Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đáp án C
Từ năm 1972, trong khi đang tiến hành chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ở miền Nam, Mĩ đã mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai
Đáp án D
Con đường vận tải chiến lược Bắc - Nam của quân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là đường Hồ Chí Minh (trên bộ và trên biển) bắt đầu được khai thông từ năm 1959 dài hàng nghìn cây số, đã nối liền hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam. Đây chính là tuyến giao thông huyết mạch trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam
- Tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam (đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển) được khai thông từ tháng 5-1959.
- Trong 4 năm (1965 - 1968), miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội và hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược... phục vụ cho miền Nam đánh Mĩ.
- Hậu phương miền Bắc đã chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam:
+ Miền Bắc phấn đấu “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
+ Đưa hơn 300.000 cán bộ, bộ đội vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh tế, văn hóa tại các vùng giải phóng.
+ Hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực,…
+ Tính chung, trong vòng 4 năm (1965 - 1968), sức người sức của miền Bắc chuyển vào miền Nam đã tăng gấp 10 lần so với thời kì trước.
- Thông qua hai tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam:
+ Trên bộ (dọc theo dãy Trường Sơn) mang tên đường Hồ Chí Minh.
+ Trên biển (dọc theo bờ biển).
- Hậu phương miền Bắc đã chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam:
+ Miền Bắc phấn đấu “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
+ Đưa hơn 300.000 cán bộ, bộ đội vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh tế, văn hóa tại các vùng giải phóng.
+ Hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực,…
+ Tính chung, trong vòng 4 năm (1965 - 1968), sức người sức của miền Bắc chuyển vào miền Nam đã tăng gấp 10 lần so với thời kì trước.
- Thông qua hai tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam:
+ Trên bộ (dọc theo dãy Trường Sơn) mang tên đường Hồ Chí Minh.
+ Trên biển (dọc theo bờ biển).
Đáp án A
Ngày 7-2-1965, Mĩ chính thức tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất trong khi đang thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam (1961-1965)
refer (hơi dài)
I. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA MĨ Ở MIỀN NAM (1965-1968) 1. Chiến lược : "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ ở Miền Nam Nhằm thay cho chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" đã bị phá sản ở miền Nam, đế quốc Mĩ tiến hành "Chiến tranh cục bộ". * Thủ đoạn của Mỹ: Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" là hình thức chiến tranh xâm lược của Mĩ ở miền Nam được tiến hành bằng: - Lực lượng quân Mỹ, quân đồng minh,quân Sài gòn. Quân Mỹ giữ vai trò quan trọng. - Quân Mỹ hành quân “tìm diệt” đánh vào căn cứ quân giải phóng . - Mở 2 cuộc phản công vào mùa khô 1965-1966; 1966-1967 bằng các cuộc hành quân “tìm diệt “ và “bình định”. - Mở ngay cuộc hành quân vào căn cứ của quân giải phóng Vạn Tường (Quảng Ngãi).
* Quân dân miền Nam chiến thắng ở Mùa khô thứ nhất 1965-1966: + Mỹ mở 5 cuộc hành quân “tìm diệt” vào Khu V và miền Đông Nam Bộ để đánh bại quân giải phóng . + Quân dân ta đánh địch trên mọi hướng, tiến công chúng trên khắp mọi nơi. * Quân dân miền Nam chiến thắng ở Mùa khô thứ hai 1966-1967 : + Mỹ , quân đội Sài gòn và đồng minh: mở 3 cuộc hành quân lớn “tìm diệt” và “bình định “nhắm vào miền Đông Nam Bộ, lớn nhất là cuộc hành quân Gian Xơn Xi ti, nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của ta + Quân dân ta phản công đánh bại ba cuộc hành quân lớn “tìm diệt “ và “bình định” của Mỹ, lớn nhất là cuộc hành quân Gian Xơn Xi ti Kết quả : Sau hai mùa khô, ta loại 24 vạn tên địch, bắn rơi và phá hủy hơn 2.700 máy bay, phá hủy hơn 2.200 xe tăng và xe bọc thép, hơn 3.400 ô tô.
