần Quốc Tuấn và truyền cả nước sắm sửa vũ khí.

Sau khi nhận được tin cấp báo, quân Mông Cổ đã vượt biên giới, vua Trần lập tức thân đem sáu quân đi chống giặc (Đế thân xuất lục sứ ngự khẩu)

Quân Mông Cổ tiến vào Thăng Long[sửa | sửa mã nguồn]

Quân Mông Cổ tiến vào Đại Việt theo một đội hình cắt khúc và đều là bộ binh. Đội quân đi đầu được chia làm 2 cánh: một cánh tiến dọc sông Thao và một cánh tiến dọc sông Chảy. Cánh tiến theo hữu ngạn sông Thao do Triệu Ngột Lương chỉ huy. Mỗi cánh gồm 1000 người. Theo sau là quân của Hồ Lã Trừng. Đạo quân có khối lượng lớn nhất và tiến cuối cùng doQuỳ Hợp Thai chỉ huy.

Quân Mông Cổ giáp trận quân Đại Việt do đích thân Trần Thái Tông (Trần Cảnh) chỉ huy tại Bình Lệ Nguyên (nay là huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc). Đó là ngày 17 tháng 1năm 1258[6].

Quân đội nhà Trần bày trận bên bờ sông Hồng đợi giặc. Quân Mông Cổ là những người sang sông. Quỳ Hợp Thai dặn Quỳ Thủ Soạn và viên tiên phong là Triệu Ngột Lương[7]:

..."...khi đã sang sông, đừng đánh chúng vội, chúng tất chống lại...phò mã...cắt hậu quân của chúng,... Cacakdu cướp lấy thuyền. Man quân nếu tan... chạy ra bờ sông không có thuyền... tất bị ta bắt."

Đó là một phương án tiến hành trận đánh nguy hiểm, với ý định làm đối phương vỡ trận, bị dồn ra bờ sông và bị kẹp chặt lại từ hai phía.

Nhưng Triệu Ngột Lương vừa qua sông đã ập lại đánh ngay. Trần Thái Tông sai tượng binh tiến ra giao chiến. Con Quỳ Hợp Thai là A Truật (18 tuổi) cho kỵ binh bắn tên vào mắt voi, khiến voi hoảng sợ, quay lại dày xéo đội hình quân Trần. Quân Trần thất lợi nhưng chủ động rút lui. Trần Thái Tông và tướng Lê Tân lui tới sách Cụ Bản, gặp tướng Phạm Cự Chích đem viện binh tới cứu. Quân Mông Cổ giết được Phạm Cự Chích, nhưng vua Trần đã chạy thoát ra bến Lãnh Mỹ, rồi xuôi thuyền về Phù Lỗ. Không bắt được bộ chỉ huy nhà Trần, Quỳ Hợp Thai nổi giận. Triệu Ngột Lương uống thuốc độc tự sát[8].

Ngay ngày hôm sau, ngày 18 tháng 1 năm 1258, hai bên chạm trán một lần nữa tại Phù Lỗ. Hai bên đối mặt nhau qua một con sông (sông Cà Lồ) mà bày trận, quân Mông Cổ vẫn là người qua sông phá trận. Quân Trần vẫn tiếp tục thất lợi, nhưng một lần nữa, họ lại chủ động rút lui. Tuy vậy, cả hai trận này đều là những trận đánh lớn và khốc liệt. Ở trận thứ nhất, Trần Thái Tông chỉ chịu rút sau khi nghe lời khuyên của Lê Tần. Vừa khi vua xuống thuyền thì quân Mông Cổ ở trên bờ bắn tên xuống tới tấp, Lê Tần phải lấy ván thuyền che cho vua và bảo vệ vua chạy thoát. Sau đó, quân Trần lại chủ động rút khỏi Thăng Long.

Khi vua Thái Tông triệt binh về sông Thiên Mạc, Lê Tần đã thảo luận với ông về những chuyện cơ mật, không mấy người biết tới. Khi ấy, Thái Tông cũng ngự thuyền nhỏ tới thuyền của em là Thái úy Trần Nhật Hiệu để hỏi ý Nhật Hiệu về kiến về kế sách giữ nước. Nhật Hiệu ngồi dựa vào mạn thuyền, không thể nào đứng lên được và đưa ngón tay xuống chấm nước rồi ghi hai chữ "nhập Tống" trên mạn thuyền (tức là nên chạy sang lánh ở đất Nam Tống[9]). Thái Tông bèn hỏi về tình hình của quân Tinh Cương dưới quyền Nhật Hiệu, thì Nhật Hiệu đáp lại: "Không gọi được chúng đến". Thế rồi, nhà vua lại ngự thuyền đến chỗ Thái sư Trần Thủ Độ. Khi nghe câu hỏi của nhà vua, Thủ Độ tâu:[2]

Đầu thần chưa rơi xuống đất, Bệ hạ đừng lo gì khác.
— Trần Thủ Độ

Chiếm được kinh đô chỉ sau hai trận đánh, nhưng kho tàng trống rỗng là vấn đề lớn đối với đội quân xâm lược. Những cuộc cướp bóc để kiếm lương ở vùng ngoại vi và phụ cận không có nhiều kết quả, chẳng những thế, những đám quân đi ăn cướp tài sản này còn hay bị chặn đánh.

