Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu 3 :
-Thăng Long tứ trấn là khái niệm xuất hiện trong dân gian để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hướng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long, hoặc bốn kinh trấn hay còn gọi là nội trấn (ngoài ra là các phiên trấn) bao quanh kinh thành Thăng Long.
Đông trấn: "Bạch Mã tối linh từ" (đền Bạch Mã) (phố Hàng Buồm) thờ thần Long Đỗ - thành hoàng Hà Nội. Đền được xây dựng từ thế kỷ 9Tây Trấn: "Tây Trấn từ" (đền Voi Phục), (hiện nằm trong Công viên Thủ Lệ) thờ Linh Lang - một hoàng tử thời nhà Lý. Đền được xây dựng từ thế kỷ 11Nam trấn: "Kim Liên từ" (đền Kim Liên), trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (nay là phường Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội), thờ Cao Sơn Đại Vương. Đền được xây dựng từ thế kỷ 17Bắc trấn: "Trấn Vũ quán" (đền Quán Thánh), (cuối đường Thanh Niên), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ. Đền được xây dựng từ thế kỷ 10tham khảo !
1.
Có thể nói kiến trúc hoàng cung Thăng Long là một đỉnh cao của sự tiến bộ của kiến trúc đương thời lúc bấy giờ. Không chỉ có diện tích và quy mô to lớn, kiến trúc và trang trí nội thất bên trong còn rất nguy nga và tráng lệ thể hiện được sự quyền quý của quý tộc. Sách sử xưa có viết về cung điện Thăng Long được chạm trổ hết sức khéo léo, là công trình được thi công xây dựng tỉ mỉ từ trước đến nay chưa từng có. Bên trong cung điện đều sơn son, cột điện thì vẽ các hình long, hạc, tiên nữ qua đó bạn có thể hình dung vẻ đẹp quy nga và tráng lệ của cung Thăng Long lúc bấy giờ.
2.
Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370). Ông đỗ Hoàng giáp năm 1304. Nguyễn Trung Ngạn thuở nhỏ tên là Cốt, tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Khi còn bé, Nguyễn Trung Ngạn được dân trong vùng nể phục, gọi là “thần đồng”. Ông không chỉ là vị quan giỏi việc nội chính mà còn là nhà ngoại giao xuất sắc.
-Trần Thì Kiến (1260 - 1330) người huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Khi làm quan triều Trần, ông là pháp quan liêm chính, giỏi lý số
3.là Đền Bạch Mã, đền Voi Phục, đền Kim Liên và đền Quán Thánh. Đây là 4 ngôi đền thiêng được dựng lên để thờ 4 vị thần trấn giữ những vị trí huyết mạch của mảnh đất Thăng Long.
Kinh tế TBCN phát triển cùng các cuộc phát kiến địa lí trong các thế kỷ XV – XVI đã dẫn đến kỷ nguyên thương mại quốc tế sau đó. Các nước phương Tây đẩy mạnh việc giao lưu quốc tế vs các nước phương Đông. Hai trục giao thương buôn bán lớn ở biển Đông được hình thành đó là trục Bắc – Nam và Đông – Tây. Trong nước, về chính trị thời kỳ này đất nước ta chia cắt thành 2 Đàng. Trong các tk XVI – XVIII, nền kt hàng hóa phát triển, có những chuyển biến to lớn. Chính trong bối cảnh đó, hoạt động trong các đô thị đã ra đời,bên cạnh các đô thị cũ còn xuất hiện nhiều đô thị mới.
Đô thị lớn nhất và cũng là kinh đô của cả nước là Thăng Long – Kẻ Chợ. Đây là một đô thị ra đời từ tk 11. Trong các tk XVI – XVIII mạng lưới chợ ở đâyphát triển mạnh mẽ và là nơi đô hội, tụ tập đông người, có nhiều phố xá nên mật độ các chợ ở đây dày đặc hơn ở nơi khác. Có thể hình dug Thăng Long – Kẻ Chợ theo mô tả của giáo sĩ phương Tây: giáo sĩ Xanh Phanlo “kinh đô của nó, tôi xem có thể lớn bằng Pari và dân số cũng bằng”, giáo sĩ Marini “ Các nhà ở Kẻ Chợ đều 1 tầng…có 62 khu phố mà mỗi khu rộng bằng 1 thành phố nhỏ của nước Ý”.
ở Kẻ Chợ ngoài người Hoa còn có các thương nhân phương Tây đến buôn bán và xin lập thương điếm. Thăng Long – Kẻ Chợ là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của cả nước, vì vậy TL vẫn chịu sự rang buộc của phần đô, còn phần thị ko phát triển bằng vì nhà nước nắm độc quyền ngoại thương.
Bên cạnh đó còn có Phố Hiến (Hưng Yên). Đây là 1 đô thị mới phát triển trong thời kì này. Tên gọi Phố Hiến thể hiện rõ nét yếu tố đô chi phối yếu tố thị. Đây là thủ phủ trấn Sơn Nam, Phố Hiến nằm ở phía tả s.Hồng, nơi đây có lỵ sở của Tuy Hiến sát sứ ty(cơ quan chính trị của nhà nước). Về sau vs sự phát triển của mình phố Hiến dần dần mag 1 diện mạo của 1 đô thị kinh tế. Kết cấu của nó bao goomd 1 bến cảng sông, 1 tập hợp chợ, khu phường phố, và 2 thương điếm Hà La, Anh. Phố Hiến từ nơi tụ cư, thị trấn phát triển thành 1 đô thị lớn vào tk 17 đã luôn mang tính nổi trội đậm sắc thái kinh tế. Lúc đầu các hoạt động buôn bán thông qua mạng lưới chợ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động kinh tế mũi nhọn chủ yếu, đặc biệt là ngoại thương do lợi thế là 1 bến sông, đầu mối của các tuyến gt vùng. Thời kì phồn thịnh nhất của phố Hiến là vào khoàng tk 17. Sau đó là quá trình suy thoái, diễn ra trong gần 2 tk để cuối cùng trở thành tỉnh lỵ Hưng Yên. Do dòng sông bị bồi lấp, cạn dần nên tàu thuyền vào khó khăn, mặt khác lúc này tình hình chính trị khu vực và hệ thống kinh tế thương mại biển Đông cũng đã có những chuyển biến. Trung Quốc bãi bỏ lệnh hải cấm, Nhật Bản cũng chuyển sang chiến lược xk vàng bạc, tơ lụa. Các tuyến buôn bán đường biển trực tiếp trở nên thông thoáng hơn. Thế kỷ XIX khi kinh đô chuyển vào Huế , phố Hiến lụi tàn dần.