Tại nông thôn và thành thị : + Diệt bọn ác ôn, phá “ấp chiến lược”, đòi Mỹ rút về nước , đòi tự do dân chủ . + Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
trên đây là phần ctr cục bộ
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) * Hoàn cảnh lịch sử : 1968 so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta, ta lợi dụng mâu thuẫn trong năm bầu cử Tổng Thống Mỹ. * Mục tiêu : -Tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, quân đồng minh, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền . -Buộc Mỹ phải đàm phán và rút quân về nước. * Diễn biến : - Đêm 30 rạng 31-1-1968 ta tấn công vào các đô thị ở miền Nam . -Tại Sài gòn quân ta tấn công vào tòa Đại Sứ Mỹ, Dinh Độc lập, bộ Tổng tham mưu, sân bay Sài gòn của địch
. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” của Mỹ: Việt Nam hóa – Đông Dương hóa chiến tranh
Ngày 6-6-1969 Chính phủ Cách Mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập,được 23 nước công nhận . -Từ 1969 ,thực hiện di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh cả nước đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ cứu nước . - Ngày 24 và 25-4-1970 , Hội nghị cấp cao của nhân dân ba nước đoàn kết chống Mỹ họp . - Ta và Cam-pu-chia đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Cam pu chia của Mỹ và quân đội Sài gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn . - 3-1971 Việt Nam và Lào , đập tan cuộc hành quân”Lam Sơn -719” chiếm giữ đường 9 –Nam Lào của Mỹ và quân đội Sai gòn . - Phong trào của nhân dân nổ ra liên tục , rầm rộ ở Sài gòn , Huế ,Đà Nẵng . - Tại các vùng nông thôn , đồng bằng quần chúng phá “ấp chiến lược”, chống “Bình định” của địch .
. Cuộc tiến công chiến lược 1972: a. Hòan cảnh :Phát huy các thắng lợi trên các mặt trận quân sự , chính trị ngoại giao , trong 2 năm 1970-1971 b. Diễn biến : + Mở dầu ta đánh Quảng Trị (30-3-1972). + Phát triển khắp miền Nam năm 1972 . Chọc thủng 3 phòng tuyến mạnh nhất Quảng Trị , Tây Nguyên, Đông Nam Bộ . c. Kết quả: + Ta loại khỏi vòng chiến 20 vạn quân ngụy . + Giải phóng vùng đất đai rộng lớn ,1 triệu dân . d. Ý nghĩa : + Giáng đòn mạnh vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". + Buộc Mỹ phải tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược. + Thừa nhận "Việt Nam hóa chiến tranh" thất bại .
  Hoàn cảnh và Diễn biến chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam /Lịch sử /Hoàn cảnh và Diễn biến chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam   Chiến tranh đơn phương diễn ra trong hoàn cảnh có nhiều điều đặc biệt. Vậy cụ thể âm mưu và diễn biến chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam diễn ra như thế nào? Nếu bạn cũng đang quan tâm đến vấn đề này thì hãy cùng DINHNGHIA.COM.VN tìm hiểu chi tiết hơn trong bài viết sau đây nhé! Nội dung chính bài viết Hoàn cảnh của chiến tranh đơn phương Chiến tranh đơn phương diễn ra trong hoàn cảnh Pháp gặp thất bại, Mỹ trực tiếp can thiệp vào tình hình Việt Nam. Vào tháng 7/11/1954, Mỹ cử tướng Cô – Lin chính thức sang làm đại sứ ở miền Nam Việt Nam. Thực tế, tướng Cô – Lin sang Việt Nam mang theo âm mưu biến miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Từ đó, chúng sẽ làm bàn đạp để tiến hành kế hoạch tấn công ra miền Bắc và đồng thời ngăn chặn làn sóng cách mạng đang diễn ra ở Đông Nam Á. Cùng lúc đó, dựa vào thế lực của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng dựng lên một chính quyền độc tài nhằm chống phá cách mạng nước ta một cách trắng trợn. Vì thế, đến giữa năm 1954, Diệm đã lập ra đảng có tên là Cần Lao nhân vị làm đảng cầm quyền. Tiếp đó, đến cuối năm 1954, tiếp tục thành lập “phong trào cách mạng quốc gia” và đưa ra mục tiêu hoạt động đó là “chống cộng, đả thực, bài phong”. Âm mưu chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam Chiến lược chiến tranh đơn phương được diễn ra từ năm 1954 cho đến năm 1960 với âm mưu đó là tìm diệt các cán bộ và cơ sở cách mạng của ta ở miền Nam.Tuy nhiên, âm mưu chính của cuộc chiến tranh này đó là muốn biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Sau đó sẽ dùng nó để làm bàn đạp tiến công trực tiếp ra miền Bắc với mục đích ngăn chặn làn sóng cách mạng XHCN đang bùng nổ ở Đông Nam Á. Do vậy, cuộc chiến này được diễn ra trong tình hình vô cùng bất lợi cho cách mạng Việt Nam. Thủ đoạn của Diệm trong cuộc chiến tranh Bắt đầu chiến lược chiến tranh đơn phương, Diệm đã ra sắc lệnh “đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật”. Kể từ đó, đến tháng 5/1959, Diệm ra đạo luật 10/59 và lê máy chém đi khắp miền Nam và giết hại hàng loạt người dân vô tội. Bên cạnh đó, với chiến lược này, chính quyền Diệm còn thực hiện chương trình cải cách điền địa với mục đích lấy lại ruộng đất mà trước đó cách mạng đã giao cho nhân dân. Chúng lấy lại ruột đất này nhằm phục vụ cho việc lập ra các khu dinh điền, khu trù mật để kìm kẹp nhân dân ta đến mức tột cùng. Từ đó, khiến cho nhân dân ta buộc phải tách hoàn toàn khỏi mối liên hệ với cách mạng, giúp chúng dễ dàng thực hiện chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam. Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong cuộc chiến tranh đơn phương Diễn biến của chiến lược chiến tranh đơn phương Chiến lược của chiến tranh đơn phương từ năm 1955 – 1960 được Mỹ viện trợ cho chính quyền Sài Gòn và thực hiện kế hoạch thành lập đoàn cố vấn quân sự. Đoàn cố vấn này có nhiệm vụ đó là giúp Ngô Đình Diệm tiến hành cuộc “chiến tranh đơn phương” (hay còn gọi là “chiến tranh vành đai) của tổng thống Mỹ vô cùng tàn bào và độc ác. Trong thời điểm đó, Trung ương ta vẫn chưa đưa ra chủ trương chuyển hướng đấu tranh. Vì vậy, cán bộ, Đảng viên cũng như đồng bào ta ở miền Nam vẫn chống chiến tranh đơn phương bằng hình thức đấu tranh chính trị và không dám dùng vũ trang để tự vệ. Đứng trước tình hình đó, nhân dân ta ở miền Nam phải sống trong cảnh nghẹt thở. Đồng thời, cách mạng miền Nam dần bị đẩy vào thế bế tắc chưa từng thấy. Trước tình hình chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam bắt đầu diễn ra, đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị lúc bấy giờ đang hoạt động tại miền Nam đã nhận thấy rõ ngụy quyền miền Nam được Mỹ hỗ trợ. Vì vậy, chúng điên cuồng đàn áp, tàn phá và xóa bỏ phong trào cách mạng miền Nam. Do đó, mục tiêu chống cuộc chiến này lúc bấy giờ đó chính là “phải đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Mỹ – Diệm”. Đó cũng chính là tư duy mới của đồng chí Lê Duẩn được đưa ra trong “Đề cương cách mạng miền Nam”. Tài liệu mà đồng chí Lê Duẩn đưa ra đã góp phần lớn soi sáng cho Đảng viên cũng như các bộ và nhân dân miền Nam con đường đấu tranh chống chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam. Đồng thời, đồng chí Lê Duẩn còn xác định đây là con đường đấu tranh đầy gian khổ, ác liệt nhưng đóng góp không nhỏ trong việc nêu lên những luận điểm cơ bản để xây dựng đường lối cách mạng miền Nam. Cụ thể đó là”Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Cùng với đó, để chống chiến tranh đơn phương của Mỹ – Diệm, Nghị quyết 15 đã đáp ứng nguyện vọng bức thiết của mọi tầng lớp quần chúng cách mạng. Đặc biệt, nó đã động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh cách mạng của toàn dân, góp phần tạo nên những chuyển biến căn bản và nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền Nam nước ta trong suốt một thời gian từ năm 1959 – 1960. Trong đó, đỉnh cao phải kể đến phong trào Đồng khởi trong cuộc chiến đấu chống lại chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam.