Quân Trần phản công

Nửa đêm ngày 28 tháng 1 năm 1258, từ nơi trú quân là Hoàng Giang[10], Trần Thái Tông cùng Thái tử Trần Thánh Tông ngự lâu thuyền[2] ngược sông, bất ngờ đánh thẳng vào quân Mông Cổ[11]. Quân Mông Cổ cho rằng lực lượng quân Trần đã kiệt quệ sau trận thua đầu nên rất chủ quan, do đó khi bị tập kích đã không kịp trở tay, bị thua to. Sau khi bị phá tan tạiĐông Bộ Đầu[12], quân Mông Cổ không giữ nổi Thăng Long nữa. Họ đồng loạt tháo chạy thẳng về Vân Nam.

Như khi mới tiến quân vào, quân Mông Cổ rút chạy theo dọc sông Thao, nhưng theo con đường bộ ở phía tả ngạn. Quân Mông rút lui quá nhanh, ngoài cả dự tính của nhà Trần khiến vua Trần chưa kịp bố trí lực lượng đón đánh. Tuy nhiên khi đến Quy Hóa (vùng Lào Cai, Yên Bái), quân Mông bị chủ trại là Hà Bổng – một thổ quan người Tày - tập kích kịch liệt. Trong số quân của Hà Bổng có những người Thái chạy từ nước Đại Lý vừa bị Mông Cổ diệt sang theo Đại Việt, muốn trả thù người Mông Cổ nên đã đánh rất hăng khiến quân Mông Cổ khốn đốn; chỉ vì số quân của Hà Bổng ít người nên thiệt hại của quân Mông Cổ không lớn[13]. Trên đường rút về, do sợ bị quân Trần truy đuổi đằng sau, quân Mông Cổ cố rút nhanh và không cướp phá dân chúng, do đó người Việt mỉa mai gọi là "giặc Bụt".[14]

Tuy nhiên, Ngột Lương Hợp Thai truyện của Nguyên sử và Kinh thế đại điển tự lục cũng phải thừa nhận rằng sau khi bỏ Thăng Long, người Mông Cổ đã lui về thành Áp Xích, trên đất của 37 bộ Quỷ Phương (Đại Lý), và điều này có nghĩa là Mông Cổ đã không đạt được mục tiêu là mượn đường Đại Việt để đánh vào lưng Nam Tống. Ngột Lương Hợp Thai truyện cũng cho biết, Uriyangqatai tháo chạy về Áp Xích, sau khi có lệnh của Mông Kha thì mới đi theo đường trại Hoành Sơn để tiến vào châu Ngạc của Tống và hội quân với Hốt Tất Liệt

15 tháng 11 2018

Cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân Mông cổ (1258)
- Tháng 1 — 1258, ba vạn quân Mông cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, tiến vào xâm lược Đại Việt. Quản giặc theo đường sông Thao, tiến xuống Bạch Hạc (Phú Thọ), rồi tiến đến vùng Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc) thì bị chặn lại ở phòng tuyến do vua Trần Thái Tông chỉ huy.
- Để bảo toàn lực lượng, nhà Trần chủ trương cho quân rút khỏi kinh thành Thăng Long, thực hiện "vườn không nhà trống". Giặc vào kinh thành vắng lặng không một bóng người và không một chút lương thực. Chúng đã điên cuồng tàn phá kinh thành. Thiếu lương thực, lại bị quân dân ta chống trả, chưa đầy một tháng, lực lượng chúng bị tiêu hao dần.
- Nhà Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng, ở phố' Hàng Than, Hà Nội ngày nay). Ngày 29 - 1 - 1258, quân Mông cổ thua trận phải rút chạy về nước. Cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông cổ kết thúc thắng lợi.

Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/em-hay-trinh-bay-tom-tat-dien-bien-cuoc-khang-chien-chong-quan-mong-co-c82a13747.html#ixzz5WvrUqG47

Gợi ý :

- Sách đem lại cho con người những kiến thức quý báu mà không bị giới hạn bởi không gian, thời gian.

- Sách là nơi chứa đựng những hiểu biết, kinh nghiệm và sự khám phá, sáng tạo của con người.