Thanh Hà: nằm ở tả ngạ sông Hương do người TQ thành lập vào năm 1636 khi được phép của chúa Ng. Thanh Hà là khu buôn bán của Phú Xuân được gọi là “Đại Minh khách phố” , vs hoạt động buôn bán sầm uất. Tuy nhiên do cồn nổi ở s.Hương tàu thuyền không cập bến được . Sau đó, Thanh Hà cũng lụi tàn dần.
Hội An; là thành phố cảng lớn nhất Đàng Trong, từ rất sớm Hội An đã là nơi đón tiếp thuyền buôn ngoại quốc . Cảng thị Hội An là nơi tập trung hiều nhất hàng hóa ngoại quốc, các cửa hàng này hai bên phố không khi nào rảnh rỗi. Công ty Đông Ấn Anh nhận xét: “khu phố faifo này có 1 con đường nằm sát vs sông. Hai bên đường có khoảng 100 ngôi nhà xd san sát nhau. Boro viết “thành phố lớn lắm, đến nỗi người ta có thể nhận nói nó có hai thị trấn, 1 của người TQ và 1 của người NB”. Cuối thế kỷ 18 vùng biển của Đại cạn dần, thuyền buôn ko vào được, Hội An tàn lụi dần.+
Bến Nghé: dưới sự cai quản của các chúa Ng năm 1698 chính thức được thahf lập. Bến Nghé trở thành nơi thu hút sự buôn bán rất lớn của khu vực phía Nam.
Tham khảo:
Hội An ra đời vào khoảng cuối thế kỷ XVI, phát đạt trong thế kỷ XVII - XVIII, suy giảm dần từ thế kỷ XIX để rồi chỉ còn là một đô thị vang bóng một thời. Đứng về tuổi thọ, Hội An cũng chưa phải dài lâu nhất. Thương cảng Vân Đồn tồn tại suốt thời Lý, Trần, Lê trong khoảng 5 thế kỷ (XI - XV) Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh - Hà Nội là kinh thành và đô thị mang chiều dài lịch sử gần 10 thế kỷ.
Về quy mô của một đô thị, trong thời thịnh vượng của nó, Hội An cũng chưa phải to lớn nhất. Về mặt này, trong thế kỷ XVII - XVIII, Hội An càng phải đứng sau Thăng Long - Kẻ Chợ, Phú Xuân - Huế.
Tuy nhiên, về những phương diện khác, Hội An lại có vị trí, vai trò và mang những đặc điểm riêng của nó, tạo nên dáng vẻ và những giá trị lịch sử - văn hóa độc đáo của Hội An. Và điều đặc biệt quan trọng là cho đến nay, đô thị cổ Hội An còn để lại một tổng thể di tích phong phú, đa dạng và tương đối nguyên vẹn của các phố xá, bến cảng, các kiến trúc dân dụng và tôn giáo, tín ngưỡng dân gian. Trong khi đó, trải qua các biến thiên lịch sử và những điều kiện khắc nghiệt của nhiên nhiên, hầu hết các đô thị cổ khác đều bị hủy hoại hoặc cải tạo hoàn toàn, chỉ để lại trên mặt đất một ít di tích rời rạc, phần lớn là các thành lũy và cung điện, đền miếu, lăng mộ. Di tích đô thị cổ Hội An còn được bảo tồn đến nay là trường hợp duy nhất của Việt Nam và cũng là trường hợp hiếm có trên thế giới.
Chính vì những giá trị đó, năm 1985 Bộ Văn hóa thay mặt Nhà nước Việt Nam đã ra quyết định công nhận và khoanh vùng bảo vệ di tích phố cổ Hội An. Cùng năm đó, cuộc hội thảo khoa học lần thứ nhất về Hội An đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức. Với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong nước, cuộc hội thảo mang tầm cỡ quốc gia này đã làm sáng tỏ được một số vấn đề cho phép khẳng định quyết định đúng đắn của Chính phủ Việt Nam và đặt cơ sở khoa học bước đầu xây dựng một đề án bảo tồn khu di tích.
Tuy vậy, công việc điều tra, khảo sát, nghiên cứu về Hội An còn cần phải tiếp tục để có thể đánh giá một cách sâu sắc hơn, chính xác hơn đặc điểm và giá trị của di tích đô thị cổ Hội An và đưa ra một đề án quy hoạch và bảo tồn, phát huy tác dụng một cách khoa học nhất và có hiệu quả nhất. Cuộc hội thảo quốc tế này của chúng ta nhằm mục tiêu đó.
2. Sau khi Ủy ban quốc gia Hội thảo quốc tế về Hội An được thành lập (4/1989), chúng tôi đã thực hiện một chương trình điều tra, khảo sát và nghiên cứu về Hội An nhằm chuẩn bị cho cuộc hội thảo quốc tế này, các đoàn khảo sát về địa lý – địa đạo, khảo cổ học, lịch sử, ngôn ngữ học, kiến trúc, nghệ thuật, bảo tồn học… đã lần lượt về Hội An triển khai các chương trình khảo sát chuyên ngành. Phạm vi điều tra, khảo sát không chỉ giới hạn trong khu phố cổ Hội An (Nội thị của Hội An ngày nay), mà được mở rộng cả về không gian và thời gian.
Về không gian, mở rộng ra cả vùng hạ lưu sông Thu Bồn trong phạm vi hoạt động của thương cảng Hội An xưa, từ dinh trấn Quảng Nam (Thanh Chiêm) cho đến Cù Lao Chàm, và trong chừng mực nào đó ngược về phía tây cho đến Trà Kiệu - Mỹ Sơn của Champa xưa.