Trong thời gian 20 năm, thực chất miền Bắc chỉ có 7 năm hòa bình làm nhiệm vụ CMXHCN (1958 - 1964) và sau đó lại bị 2 cuộc chiến tranh phá hoại tàn phá nặng nề. Nhân dân miền Bắc đã đạt những thành tựu rất đáng tự hào, mặc dù những thành tựu đó còn rất nhỏ bé so với mục tiêu nhưng có ý nghĩa rất quan vì nhưng thành tựu ấy mà miền Bắc đứng vững trong những thử thách của chiến tranh và hoàn thành xuất sắc vai trò của mình trong chống Mỹ. Trong đó vai trò là hậu phương lớn đối với tuyền tuyến miên Nam là rất quan trọng.
* Trước hết miền Bắc đã hoàn thành nghĩa vụ của hậu phương đối với tiền tuyến miền nam.
- Theo lý luận của CN Mác-Lênin "hậu phương vững mạnh là một trong những yếu tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Đó là nơi cung cấp nguồn nhân lực, tài lực, vật lực cho tiền tuyến. Một quân đội sẽ không thể giành thắng lợi vững chắc nếu không có hậu phương đáng tin cậy".
- Chính vì thế tại Hội nghị Trung Ương lấn 15 (1/1959), Đảng ta đã xác định đúng đắn phương pháp cách mạng miền Nam, đồng thời chỉ rõ phải : “ ra sức củng cố Miền Bắc đưa Miền Bắc tiến lên Xã hội chủ nghĩa”; “ Miền Bắc tiến lên XHCN một mặt là theo quy luật phát triển khách quan của xã hội Miền Bắc vì mục đích nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân miền Bắc. Mặt khắc là tích cực là tích cực gánh vào phần trách nhiệm đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước”. Đến đại hội III, đã xác định rõ vai trò của Miền Bắc: “làm cho miền bắc ngày càng vững mạnh về mọi mặt thì càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển cách mạng trong cả nước” Do vậy trong sự nghiệp chống Mỹ, miền Bắc là hậu phương chiến lược. Tinh thần chi viện của nhân dân MB: "Tất cả cho tiền tuyến", "tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", "thóc không thiếu một cân, quân khong thiếu 1 người", "Tiền tuyến gọi, hậu phương trả lời", "Miền nam gọi, miền Bắc sẵn sàng".
