K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

28 tháng 5 2020

thank you

28 tháng 5 2020

bạn học ở trường nào vậy

13 tháng 11 2018

Lời giải:

Trước thế giặc mạnh, để bảo toàn lực lượng, nhà Trần đã tạm thời rút khỏi Thăng Long xuôi về vùng Thiên Mạc (Hà Nam)

Đáp án cần chọn là: B

20 tháng 5 2016

Vì sau khi diệt được Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm kiêu căng và có mưu đồ riêng.

28 tháng 5 2016

Vì Vũ Văn Nhậm có mưu đồ riêng sau khi tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.hihi

11 tháng 4 2022

THAM KHẢO:

Trước thế mạnh của giặc, quân ta rút khỏi Thăng Long để bảo toàn lực lượng.
 
Không đồng ý vì mục đích quân ta rúc khỏi Thăng Long không phải là nhận phần thua về mình hay hèn nhát mà vì để bảo toàn lực lượng, làm kiêu lòng địch và chờ thời cơ tiến công. Từ đây, ta mới thấy rằng đây mới chính là 1 kế sách rất sáng suốt và chu đáo,  rút là để bảo toàn lực lượng, để chời thời cơ tấn công quân địch.

11 tháng 4 2022

refer

Trước thế mạnh của giặc, quân ta rút khỏi Thăng Long để bảo toàn lực lượng.
 
Không đồng ý vì mục đích quân ta rúc khỏi Thăng Long không phải là nhận phần thua về mình hay hèn nhát mà vì để bảo toàn lực lượng, làm kiêu lòng địch và chờ thời cơ tiến công. Từ đây, ta mới thấy rằng đây mới chính là 1 kế sách rất sáng suốt và chu đáo,  rút là để bảo toàn lực lượng, để chời thời cơ tấn công quân địch.

mn cho e hỏi cô em hỏi ntn là sao ạ:)???(đề cương trắc nghiệm)I/ Nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ? Quốc vương? Nguyễn Ánh? Trương Phúc Loan? Lê Chiêu Thống? Nguyễn Hữu Chỉnh+Vũ Văn Nhậm? Lê Ngọc Hân? Nguyễn Thiếp?  Ngô Thì Nhậm+Ngô Văn Sở?  Sầm Nghi Đống?  Tôn Sĩ Nghị?  Nguyễn Công Trứ?  II/ Địa danh lịch sử Tây Sơn thượng đạo? Tây Sơn hạ đạo? Qui Nhơn? Gia Định? Tam Điệp - Biện Sơn? Ngọc Hồi –...
Đọc tiếp

mn cho e hỏi cô em hỏi ntn là sao ạ:)???(đề cương trắc nghiệm)

I/ Nhân vật lịch sử 

Nguyễn Huệ? Quốc vương? 

Nguyễn Ánh? 

Trương Phúc Loan? 

Lê Chiêu Thống? 

Nguyễn Hữu Chỉnh+Vũ Văn Nhậm? 

Lê Ngọc Hân? 

Nguyễn Thiếp? 

 Ngô Thì Nhậm+Ngô Văn Sở? 

 Sầm Nghi Đống? 

 Tôn Sĩ Nghị? 

 Nguyễn Công Trứ? 

 

II/ Địa danh lịch sử 

Tây Sơn thượng đạo? 

Tây Sơn hạ đạo? 

Qui Nhơn? 

Gia Định? 

Tam Điệp - Biện Sơn? 

Ngọc Hồi – Đống Đa? 

Rạch Gầm - Xoài Mút? 

Phú Xuân? 

Nghệ An? 

 Thăng Long? 

 

III/ Thời gian lịch sử 

1771? 

1775? 

1777? 

Cuối 1784? 

19/1/1785? 

6/1786? 

21/7/1786? 

Cuối 1788? 

Đêm 30 Tết Kỉ Dậu 1789? 

Đêm mùng 3 Tết Kỉ Dậu 1789? 

 Mờ sáng mùng 5 Tết Kỉ Dậu 1789? 

 Trưa mùng 5 Tết Kỉ Dậu 1789? 

16/9/1792? 

1802? 

 1815? 

1831-1832? 