Về thời gian, từ những di tích Hội An hiện còn, chúng tôi ngược về quá khứ xa xưa thời tiền sử, sơ sử, thời văn hóa Chàm - tạm gọi là thời tiền Hội An và chủ yếu đi sâu vào quá trình hình thành, phát triển và suy giảm của thương cảng Hội An.
Kết quả trước hết của các đợt điều tra khảo sát điền dã đó là đã thu thập thêm được nhiều tư liệu mới, làm giàu thêm cơ sở tư liệu về Hội An. Đó là những hiện vật khảo cổ học gồm đồ đá, đồ gốm sứ, tiền đồng cổ từ văn hóa Sa Huỳnh muộn cho đến những thời kỳ lịch sử gần đây, những bản dập văn bia, những gia phả, tộc phả, những bản vẽ kiến trúc cổ tồn tại cho đến nay, những hồ sơ tư liệu về các nghề thủ công cổ truyền, về tiếng nói địa phương, về địa danh, về các phong tục tập quán và lễ hội văn hóa dân gian. Sưu tập gốm sứ ở Hội An rất phong phú gồm gốm Sa Huỳnh - Champa, gốm sứ Đại Việt - Đại Nam của các thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn, gốm sứ Trung Quốc qua nhiều triều đại và có thể cả gốm sứ nước khác, đang chờ đợi sự nghiên cứu và giám định của các chuyên gia. Các bản dập văn bia gồm bia chùa, đình, miếu, mộ, nhà thờ tộc, hội quán, cầu lên đến gần 100. Các di tích kiến trúc cổ còn được lưu giữ, theo điều tra và thống kê sơ bộ, cũng lên đến 226 đơn vị với nhiều loại hình khác nhau và đã lập được 154 hồ sơ bản vẽ. Do hạn chế về thời gian và nhất là do hạn chế về kinh phí, chúng tôi chưc hoàn tất được chương trình điều tra khảo sát về mọi mặt, đặc biệt là chưa tiến hành được những khai quật khảo cổ học trên diện lớn ở nhiều địa điểm cần thiết.
Trên cơ sở tập hợp những tư liệu mới đó kết hợp với những kết quả nghiên cứu trước đây, tháng 10/1989, chúng tôi tổ chức cuộc hội thảo liên ngành để chuẩn bị các báo cáo khoa học cho cuộc hội thảo quốc tế này. 26 báo cáo khoa học thuộc nhiều ngành chuyên môn khác nhau đã được hoàn thành và sẽ được trình bày trong cuộc hội thảo của chúng ta, với sự tham gia của các nhà khoa học Việt Nam ở Hà Nội, Quảng Nam - Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Huế.
Chúng tôi biết rằng tư liệu liên quan đến Hội An còn được lưu giữ ở nhiều nước trước đây vốn có quan hệ buôn bán với thương cảng này như Nhật Bản, Trung Quốc ở phương Đông, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh, Rôma ở phương Tây. Một phần nguồn tư liệu này đã được khai thác và công bố trong các công trình nghiên cứu của N. Peri, W.J.M. Buch, Chen Ching Ho, P. Manguin, O gura Sadao và nhiều bài đăng trên Bulletin des Amis du vieux Hue, Bulletin de l’Ecole francaise d’Extrême - Orient. Nguồn tư liệu này đang được tiếp tục khai thác nguồn tư liệu cho Hội An và rộng ra nữa cho cả lịch sử Việt Nam.
38 báo cáo khoa học (26 của các nhà khoa học Việt Nam và 12 của các nhà khoa học nước ngoài) trình bày trong cuộc hội thảo quốc tế này, bao quát nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau và đề cập đến nhiều vấn đề của Hội An trong lịch sử và hiện trạng. Các báo cáo cũng gợi mở ra nhiều vấn đề tranh luận rất hứng thú và đặt ra những giả thuyết, những hướng tìm tòi mới có ý nghĩa và triển vọng.
Sau đây, dựa trên các báo cáo khoa học gửi đến hội thảo, tôi xin phép được nêu lên và lưu ý các bạn đồng nghiệp trong và ngoài nước một số vấn đề nhằm định hướng cho cuộc hội thảo khoa học trên tinh thần rất cởi mở, tự do và thẳng thắn của chúng ta.
3. Nói đến thương cảng Hội An, các công trình nghiên cứu trước đây thường chỉ dựa vào những phố cổ hiện còn và trên địa hình sông - biển, các bãi bồi - ao đầm hiện tại. Nhưng những bản đồ cổ thế kỷ XVII - XIX và nhiều tư liệu địa lý học lịch sử cho thấy chỉ trong vòng ba, bốn thế kỷ trở lại đây, địa hình vùng hạ lưu sông Thu Bồn đã có nhiều thay đổi. Ngày nay, những biến đổi của vùng cửa sông và các doi cát ven sông còn tiếp diễn và có thể dễ dàng quan sát trong từng thời gian khoảng chục năm. Vì vậy việc nghiên cứu, khảo sát về mặt địa lý, khí tượng, thủy văn để xác định quá trình hình thành và biến đổi địa hình của vùng hạ lưu sông Thu Bồn, nhất là trong khoảng 2000 năm trở lại đây, có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử Hội An cũng như lý giải cấu trúc, sự ra đời và sa sút của thương cảng, mối quan hệ giữa Hội An với Đà Nẵng và con đường hàng hải quốc tế đương thời.