- 1954- 1960 là giai đoạn khôi phục và cải tạo kinh tế mở đường chi viện cho miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta nhờ sự giúp đở tận tình của Liên Xô và Trung Quốc và các nước anh em khác, nhân dân miền Bắc đã hoàn thành cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế, để tăng thêm sức mạnh hậu phương của mình. . Đến cuối năm 1960, miền Bắc đã chi viện cho miền Nam được 337 tấn hàng và 1217 người mở đường bộ dọc Trường Sơn
- 1961- 1965, toàn miền Bắc dấy lên phong trào thi đua “ mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”. Tổng số bộ đội miền BẮc vào miền Nam chiến đấu tăng 14 lần so với 1960, vũ khí và phương tiện chiến tranh chuyển vào Nam là 3.435 tấn tăng 10 lần so với năm 1960. Với những thành tựu to lớn trong XD CNXH đã tạo điều kiện cho miền Bắc tiếp tục chi viện cho Miền Nam với qui mô và mức độ ngày càng tăng. Miền Bắc Chi Viện cho miên Nam với một quyết tâm lớn : “ Cứ mạnh dạng đi, đi chưa chắc nó biết, biết chưa chắc nó bắn, bắn chưa chắc đã trúng và trúng chưa chắc đã chết” hoặc là “ Đi không dấu, nấu không khoi, nói không tiếng”. Tự động viên nhau đi của bộ đội miền Bắc cho thấy sự hy sinh hết mình vì chiến trường miền Nam, không mệt mỏi,không sợ hy sinh, cố gắng đạt đến mục đích cuối cùng là anh em một nhà, đất nước thu về một mối, độc lập tự do cho dân tộc
- 1965- 1968, quá nửa lực lượng và gần 80% vũ khí, đạn dược và phương tiện kỹ thuật sử dụng trên chiến trường miền Nam là do đưa từ hậu phương lớn miền Bắc vào. Từ năm 1965 – 1968 có 888.641 thanh niên miền Bắc vào bộ đội. Riêng năm 1968, để đảm bảo quân số cho ba dợt tổng tiến công và nổi dậy toàn miền Nam, Miền Bắc đã đưa vào 14 vạn quân gấp ba lần năm 1965, 7 vạn tấn hàng hóa gấp 8 lần 1965
- 1969- 1973 miền BẮc bị đế quốc Mỹ gây ra hai cuộc chiến tranh phá hoại. Nhưng Hai cuộc chiến tranh phá hoại này đều không giảm đi ý chí hết lòng vì Miền Nam, như bộ trượng bộ Quốc Phòng Mỹ Mc Namara nhận định “ Vẫn không có dấu hiệu là chiến dịch ném bom làm suy giảm ý trí kháng cự hoặc khả năng vận chuyển hàng hóa tiếp tế cho miền Nam”. Sau Chiến tranh phá hoại, Miền Bắc bắt tay khôi phục kinh tế, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng đã có những điều kiện mời để tăng tiềm lực của hậu phương, tăng khả năng chi viện của Miền Bắc cho tuyền tuyến Miền Nam. Trong 3 năm (1969-1973) hàng chục vạn thanh niên được gọi nhập ngũ, 60% trong số đó được bổ sung cho các chiến trường miền Nam, Lào, Camphuchia. Khối lượng vật chất đưa vào các chiến trường trong 3 năm tăng 1.6 lần so với 3 năm trước đó.
- 1973- 1975, Sau hiệp định Pa ri, Miền Bắc trở lại hòa bình, Miền Bắc có thêm điều kiện để chi viện cho mIền Nam. MIền Bắc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một hậu phương lớn. Đã có gần nửa triệu thành niên miền Bắc nhập ngũ và xẽ dọc Trường SƠn vào Nam chiến đấu. Riêng hai năm 1973- 1974, qua đường Trường SƠn trên 2 triệu cán bộ chiến sỉ vào tiền tuyến và 413.450 tấn hàng được đưa vào các chiến trường . Hơn 30.000 người đã được điều động vào Trường SƠn tham gia mở đường và nâng cấp đường . Chiếu dài của hệ thống đường vận tải và hành quân dọc dãy Trường Sơn lên tới 16.790 Km, cùng với hệ thống đường ống dẫn dầu dài 5000km và hệ thống thông tin liên lạc đã phục vụ đắc lực nhiệm vụ Miền Nam góp phần tích cực vào quá trình chuẩn bị tiến tới tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975.
Như vậy sự vững mạnh của Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc đã cổ vũ to lớn tinh thần chiến đấu của nhân dân miền Nam. Sức người Sức của từ miền Bắc chi viện cho Miền Nam phối hợp với cuộc chiến đấu ngoan cường của nhân dân miền Nam đã làm nên thắng lợi từng bước của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Miền Bắc xứng đáng là một pháo đài vô dịch của CHXN, xứng đáng với vị trí quyết định nhất trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
* Miền Bắc không chỉ là hậu phương mà còn là chiến trường đánh Mỹ.