 

IV/  Phong trào Tây Sơn 

Giáo sĩ phương Tây mô tả về nghĩa quân Tây Sơn? 

Trận thuỷ chiến tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm? 

Trận đánh lừng lẫy tiêu diệt quân Thanh? 

Nhiệm vụ mới đặt ra với quân TS sau khi đã làm chủ Đàng Trong? 

 

VI/ Quang Trung xây dựng đất nước. 

Khôi phục kinh tế? 

Viện Sùng chính? 

Chiếu lập học? 

Chủ trương giáo dục? 

Chữ Nôm? 

Tình hình an ninh quốc phòng? 

Chính sách ngoại giao? 

Xây dựng quân đội? 

Câu thơ ghi nhớ công ơn Quang Trung? 

Nguyên nhân sụp đổ vương triều Tây Sơn sau khi Quang Trung mất? 

 

VII/ Chế độ PK nhà Nguyễn. 

Chế độ nhà nước? 

Luật pháp? 

Đơn vị hành chính? 

Chính sách ngoại giao với nhà Thanh và phương Tây? 

Doanh điền sứ? 

Chế độ quân điền? 

1
11 tháng 4 2022

Nối lại với nhau á

21 tháng 9 2017

Lời giải:

Trước thế giặc mạnh, trong khi lực lượng Tây Sơn ở Bắc Hà quá mỏng, Nguyễn Huệ lại đang ở Phú Xuân => Ngô Thì Nhậm và Ngô Văn Sở quyết định rút khỏi Thăng Long về vùng Tam Điệp - Biện Sơn và cử người cấp báo cho Quang Trung

Đáp án cần chọn là: A

18 tháng 3 2021

lll

 

30 tháng 3 2017

Vì ở đây thủy bộ liên kết vững chắc.

30 tháng 3 2017

c.ơn bn nha!

18 tháng 10 2016

1.

Dựa vào những nguồn tin tình báo tin cậy thu được từ phía địch, bằng sự phân tích, đánh giá khoa học, Lý Thường Kiệt xác định quân Tống sẽ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta bằng cả lực lượng bộ binh – kỵ binh và thủy binh. Trong đó, bộ binh – kỵ binh hành binh theo hướng chủ yếu, là lực lượng quyết định trong những đợt tiến công xâm lược. Thủy binh chỉ là lực lượng phối hợp nhằm hiệp đồng với bộ binh-kỵ binh trong những cuộc vượt sông để tiến sâu vào Đại Việt. Con đường chính để bộ binh – kỵ binh địch tiến vào nước ta một cách thuận lợi nhất là qua Bằng Tường vào Lạng Sơn rồi theo lưu vực sông Thương và vượt qua sông Cầu vào Thăng Long. Hai con đường khác, không thuận lợi bằng, địch có thể sử dụng là từ trại Thái Bình (Ung Châu) vào Lạng Châu (Lạng Sơn, Bắc Giang) rồi cũng phải qua sông Cầu vào Thăng Long; một đường khác là từ trại Ôn Nhuận (thuộc đạo Hữu Giang) vào vùng Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, rồi xuống Thăng Long. Xét về thời gian, thì hành binh trên hai con đường này, địch phải mất nhiều thời gian hơn vì địa thế khó khăn, núi non hiểm trở, không thuận lợi bằng con đường chính. Còn đường thủy để thủy binh địch tiến vào nước ta là từ Khâm Châu, thuyền đi theo hướng tây- nam đến Châu Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh), sau đó  theo sông Đông Kinh vào cửa Bạch Đằng lên Vạn Xuân rồi đến Thăng Long.