Kết quả nghiên cứu và khảo sát của một số nhà chuyên môn cho biết vào khoảng đầu công nguyên, lúc biển tiến đạt mức cực đại thì vùng cửa sông Thu Bồn là một vùng biển cửa sông loe như hình phễu. Dấu vết rõ rệt của vùng biển cổ đó là một vùng đầm lầy Trà Quế (Cẩm Hà). Sau đó, biển rút dần và các địa hình có nguồn gốc khác nhau được tạo thành. Những địa hình cao con người có thể sinh sống được lúc bất giờ là ven bờ vùng biển, là các thềm tích tụ biển rải rác và thành một dải dọc theo chân bờ xói lở. Thềm tích tụ biển tương đối cổ và cao là doi cát từ Hội An đến Cồn Tàu. Hai bên bờ Bắc và Nam cửa Thu Bồn, hai dải tích tụ cát nhô lên khỏi mặt nước, biến vùng nước phía trong thành dầm phá. Các dạng đầm phá bị lấp dần, để lại dưới dạng dòng sông Cổ Cò hay các bầu ở Trung Phường. Phù sa và sóng biển ở cửa sông tạo thành những cồn cát, tách sông Thu Bồn đổ ra biển bằng hai cửa mà tư liệu lịch sử đã có thời gọi là Cửa Đại và cửa Tiểu. Quá trình di chuyển dọc bờ của bùn cát làm chi cửa phía bắc bị lấp dần - có thể vào khoảng thế kỷ XVIII - và ép dòng nước sông Thu Bồn chạy về phía Nam. Cũng từ đó, quá trình tích tụ mạnh mẽ bồi lấp dần các đầm phá và làm cho các tuyến sông bị thay đổi và bị lấp dần, gây khó khăn cho sự ra vào và neo đậu các tàu thuyền lớn.
Trên những bản đồ cổ thế kỷ XVII - XVIII, Hội An hay Faifo nằm trên bờ bắc sông Thu Bồn (hay sông Hội An) thông với biển cả bằng cửa Đại Chiêm (lúc đó còn ở phía Bắc Cửa Đại ngày nay) và một dòng sông nối với cửa Hàn của Đà Nẵng, phía ngoài là một doi cát rộng như một hòn đảo. Dấu vết của dòng sông nối Hội An với cửa Hàn có thể xác định là sông Cổ Cò - Để Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ này, gần đây đã tìm thấy những lô tàu, mỏ neo chôn vùi trong lòng đất và những địa danh có ý nghĩa như Vụng Tàu, Cồn Tàu, Bến Tàu…
Phải chăng trên cơ sở những tư liệu đó, chúng ta có thể phác họa lại địa hình và sông nước Hội An trong thời hình thành và phồn vinh của thương cảng nổi tiếng này. Những biến đổi của địa hình sau đó cũng là một trong những nhân tố trọng yếu làm sa sút vai trò và hoạt động của thương cảng Hội An. Cũng trên cơ sở địa hình và những biến đổi của nó trong lịch sử, chúng ta có thể nghiên cứu theo quan điểm lịch đại và đồng đại đặc điểm môi trường và sinh thái vùng sông - biển, cồn cát - ao đầm của Hội An và hạ lưu sông Thu Bồn.
4. Trong hội thảo quốc tế này, một số báo cáo đề cập đến thời kỳ tiền Hội An, thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa. Đó là một hướng nghiên cứu đã được nêu lên trong hội thảo năm 1985 và được tiếp tục trong hội thảo này với một số tư liệu và nhận thức mới.
Những cuộc thám sát khảo cổ học ở Hậu Xá, Thanh Chiếm, An Bang (xã Cẩm Hà) để phát hiện được những di tích mộ chum thuộc văn hóa Sa Huỳnh muộn. Trong những di tích này đã tìm thấy đồ gốm, khuyên tai ba mấu bằng đá, công cụ và vũ khí bằng sắt và những tiền đồng bằng bị gãy thành nhiều mảnh mà có mảnh được đoán định là tiền Ngũ Thù và tiền Vương Mãng. Khó khăn là di tích Thanh Chiếm và Hậu Xá hình như bị xáo trộn. Tôi mong các chuyên gia khảo cổ học sẽ trao đổi để giám định niên đại của những đồng tiền cổ và mối quan hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa.
Quanh vùng Hội An, trên mặt đất cũng thấy một số di tích Chàm như vết tích kiến trúc ở Lùm Bà Vàng (Thanh Chiếm), ở An Bang (Thanh Chiếm - Cẩm Hà), bức tượng trong miếu Thần Hời ở An Bang, tượng thờ tại Lăng Bà Lồi (Cẩm Thanh), đầu tượng thần ở nhà thờ họ Võ tại Hậu Xá (Cẩm Hà), đài thờ ở Chùa Cây Thị (Uất Lũy - Điện Phương), cùng nhiều giếng Chăm ở hạ lưu sông Thu Bồn mà nhiều nhất là phía Đông bàu Trung Phường.
Khi mà kinh đô Trà Kiệu (Simhapura) và thánh địa Mỹ Sơn đặt ở vùng thượng lưu sông Thu Bồn thì không ai nghi ngờ gì vùng cửa sông phải giữ một vị trí trọng yếu trong kế hoạch bố phòng và trong quan hệ giao thương của vương quốc Champa. Những địa danh Cù Lao Chàm, cửa Đại Chiêm, Kẻ Chàm… và có thể cả Thi Lai, Bến Cồn Chăm… còn như ẩn tàng một quá khứ của văn hóa Chàm, dấu vết một thương cảng cổ của vương quốc Champa. Thư tịch cổ của Trung Quốc có nói đến một “Lâm Ấp phố” (Thủy kinh chú) mà “ngoài Lâm Ấp phố của núi Bất Lao” (Thông điển). Núi Bất Lao hay Chiêm Bất Lao tức Cù Lao Chàm. Vậy cửa Đại Chiêm, mà còn có phố Lâm Ấp. Phải chăng một cảng thị nào đó đã được thành lập, mở cửa giao lưu với Đông nam Á và qua đường biển Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, với thế giới Ấn Độ và Ả Rập. Nhưng vị trí cảng thị đó ở đâu, bố trí các bến thuyền ra sao thì cần chờ đợi những kết quả khai quật khảo cổ học trong tương lai mới xác định được. Những bến thuyền của Chiêm cảng xưa ở phía Nam là những giả định khoa học để thảo luận và nghiên cứu, nhưng theo tôi, kết luận còn phải được chứng minh bằng những cứ liệu mới.
5. Quá trình hình thành và phát triển của thương cảng Hội An cùng với thời điểm ra đời và tên gọi Hội An - Faifo được đề cập đến trong một số báo cáo khoa học.