- Sách là kết quả tích lũy, nghiên cứu, tâm huyết ngàn đời của cha ông ta, những người đi trước, trải qua sự sàng lọc của thời gian để tồn tại có giá trị tới ngày nay.

- Sách là bách khoa toàn thư với những kiến thức phong phú đủ mọi lĩnh vực

 

- Thông qua sách, ta biết được lịch sử của cha ông, dân tộc ta xưa.

- Sách như ngọn hải đăng trong đêm tối dẫn dắt ta đi theo con đường đúng đắn và hình dung về một tương lai phía trước.

- Sách giúp ta dễ dàng đặt chân đến những mảnh đất chưa từng đặt chân tới, gặp những con người  ta chưa bao giờ gặp

- Không phải ai cũng có thể viết sách mà chỉ có những người học rộng, tài cao mới viết nên những cuốn sách bổ ích cho cuộc sống của con người.

- Sách truyền tải những nội dung nhân văn, giáo dục con người về tình cảm yêu thương lẫn nhau, về chân thiện mỹ, lối sống và đạo đức con người.

- Sách giúp ta phát huy sự sáng tạo, áp dụng những kiến thức trong sách vào ứng dụng thực tế của bản thân để xử lý trong các tình huống khác nhau.

- Dẫn chứng: Trong quá trình học tập, chúng ta dễ dàng tìm được những ví dụ cho thấy sách là trí tuệ bất diệt con người: Bộ SGK và sách tham khảo trong Chương trình THPT, THCS với một hệ thống các môn học như: Toán học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Vật lí, Hoá học... Tất cả đều chứa đựng lượng tri thức vô giá của con người.

25 tháng 1 2021

"Sách" là kho tàng lưu trữ nguồn tri thức của nhân loại trong suốt tiến trình lịch sử loài người. Sách mang những nguồn giá trị tinh thần to lớn mà không điều gì có thể thay thế được. Sách lưu trữ thông tin dưới dạng ngôn ngữ viết hoặc hình ảnh, hệ thống các kí hiệu,... Sách được xuất bản dưới dạng cuốn - sách giấy và sách điện tử. "Ngọn đèn" là ánh sáng tuyệt diệu soi rọi màn đêm tối, nó tượng trưng cho vai trò của sách đối với tâm hồn và trí tuệ mỗi con người. Sách như ngọn đèn vậy, khơi gợi thẩm mỹ, cảm xúc, hướng con người trở nên "gần người hơn", thêm hiểu biết và tri thức sâu rộng hơn.

 

Thật vậy, "Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người" bởi sách chứa một kho tàng tri thức lớn lao, vô tận và bất diệt. Những gì được sách giữ và viết lại đều rất phong phú, đó là những thành tựu nghiên cứu của con người qua bao thế hệ. Sách chính là thứ ánh sáng diệu kỳ soi rọi trí tuệ và tâm hồn con người, mang lại nguồn năng lượng tích cực, vốn kiến thức bất tận cho mỗi chúng ta. Sách toán học đưa lại những logic, tính toán, những suy luận, chứng minh hữu ích. Sách lịch sử mang đến khí thế hào hùng của bao cuộc chiến, tài thao lược của những vị anh hùng tài ba, những sự phát triển của dân tộc, thế giới qua hàng ngàn năm lịch sử. Sách văn học mang đến những kiến thức về thể loại, về hình thức và về tâm hồn thơ phong phú của các thi nhân và những cảm xúc khi được trải nghiệm với đời sống của từng nhân vật. Sách về kỹ năng sống, kỹ năng kinh doanh, sách ẩm thực, sách về đạo lí,... đều góp phần vào vốn am hiểu của chúng ta, giúp tri thức ngày một mở mang hơn, vốn sống ngày một nâng cao hơn. Sách như một cuốn bách khoa ghi lại tất thảy những tri thức bao đời có được, nó lưu giữ vốn trí thức trường tồn theo năm tháng. Sách dẫn dắt chúng ta đến những vùng đất mênh mang đẹp đẽ mà chưa từng được đặt chân đến, là cẩm nang du lịch về văn hoá ẩm thực và con người trên mọi miền đất nước và trên thế giới. Sách giúp ta được gặp gỡ những nhà văn hoá của thời đại, những nhà kinh doanh, những nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học trên khắp thế giới để học hỏi. Sách cho ta những kinh nghiệm quý báu, những cách làm mới, cách chế biến thực phẩm món ăn, cách sáng chế những vật liệu phục vụ cho đời sống. Mỗi một mảng của đời sống đều được sách ghi lại, làm cẩm nang phục vụ cho nhu cầu của mọi đối tượng trong cuộc sống.