- Quân và dân miền bắc đã triển khai mạnh mẽ cuộc chiến tranh nhân dân: đất đối không, kết h ợp chặt chẽ 3 thứ quân, kết hợp chặt chẽ các binh chủng và quân chủng, hình thành 1 lưới lửa phòng không dày đặc, nhiều tầm, nhiều hướng, đánh thắng 2 cuộc chiến tranh phá hoại của ĐQ Mỹ, đặc biệt là đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ vào thủ đô Hà Nội và thành phố cảng HP. Quân và dân miền Bắc đã bắn rơi gần 4200 máy bay và bắt sống nhiều giặc lái, chia lửa cùng dồng bào và chiến sĩ miền nam, góp phần buộc ĐQ Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán và ký hiệp định Paris, rút quân viễn chinh khỏi miền nam.
- Miền Bắc làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với cách mạng Lào và Campuchia, thường xuyên chi viện sức người, sức của cho đường 2 nước bạn, góp phần củng cố và tăng cường khối đoàn kết Đông Dương, khối liên minh giữa 3 dân tộc, tạo một nhân tố chiến lược để đảm bảo thắng lợi của CM mỗi nước.
- Miền Bắc còn là nơi tiếp nhận bảo quản, cải tiến và vận chuyển các loại vũ khí và các phương tiện, vật chất được chi viện từ các nước anh em tới chiến trường miền Nam. Là nơi đứng chân của các cơ quan đầu não trong chiến tranh, miền Bắc phải thường xuyên đảm bảo hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc, đảm bảo những yêu cầu về chi viện và thông tin liên lạc thông suốt tới từng chiến trường.
Câu 4 Những sự kiện biểu hiện tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Việt Nam – Lào trong thời kỳ chống Pháp và Chống Mỹ
a. Trong kháng chiến chống Pháp ( 1945 – 1954)
- Tháng 4/1953, bộ đội Việt Nam phối hợp với bộ đội Pa thét Lào mở chiến dịch Thường Lào, giải phóng tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tình Phong – xa – lỳ. căn cứ kháng chiến Lào được mở rộng và nối liền với Tây Bắc Việt Nam.
- Tháng 12/1953, phối hợp với bộ đội Pa thét Lào, bộ đội Việt Nam mở chiến dịch Trung Lào, giải phóng thị xã Thà Khẹt và toàn tỉnh Khăm Muội, uy hiếp Sê nô
- Đầu năm 1954, phối hợp với một số đơn vị bồ đội Pa thét Lào, bộ đội VN mở chiến dịch Thượng Lào , mở rộng căn cứ kháng chiến cho nước bạn.
- Những thắng lợi của quân dân Việt – Lào trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp đã buộc Pháp phải ký Hiệp định Gio – ne – vo , công nhân các quyền dân tộc cơ bản của ba nước Đông Dương.
b. Trong kháng chiến chống Mỹ:
- Sau khi Mỹ giúp bọn tay sai làm đảo chính , xóa bỏ nền trung lập ở Campuchia, ba nước Lào – Việt Nam – Campuchia họp hội nghị cấp cao ( 24 – 25/4/1970) để biểu thị quyết thâm đoàn kết chiến đầu chống Mỹ của 3 nước Đông Dương.
- Nửa đầu năm 1970, quân tình nguyện Việt Nam ở Lào cùng quân dân Lào đã đập tan cuộc hành quân lân chiếm cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng , giải phóng một vùng rộng lớn ở Lào
- Tháng 2 và 3/ 1971 , quân dân Việt Nam phối hợp với quân dân Lào đập tan cuộc hành quân “ Lam Sơn 719” nhằm chiếm giữ Đướng 9 – Nam Lào của 4,5 vạn quân ngụy Sài Gòn, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.