Nói chung nhiều tác giả thừa nhận thương cảng Hội An ra đời vào khoảng cuối thế kỷ XVI và phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XVII. Thật khó đưa ra một thời điểm cụ thể làm năm khai sinh của Hội An. Và dĩ nhiên trước khi Hội An ra đời với vai trò một đô thị - thương cảng thì đã có một quá trình chuẩn bị và tạo lập các điều kiện về nhiều phương diện. Hội An một mặt kế thừa những thành quả khai phá của Chiêm cảng xưa, mặt khác được trực tiếp chuẩn bị từ thế kỷ XV khi người Việt vào tụ cư ở đây.
Bối cảnh lịch sử ra đời của thương cảng Hội An có những nét chung va riêng của nó, xét trong tình hình trong nước và thế giới lúc bấy giờ.
Trong nước, năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa rồi năm 1570 kiêm trấn thủ Quảng Nam. Chúa Tiên - chúa Nguyễn đầu tiên này, đã thi hành nhiều biện pháp tích cực nhằm khai phá đất hoang, mở mang xóm làng, phát triển công thương nghiệp. Sử biên niên ghi nhận năm 1572: “Chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi độ hội lớn”. Chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) kế nghiệp từ năm 1613, càng phải đẩy mạnh các chính sách phát triển kinh tế - xã hội để chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Cuối thế kỷ XVI đầu XVII, nền kinh tế Thuận Quảng có những bước phát triển kinh tế hàng hóa cùng với chính sách mở cửa của chính quyền chúa Nguyễn là cơ sở và tác nhân bên trong rất quan trọng, dẫn đến sự xuất hiện của một loạt đô thị và thương cảng, trong đó Hội An với vị trí và điều kiện thuận lợi của nó, sớm trở thành trung tâm kinh tế mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất.
Nhận xét trên liên quan đến việc đánh giá lại sự nghiệp của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong mà giới sử học Việt Nam đang thảo luận. Trước đây, một quan điểm khá phổ biến trong các công trình sử học Việt Nam là gần như phủ nhận vai trò tích cực của các chúa Nguyễn cũng như triều Nguyễn đâu đó nói chung, giải thích những thành tự kinh tế chỉ bằng kết quả lao động của nhân dân. Rõ ràng một quan niệm như thế là thiếu khách quan, không phù hợp với thực tế lịch sử.
Thế kỷ XVI - XVII cũng là thời kỳ mà Đông Nam Á và phương Đông nói chung chứng kiến nhiều chuyển biến quan trọng.
Sau các phát kiến địa lý cuối thế kỷ XV, các nước phát triển phương Tây bắt đầu tràn sang phương Đông và các hoạt động mậu dịch ngày càng sôi nổi, lần lượt lôi cuốn các nước phương Đông vào thị trường khu vực và thị trường thế giới đang hình thành. Thuyền buôn các nước Bồ Đào Nha rồi Hà Lan, Anh, Pháp tiến đến Hội An và các thương cảng khác của Việt Nam.
Chính sách ngoại thương của Trung Quốc và Nhật Bản cũng có những hình ảnh hưởng trực tiếp đến Hội An. Nhà Minh giữ chủ trương bế quan tỏa cảng cho đến năm 1567 mới mở cửa cho thuyền buôn vượt biển buôn bán với các nước Đông Nam Á, nhưng vẫn cấm xuất khẩu một số nguyên liệu quan trọng sang Nhật Bản. Tình hình đó lại buộc mạc phủ Toyotomi rồi Takugawa, có thể từ năm 1636, tạo ra một giai đoạn buôn bán phát đạt giữa Nhật Bản với Việt Nam mà chủ yếu với Hội An. Rồi ở Trung Quốc, nhà Minh sụp đổ, nhà Thanh thay thế (1664) lại dẫn đến những làn sóng di cư ồ ạt của người Hoa xuống Đông Nam Á. Trong thời gian chiến tranh giữa nhà Thanh với họ Trịnh ở Đài Loan (1661 - 1683), chính sách cấm vận của nhà Thanh cũng một thời thúc đẩy quan hệ ngoại thương giữa Đài Loan với Đông Nam Á.
Tất cả tình hình thế giới và khu vực trên đều tác động đến nền ngoại thương Việt Nam nói chung và đời sống của thương cảng Hội An nói riêng. Hội An với vị trí gần bên con đường hàng hải quốc tế sôi động đương thời, với những bến cảng tốt và với sự trù phú của xứ Quảng, đã nhanh chóng gia nhập vào các hoạt động mậu dịch quốc tế trong khu vực. Thiết nghĩ nghiên cứu lịch sử Hội An không thể không gắn chặt với bối cảnh chính trị - kinh tế của cả khu vực và trong chừng mực nào đó của cả thế giới.
Về tên gọi Hội An - Faifo, đây không phải là một vấn đề lớn, nhưng cũng còn nhiều cách giải thích khác nhau. Tên Faifo đã được Antonio De Faria biết đến năm 1576 khi tàu của ông ghé qua Touron (Đà Nẵng) và tên Faifo xuất hiện đầu tiên trong hồi ký của Christoforo Borri đã từng sống ở Hội An và Đàng Trong từ 1618 đến 1621. Cách giải thích Faifo từ câu hỏi “Phải phố không?” chỉ là một thứ suy diễn theo lối ngữ nghĩa dân gian đơn giản, không có cơ sở. Ô châu cận lục với lời tựa của Dương Văn An viết năm 1553 chưa có tên Hội An, nhưng có tên làng Hoài Phô và Cẩm Phô. Bản đồ của Alexandre de Rhodes năm 1651 có ghi tên Haifo hay Kaifo vì chữ K và H không rõ lắm. Tên Hội An được dùng nhiều trong sử liệu Việt Nam từ giữa thế kỷ XVII trở đi. Vậy Faifo hiểu là phiên âm của tên Việt như Hoài Phô, Hải Phố, Hội An, có lẽ là hướng nghiên cứu hợp lý nhất.