 

Sách giúp trí tuệ của ta được mở mang hơn, phong phú và giàu đẹp hơn. Đẹp bởi chính tâm hồn được soi rọi. Qua mỗi trang sách, ta biết yêu thương, biết đồng cảm với những số phận chịu nhiều ngang trái, biết ngậm ngùi khi gặp những nhân vật đồng cảnh, biết cùng vui với những thành quả có được của nhân vật. Sách giúp ta biết tự hào về hình ảnh con người Việt Nam giàu lòng yêu nước với tinh thần đoàn kết, kiên cường, tự hào về một đất nước hào hùng, anh dũng, đi lên. Sách giúp ta biết trân trọng hòa bình của ngày hôm nay, biết phấn đấu nỗ lực và ý thức trách nhiệm của bản thân mình hơn. Sách giúp ta biết xác định lý tưởng sống, biết nhìn nhận đúng - sai, biết đứng dậy khi thất bại, biết vươn lên mỗi ngày. Sách giúp trí tuệ ta được minh mẫn hơn, sáng trong hơn.

 

Sách giúp ta thư thái khi mệt mỏi, đọc sách là biện pháp hữu hiệu giúp vơi đi nỗi buồn, những áp lực của cuộc sống. Là người bạn tâm tình chân thành và trung thực nhất. Sách mang tâm hồn chúng ta được bay cao, bay xa hơn, đến những nẻo đường, những chân trời mới với những hương hoa rực rỡ, diệu kỳ của tri thức. Sách giúp chúng ta trưởng thành và lớn lên mỗi ngày. Xã hội ngày một phát triển, internet nhiều, sách mạng tràn lan nhưng giá trị của sách vẫn luôn còn mãi. Bạn hãy thử vào một ngày đẹp trời, ra ban công nhỏ của mình ngắm nghía, thưởng thức ly cà phê bên trang sách mới, bạn sẽ cảm thấy rất tuyệt diệu và thấy lòng mình thư thái biết bao.

30 tháng 1 2020

Giải phóng Nghệ An (năm 1424)

  • Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, được Lê Lợi chấp thuận
  • Ngày 12/ 10/ 1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công Đa Căng Thọ Xuân – Thanh Hóa), sau đó hạ thành Trà Lân
  • Trên đà thắng đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.

Giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (năm 1425)

  • Tháng 8 / 1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân huy quân tiến vào Tân Bình, Thuận Hóa

=> Vùng giải phóng của nghĩa quân kéo dài từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân. Quân Minh chỉ còn mấy thành lũy bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm

Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động (cuối năm 1426)

  • Tháng 9/ 1426, nghĩa quân chia làm 3 đạo tiến quân ra Bắc :
    • Đạo thứ nhất, tiến ra giải phóng miền Tây Bắc, ngăn chặn viện binh từ Vân Nam sang
    • Đạo thứ hai, giải phóng vùng hạ lưu sông Nhị (sông Hồng) và chặn đường rút lui của giặc từ Nghệ An về Đông Quan
    • Đạo thứ ba, tiến thẳng về Đông Quan
  • Nghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ về mọi mặt
  • Nghĩa quân chiến thắng nhiều trận lớn, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ

=> Cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn phản công

Giải phóng Nghệ An (năm 1424)

- Ngày 12-10-1424, nghĩa quân bất ngờ tập kích đồn Đa Căng (Thọ Xuân, Thanh Hoá), và thắng lợi giòn giã, sau đó hạ thành Trà Lân ở thượng lưu sông Lam, buộc địch phải đầu hàng sau hai tháng vây hãm.

- Trên đà thắng đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu (tả ngạn sông Lam, thuộc Anh Sơn, Nghệ An), phần lớn Nghệ An được giải phóng, quân giặc phải rút vào thành cố thủ.

- Lê Lợi siết chặt vòng vây thành Nghệ An, tiến đánh Diễn Châu rồi thừa thắng tiến quân ra Thanh Hóa. Cả vùng Diễn Châu, Thanh Hóa được giải phóng chỉ trong vòng không đầy một tháng.

* Giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá (năm 1425)

- Tháng 8 - 1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân chỉ huy nghĩa quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá, nghĩa quân nhanh chóng đập tan sức kháng cự của giặc.

* Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vị hoạt động (cuối năm 1426)

- Tháng 9-1426, Lê Lợi và bộ chỉ huy quyết định mở cuộc tiến quân ra Bắc.

- Nghĩa quân chia làm 3 đạo. Nhiệm vụ của cả ba đạo quân là tiến sâu vào vùng chiếm đóng của địch, giải phóng đất đai, thành lập chính quyền mới, chặn tiếp viện của địch.

- Được sự ủng hộ tích cực của nhân dân, nghĩa quân chiến thắng nhiều trận lớn, quân Minh lâm vào thế phòng ngự, rút vào thành Đông Quan cố thủ. Cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn phản công.