- Thắng lợi của Cm VN buộc Mỹ phải kí Hiệp định Pari ( 27/1/1973), sau đó Mĩ phải ký Hiệp định Viêng Chăn với Lào ( 21/2/1973) . Chiến thắng 30/4/1975 của Việt Nam đã cổ vũ và tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Lào giành thắng lợi hoàn toàn, nước Cộng hòa nhân dân Lào ra đời ( 2/12/1975)
Tình đoàn kết , phối hợp chiến đấu giữa hai dân tộc Việt – Lào đã trở thành yếu tố thúc đẩy sự phát triển và thắng lợi của cuộc kháng chiến ở mỗi nước.
Câu 5. Từ 1930 – 1945 , đường lối bạo lực cách mạng của Đảng đã thể hiện như thế nào?
Trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do và CNXh, Đảng ta luôn tận dụng những điều kiện thuận lợi để tiến hành cách mạng bằng phương pháp hòa bình, đồng thời nhận thức sâu sắc tính tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đập tan bộ máy đàn áp và các hành động chống đối của kẻ thù.
- Từ 1930 – 1945, trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng, Đảng ta đã từng bước xây dựng lực lượng vũ trang, căn cứ đại cách mạng, lãnh đạo quần chúng tiến tới khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng bạo lực tiến hành bằng sức mạnh của lực lượng chính trị kết hợp với lực lượng vũ trang, trong đó lực lượng chính trị đóng vai tro quyết định, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang đóng vai trò hỗ trợ quan trọng.
- Trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của một đội quân viễn chinh nhà nghề, Đảng đã phát động một cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện.
Thực chất đây là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc , trong đó có sức mạnh kết hợp của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang
Lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, đấu tranh vũ trang đóng vai trò quyết định thành bại của chiến trường, còn lực lượng chính trị là chỗ dựa , phối hợp và là nguồn bổ sung quan trọng cho lực lượng vũ trang.
- Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước , đường lối bạo lực cách mạng được Đảng hoàn thiện và cụ thể hóa thành một khoa học- nghệ thuật quân sự tài giỏi.
- Trong thời gian này , lực lượng chính trị, lực lượng vũ tanh, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều được phát huy đến mức cao nhất, có sự phối hợp chặt chẽ với nhau thành ba mũi giáp công ( CHính trị, quân sự, binh vận) tiến công địch liên tục, tự thấp tới cao trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị
- Một nét độc đáo trong nghệ thuật chỉ đạo quân sự thời kỳ này là sự kết hợp chặt chẽ hình thức khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng.
Sau cuộc khởi nghĩa từng phần ( Đồng Khởi – 1960) vì lực lượng vũ trang của địch mạnh, Đảng chủ trương chuyển sang cuộc chiến tranh cách mạng để đối phó với chiến tranh xâm lược của Mỹ - Ngụy
Từ năm 1961 – 1975 , khở nghĩa và chiến tranh cách mạng , tân công và nổi dậy đã được tiến hành đồng thời ,đan xen , hỗ trợ nhau, đưa đến những thắng lợi quyết định mà đỉnh cao nhất là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.
TIN LIÊN QUAN
Đại sứ Mỹ và Mậu Thân 1968Tương quan lực lượng Ông Bồng cho biết, tổng kết về hậu cần của kháng chiến chống Mỹ cho thấy số vật chất chúng ta đưa vào chiến trường trong 16 năm tính từ 1959 - 1975, kể cả trên bộ, trên biển, là khoảng 70 vạn tấn, chủ yếu là vũ khí. Cũng có lương thực nhưng chủ yếu để nuôi lực lượng đi bộ vào trong đó. Trung bình, mỗi người đi bộ vào Nam sử dụng hết vài tạ gạo. Cũng theo ông Bồng, vào thời điểm năm 1967, lúc quân Mỹ mạnh nhất ở VN, lượng vật chất Mỹ cấp cho quân chiến đấu ở chiến trường VN gấp 376 lần chúng ta. Trung bình 1 tháng, quân viễn chinh tiêu thụ hết 1,2 triệu tấn vật chất. “Trong suốt thời gian đó, lúc nào trên Đại Tây Dương cũng có 500 chiếc tàu chở vũ khí, quân trang tiếp tế cho quân Mỹ ở VN. Quân vận không đủ nên phải thuê cả tàu châu Âu”, ông Bồng nói. Biệt động Sài Gòn - lực lượng quan trọng trong Mậu Thân 1968, cũng không dư dả gì. “Do nguyên tắc tổ chức nên biệt động không nằm trong hệ thống của Quân đội nhân dân VN. Đó là những người nhiệt thành yêu nước. Tự vệ đô thị thì hoàn toàn bán võ trang- Giai đoạn 1954 - 1960: Phong trào Đồng Khởi vỡ từng mảng hệ thống kìm kẹp quân địch, lung lay chính quyền Ngô Đình Diệm, phá sản " chiến lược Aixenhao", chiến lược thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới.
- Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam ra đời (20-2-1960), đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống Mĩ - Ngụy.
- Giai đoạn 1961 - 1965: đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt " của Mĩ. Chiến thắng Ấp Bắc ( 2-1-1963), Đông Xuân 1964 - 1965; chống địch lập " Ấp chiến lược " và phá " Ấp chiến lược ".
- Giai đoạn 1965 - 1968: Nhân dân cả nước trực tiếp đánh Mĩ, đánh bại chiến lược Chiến tranh cục bộ ở miền Nam, chiến tranh phá hoại miền Bắc với những chiến thắng itu biểu: chiến thắng Vạn Tường, đập tan phản công mùa khô; tổng tiến công nổi dậy tết Mậu Thân
- Giai đoạn 1965 - 1973: Đánh bại Việt Nam hoá chiến tranh; Chiến tranh phá hoại miền bắc lần 2, phối hợp với Lào và Campuchia đánh bại " Đông Dương Hoá Chiến tranh tranh" với những chiến thắng itu biểu: CHinh phủ cách mạng lâm thời công hoà miền nam Việt Nam thành lập. Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương họp. Cuộc tấn công chiến lược 1972, trận Điện Biên Phủ trên không; Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở VN.
- Giai đoạn 1973 - 1975: đánh bại chiến dịch tràn ngập lãnh thổ của địch, tiến lên đánh bại hoàn toàn cuộc Chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ với thắng lợi mở đầu ở Đường 14 - Phước Long và kết thúc là cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975.
1. Thuận lợi:
- Miền Bắc: Trải qua hơn hai mươi năm (1954 - 1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đã xây dựng được cơ sở vật chất - kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội.
- Miền Nam: hoàn toàn giải phóng, chế độ thực dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền Sài Gòn bị sụp đổ.
2. Khó khăn:
- Chịu hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, làm chậm quá trình phát triển đất nước.
- Di hại của xã hội cũ vẫn tồn tại.
- Số người mù chữ chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư.
- Kinh tế miền Nam phát triển theo hướng tư bản, song về cơ bản mang tính chất kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và phân tán, phát triển không cân đối, lệ thuộc viện trợ từ nước ngoài.
1. Thuận lợi:
- Miền Bắc: Trải qua hơn hai mươi năm (1954 - 1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đã xây dựng được cơ sở vật chất - kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội.
- Miền Nam: hoàn toàn giải phóng, chế độ thực dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền Sài Gòn bị sụp đổ.
2. Khó khăn:
- Chịu hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, làm chậm quá trình phát triển đất nước.
- Di hại của xã hội cũ vẫn tồn tại.
- Số người mù chữ chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư.
- Kinh tế miền Nam phát triển theo hướng tư bản, song về cơ bản mang tính chất kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và phân tán, phát triển không cân đối, lệ thuộc viện trợ từ nước ngoài.
Đáp án: A
Giải thích:
Theo quyết định của Hiệp định Pa-ri năm 1973, Mĩ phải rút quân khỏi Việt Nam. Ngày 29 – 3 – 1973, tóan lính Mĩ cuối cùng rút khỏi nước ta làm thay đổi so sánh lược lượng ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Miền Bắc trở lại hòa bình, ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa và tiếp tục chi viện cho chiến trường miền Nam.