6. Hội An thuộc loại hình đô thị - thương cảng hay có thể gọi tắt là cảng - thị, vừa nằm trên bờ một dòng sông lớn, vừa gần cửa biển. Trong quan niệm truyền thống, Hội An vừa là tên xã, vừa là tên phố. Phố Hội An vào đầu thế kỷ XIX bao gồm 6 xã, trong đó có xã Hội An, xã Minh Hương. Trung tâm của đô thị Hội An là vùng bến cảng và phố chợ buôn bán trên bờ bắc sông Thu Bồn, gần như vùng nội thị gồm ba phường Minh An, Sơn Phong, Cẩm Phô của thị xã Hội An ngày nay. Nhưng quy mô, cấu trúc và những thay đổi của Hội An trong lịch sử đã diễn ra như thế nào thì lại còn tồn tại nhiều vấn đề cần bàn luận.
Rõ ràng Hội An trong quan niệm đô thị học không thể chỉ bó gọn trong một trung tâm của phố chợ và bến cảng, mà còn bao gồm cả vùng ngoại vi nằm trong phạm vi quan hệ và hoạt động trực tiếp của đô thị thương cảng đó. Đầm Trà Nhiêu không còn nghi ngờ gì là “nơi tàu bè đỗ” theo nhận xét của Thích Đại Sán năm 1695 hay là “chỗ thuyền buôn của các nước dừng đậu” theo ghi chép của tác giả Đại Nam nhất thống chí triều Nguyễn, là một bộ phận gắn chặt với phố Hội An ở bờ nam sông Thu Bồn. Đầm Trung Phường, Trà Quế cũng có thể là những nơi neo đậu hay tạm trú của tàu thuyền, nhưng chưa tìm thấy cứ liệu trực tiếp. Rồi các làng thủ công ven đô, nổi tiếng nhất là nghề mộc Kim Bồng, nghề gốm Thanh Hà, nghề yến Thanh Châu, cũng phải được coi là những bộ phận ngoại vi của đô thị.
Rộng ra nữa, trong quan hệ xa hơn, phải tính đến Đà Nẵng - Tourn mà có người coi như một “tiền cảng” của Hội An và Dinh Chiêm - trấn dinh Quảng Nam, cũng nằm trên sông Thu Bồn không xa, gần đó lại có chợ Củi đón nguồn hàng từ thượng lưu trở về.
Trong những mối quan hệ như vậy, chúng ta nên xác định giới hạn và vùng phạm vi hoạt động của cảng thị Hội An như thế nào cho hợp lý? Vấn đề này ít nhiều có liên quan đến việc lý giải bức tranh “Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ” của dòng họ Chaya đã từng buôn bán với Hội An đầu thế kỷ XVII và bức tranh “Trên sông Hội An” của J. Borrow vẽ năm 1792 - 1793.
Trong buổi hình thành và phát đạt vào cuối thế kỷ XVI và đầu XVII, Hội An đã là nơi hội tụ cư dân của nhiều nơi trong nước và cũng là nơi tụ hội của nhiều thuyền buôn và kiều dân nước ngoài, trong đó có Nhật Bản và Trung Quốc. Hồi ký của Christoforo Borri và một số tư liệu sau đó, xác nhận Hội An đầu thế kỷ XVII của một khu phố Nhật và một khu phố Khách, mỗi khu có “tổng trấn” (Gouverneur) riêng và sống theo “luật lệ riêng”. Sự khác nhau của hai khu này làm cho C. Borri có cảm tưởng như “hai thành phố”. Tư liệu Nhật Bản gọi khu phố Nhật là “Nhật Bản đính”, văn bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” khắc năm 1640 có nói đến “Nhật Bản đính”. Đấy là một nét đặc sắc của Hội An, nhất là khi chúng ta biết rằng trong thời trung đại, Việt Nam không có những thành thị tự do hay tự trị như phương Tây hay Nhật Bản.
Một vấn đề lý thú đặt ra ở đây là xác định vị trí của khu phố Nhật và khu phố Khách đó. Có người cho khu phố Nhật ở khu vực nội thị hiện nay và cầu Nhật Bản hay Lai Viễn Kiều phải nằm trong khu vực này. Có người quan niệm khu phố Nhật ở vùng Hoa Phô hay Ba Phô, nay thuộc Cẩm Châu. Việc xác định vị trí hai khu phố này liên quan đến một di tích gọi là Tùng Bản tự. Đó là ngôi chùa do một người Nhật tên là Shichirobei xây dựng vào năm 1670 và theo sơ đồ ông gửi về Nhật năm 1673 thì ngôi chùa ở phía bắc sông và phía đông là Nhật Bản đính, phía tây là Đường nhân đính. Có người ngờ Tùng Bản tự (Tùng Bản là hệu của Shichirobei) là chùa Âm Bổn, nhưng kết quả thám sát khảo cổ học năm 1989 không xác nhận ý kiến này.
Dù cho vị trí khu phố Nhật chưa xác định được, nhưng không ai phủ nhận vào đầu thế kỷ XVII, người Nhật giữ vai trò rất quan trọng trên đất Hội An hôm nay như cầu Nhật Bản, mộ người Nhật, bia ghi tên đóng góp của người Nhật…
Từ năm 1636 chính phủ Nhật Bản ban hành lệnh cấm xuất ngoại làm cho quan hệ buôn bán giữa người Nhật Bản với Hội An sa sút dần và số người Nhật cũng giảm dần. Cùng lúc đó thì số người Hoa vốn có mặt ở Hội An từ trước lại không ngừng tăng lên. Từ giữa thế kỷ XVII, người Hoa thay thế người Nhật, chiếm ưu thế ở Hội An và chi phối các hoạt động thương mại và xuất nhập khẩu của thương cảng này. Các thế hệ người Hoa được xếp vào loại Tiền hiền là thủy tổ các họ được gọi là Thập Lão, Lục tính và Tam đại gia. Họ tậu đất lập ra xã Minh Hương (có thể vào khoảng 1645 – 1653, theo Chen Ching Ho) mở phố xá, dựng chùa miếu và các hội quán. Trong chiều sâu lịch sử và trên bình diện kiến trúc còn lại đến nay, chúng ta có thể thấy rõ ảnh hưởng văn hóa sâu sắc của người Hoa tại Hội An. Nhưng cũng chính những người Hoa Minh Hương đem đến những ảnh hưởng văn hóa đó lại dần dần Việt hóa một cách tự nhiên và gia nhập hoàn toàn vào cộng đồng cư dân Hội An nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
Ngoài người Nhật, người Hoa, Hội An còn đón tiếp nhiều tàu thuyền và cư dân các nước khác đến buôn bán và cư trú tạm thời. Người Hà Lan đã từng mở thương điếm ở đây trong khoảng 1636 - 1741 và đến nay công ty Đông Ấn của Hà Lan còn để lại một khối lượng tư liệu khoảng hơn 7000 trang liên quan đến Việt Nam, trong đó có một số viết về Hội An.
Trong hội thảo của chúng ta, một số báo cáo khoa học sẽ đi sâu vào nghiên cứu các mối quan hệ buôn bán giữa Hội An với Đàng Trong, với trong nước nói chung và với các nước ngoài. Kết quả nghiên cứu cho thấy vào thế kỷ XVII, Hội An là một cảng thị vào loại phát đạt nhất của cả vùng Đông Nam Á.
7. Hội An không những là một thương cảng, một cửa ngõ mậu dịch đối ngoại, mà còn là một trung tâm giao tiếp văn hóa. Dĩ nhiên hai mặt kinh tế và văn hóa đó quan hệ mật thiết với nhau và tạo nên sắc thái riêng của vùng Hội An.
Qua các tầng văn hóa Sa Huỳnh - Chàm - Việt vừa tiếp nối vừa giao thoa trong lịch sử mà cuối cùng xu thế Việt càng ngày càng chi phối và nền tảng Việt càng ngày càng bền vững. Trên cơ sở đó, khi trở thành cảng thị Hội An – Faifo, vùng đất này mở rộng cửa đón nhận những thành tố văn hóa ngoại nhập của Nhật, Hoa và một số nước Đông Nam Á, một số nước phương Tây, trong đó ảnh hưởng văn hóa Hoa lâu dài và sâu sắc nhất.
Hội An cũng là một cửa ngõ du nhập đạo Thiên Chúa và là nơi đã góp phần hình thành ra chữ Quốc ngữ vào nữa đầu thế kỷ XVII.
Từ thế kỷ XVIII - XIX, thương cảng Hội An do nhiều nguyên nhân bên trong và bên ngoài, do cả những biến đổi của địa hình sông nước, đã sa suốt dần để rồi từ cuối thế kỷ XIX nhường vai trò cho Đà Nẵng. Tuy nhiên, Hội An cho đến hôm nay vẫn duy trì được cuộc sống của mình, vẫn gìn giữ được sắc thái văn hóa của mình. Quá trình giao thoa, giao tiếp và hội nhập văn hóa qua dặm đường dài của lịch sử đã tạo nên cho Hội An một sắc thái văn hóa đa dạng, phong phú. Bất cứ ai là người Việt Nam hay đã từng nghiên cứu văn hóa Việt Nam, qua Hội An cũng dễ nhận thấy đây là một vùng đô thị cổ vừa mang những nét chung của Việt Nam, của xứ Quảng, vừa có những nét riêng của mình. Điều đó thể hiện rõ qua phát âm, qua kiến trúc, trang trí, qua một số phong tục tập quán và một số món ăn địa phương (ví dụ món Cao Lầu)… Lịch sử vang bóng một thời của Hội An đã vĩnh viễn đi vào quá khứ, nhưng di sản văn hóa của Hội An đã bảo lưu cho đến hôm nay là một tài sản quý của hiện tại và tương lai.
Một nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng đặt ra cho cuộc hội thảo của chúng ta là phân tích và đánh giá đúng đắn những đặc điểm và giá trị của di sản văn hóa của đô thị cổ Hội An. Trên cơ sở đó, đề ra một quy hoạch bảo tồn, một đề án tu bổ và phát huy tác dụng của khu di tích, Một số báo cáo của các chuyên gia kiến trúc, mỹ thuật và bảo tồn học sẽ đề cập đến những vần đề này.
Xét về niên đại của những kiến trúc hiện còn thì nói chung khó vượt qua thế kỷ XIX, nhưng trong đó vẫn có những bộ phận, những yếu tố và có thể cả những khiểu dáng cổ được giữ lại. Và bên cạnh đó, tuy không nhiều nhưng vẫn còn những di tích cổ được bảo tồn như một số mộ cổ, bia đá, một số di vật khảo cổ học… Một câu hỏi được đặt ra là chúng ta chỉ nên bảo tồn như hiện trạng hay trong một số trường hợp nào đó, có thể phục hồi lại bộ mặt xưa của nó nếu tư liệu và điều liện kỹ thuật cho phép.
Hội An là một di tích đô thị cổ mà trong phần lớn các công trình kiến trúc, con người đang sống và hoạt động. Đây là một loại bảo tàng sống, một phức hợp di tích gồm nhiều loại hình khác nhau. Giữa cái cũ và cái mới, giữa di tích và cuộc sống, giữa các loại hình di tích khác nhau, làm sao giải quyết được các mối quan hệ phức tạp đó, vừa bảo tồn vừa phát huy được di tích, vừa đáp ứng được cuộc sống của nhân dân và yêu cầu đô thị hóa hiện đại trong tương lai…
Khu di tích đang xuống cấp nghiêm trọng và có những di tích có nguy cơ sụp đổ. Không chỉ thời gian và thiên nhiên mà ngay những mâu thuẫn trên nếu không được giải quyết thỏa đáng, cũng là tác nhân đe dọa di tích. Biết bao nhiêu câu hỏi được đặt ra mà chỉ có chuyên sâu kết hợp với kinh nghiệm nhiều nước và trí tuệ liên ngành mới có thể giải đáp được.
Tất cả các báo cáo khoa học lần lượt được trình bày trong phiên họp toàn thể và trong các tiểu ban, chắc chắn sẽ nêu ra nhiều vấn đề cụ thể và sâu sắc, dẫn chúng ta và những tranh luận hứng thú. Tôi hy vọng sự hội tụ chuyên gia của nhiều ngành và nhiều nước trong cuộc Hội thảo quốc tế này sẽ góp phần làm sáng tỏ những kết quả nghiên cứu về Hội An và cho phép đưa ra những phương hướng bảo tồn tối ưu.
Sau khi chiến thắng giặc Minh, Lê Thái Tổ vẫn đóng đô ở Thăng Long nhưng đổi tên là Đông Kinh. Về cơ bản Đông Kinh thời Lê không khác nhiều Thăng Long đời Lý Trần Hồ, Lê Thái Tổ sửa chữa lại hoàng thành do cuộc chiến tranh chống quân Minh để lại.
Từ năm 1490 cho đến thế kỷ 16 kinh thành mới có nhiều thay đổi. Trong thời gian này tường hoàng thành cũng như Đại La thành luôn được xây đắp mở rộng thêm ra. Năm 1490, để đề phòng những nạn loạn đảng như Lê Nghi Dân đang đêm trèo tường vào giết Lê Nhân Tông ở trong cung, Lê Thánh Tông cho xây lại Hoàng Thành mở rộng thêm 8 dặm nữa. Công việc xây dựng trong 8 tháng mới xong. Trong Hoàng Thành Lê Thánh Tông cũng cho xây thêm cung điện và lập vườn Thượng lâm để nuôi bách thú. Năm 1512, Lê Tương Dực giao Vũ Như Tô đứng ra trông nom việc dựng hơn 100 nóc cung điện nguy nga, lại khởi công làm Cửu Trùng Đài mà như sử cũ miêu tả là tuy chưa hoàn thành mà bóng rợp nửa hồ Tây. Năm 1514, Lê Tương Dực mở rộng Hoàng Thành thêm mấy nghìn trượng (mỗi trượng là 3m60)bao bọc cả điện Tường Quang, Quán Trấn Vũ và chùa Kim Cổ Thiên Hoa.
Từ năm 1516 đến năm 1527 là năm nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, kinh thành Đông Kinh chìm trong loạn lạc. Hầu hết các cung điện kho tàng đền chùa cũng như phường phố bị thiêu đốt tàn phá nhiều lần. Trong nửa cuối thế kỷ 16, cục diện Nam Bắc triều với một bên là nhà Mạc và một bên là Lê-Trịnh diễn ra quyết liệt với ưu thế ngày càng thuộc về phe Nam triều. Họ Trịnh lần lượt chiếm được nhiều tỉnh phía bắc như Ninh Bình, Hà Nam, Bắc Ninh... và đánh đến tận Thăng Long. Nhà Mạc phải rời bỏ kinh thành chạy lánh nạn nơi này nơi khác. Đông Kinh ngày một điêu tàn.
Đến năm 1585, không chịu nổi kiếp sống lưu vong trường kỳ như vậy, Mạc Mậu Hợp quyết định trở lại Đông Kinh. Một đợt xây dựng đại quy mô được khởi động.
Năm 1599, Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc lên Cao Bằng tiến về tiếp quản Thăng Long. Hoàng Thành được tu sửa trong một tháng để đón vua Lê ra. Rồi từ ấy trở đi những cung điện mới xây ở đều nằm trong phủ Chúa Trịnh.
Sau khi chiến thắng giặc Minh, Lê Thái Tổ vẫn đóng đô ở Thăng Long nhưng đổi tên là Đông Kinh. Về cơ bản Đông Kinh thời Lê không khác nhiều Thăng Long đời Lý Trần Hồ, Lê Thái Tổ sửa chữa lại hoàng thành do cuộc chiến tranh chống quân Minh để lại.
Từ năm 1490 cho đến thế kỷ 16 kinh thành mới có nhiều thay đổi. Trong thời gian này tường hoàng thành cũng như Đại La thành luôn được xây đắp mở rộng thêm ra. Năm 1490, để đề phòng những nạn loạn đảng như Lê Nghi Dân đang đêm trèo tường vào giết Lê Nhân Tông ở trong cung, Lê Thánh Tông cho xây lại Hoàng Thành mở rộng thêm 8 dặm nữa. Công việc xây dựng trong 8 tháng mới xong. Trong Hoàng Thành Lê Thánh Tông cũng cho xây thêm cung điện và lập vườn Thượng lâm để nuôi bách thú. Năm 1512, Lê Tương Dực giao Vũ Như Tô đứng ra trông nom việc dựng hơn 100 nóc cung điện nguy nga, lại khởi công làm Cửu Trùng Đài mà như sử cũ miêu tả là tuy chưa hoàn thành mà bóng rợp nửa hồ Tây. Năm 1514, Lê Tương Dực mở rộng Hoàng Thành thêm mấy nghìn trượng (mỗi trượng là 3m60)bao bọc cả điện Tường Quang, Quán Trấn Vũ và chùa Kim Cổ Thiên Hoa.
Từ năm 1516 đến năm 1527 là năm nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, kinh thành Đông Kinh chìm trong loạn lạc. Hầu hết các cung điện kho tàng đền chùa cũng như phường phố bị thiêu đốt tàn phá nhiều lần. Trong nửa cuối thế kỷ 16, cục diện Nam Bắc triều với một bên là nhà Mạc và một bên là Lê-Trịnh diễn ra quyết liệt với ưu thế ngày càng thuộc về phe Nam triều. Họ Trịnh lần lượt chiếm được nhiều tỉnh phía bắc như Ninh Bình, Hà Nam, Bắc Ninh... và đánh đến tận Thăng Long. Nhà Mạc phải rời bỏ kinh thành chạy lánh nạn nơi này nơi khác. Đông Kinh ngày một điêu tàn.
Đến năm 1585, không chịu nổi kiếp sống lưu vong trường kỳ như vậy, Mạc Mậu Hợp quyết định trở lại Đông Kinh. Một đợt xây dựng đại quy mô được khởi động.
Năm 1599, Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc lên Cao Bằng tiến về tiếp quản Thăng Long. Hoàng Thành được tu sửa trong một tháng để đón vua Lê ra. Rồi từ ấy trở đi những cung điện mới xây ở đều nằm trong phủ Chúa Trịnh.
Kinh đô Thăng Long trở thành đô thị lớn (36 phố phường) ,trung tâm buôn bán và làm nghề thủ công.