Về chọn địa hình lập phòng tuyến. Căn cứ vào tình hình địch, Lý Thường Kiệt không lập phòng tuyến ở sát biên giới mà là ở bờ nam sông Cầu, nơi  từ ngã ba sông Cà Lồ và sông Cầu về xuôi, tức sông Như Nguyệt. Đây là nơi có địa hình tự nhiên lý tưởng cho việc xây dựng phòng tuyến để thực hiện mục tiêu chiến lược đã đề ra. Nó được xây dựng chạy dài từ chân núi Tam Đảo (khoảng Đa Phúc), chủ yếu là từ ngã ba sông Cà Lồ – sông Cầu đến Vạn Xuân (Phả Lại). Trên đoạn sông này có nhiều chỗ địa thế hiểm trở, đó là những chỗ núi ăn sát bờ sông như núi Nhan Biền hoặc nơi có rừng cây um tùm, qua lại rất khó khăn. ở những chỗ đó, quân và dân Đại Việt không nhất thiết phải đắp lũy, dựng bãi chướng ngại mà có thể tận dụng địa hình để bảo vệ phòng tuyến và ngăn chặn quân địch vượt sông. Phòng tuyến được tập trung xây dựng ở những bến đò, đường giao thông, nơi quân địch có khả năng vượt sông, quan trọng nhất là các địa điểm Như Nguyệt, Thị Cầu, Vạn Xuân – nơi có những bến đò và con đường thuận lợi nhất để quân Tống vượt qua sông Như Nguyệt tiến về Thăng Long. Những nơi này, Lý Thường Kiệt cho đắp chiến lũy dọc bờ sông. Phía ngoài lũy, giáp mặt sông, ông sai đóng cọc tre làm giậu dày mấy tầng. Dưới bãi sông bố trí những hầm chông ngầm. Sông rộng, lũy cao, giậu tre dày, ... tất cả những kiến trúc tự nhiên và nhân tạo đó được tổ chức lại, kết hợp với nhau tạo thành một phòng tuyến kiên cố.

2.

Diễn biến:- Năm 981, quân Tống theo hai đường thủy bộ tiến vào xâm lược nước ta- Dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn, quân ta chặn đánh địch ở sông Bạch Đằng và ải Chi Lăng. -Tại cửa sông Bạch Đằng, Lê Hoàn chỉ huy cho đóng cọc để ngăn chặn thuyền địch. Nhiều trận chiến đấu ác liệt diễn ra, cuối cùng quân thủy của địch cũng bị chết gần hết.- Trên bộ, quân ta cũng chặn đánh ác liệt ở Chi Lăng buộc chúng phải rút quân thừa thắng quân ta truy kích diệt địch, quân giặc chết đến quá nửa. Tướng giặc bị giết. Cuộc kháng chiến thắng lợi. Kết quả:- Quân giặc chết quá nửa, tướng giặc bị giết. Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi. Ý nghĩa:- Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược thắng lợi đã giữ vững được nền độc lập của nước nhà và đem lại cho nhân dân ta niềm tự hào, lòng tin ở sức mạnh và tiền đồ của dân tộc.3.

Gạch nền: được phục nguyên từ một mảnh gạch nhỏ. Hoa văn hoa sen trên gạch cho thấy truyền thống trang trí hoa sen trong mỹ thuật Việt Nam có nguồn gốc rất lâu đời mà ngay từ thời Đinh - Thời đại độc lập đầu tiên của Việt Nam đă từng sử dụng.

Tượng chim: có hình dạng một con vịt ngồi xếp cánh, đầu quay về phía sau. Tượng bị găy đầu và được phục nguyên lại. Đây là loại tượng chim được trang trí trên các công trình kiến trúc thời đầu độc lập. Từ thế kỷ XI, tưng chim được chế tác đứng trên ngói bò làm vật trang trí trên nóc cung điện với trình độ mỹ thuật cao hơn, đẹp hơn (Xem hình số 26), sau TK XV, ít thấy loại tượng này.

 

 

 

Tiền “Thái Bình Hưng Bảo”: hình tròn lỗ vuông, có gờ viền mép và viền lỗ ở cả 2 mặt. Mặt tiền 4 chữ Hán     “ Thái Bình Hưng Bảo” đọc trên xuống, bên phải qua. Lưng tiền 1 chữ Hán  “ Đinh” nằm ở cạnh dưới lỗ vuông. Chữ “Đinh” chính là quốc tính, họ của vua nước Đại Cồ Việt: Đinh Bộ Lĩnh. Tiền “Thái Bình Hưng Bảo” chính là biểu hiện của ý chí độc lập được đúc kết lại sau hơn 1.000 năm lệ thuộc vào phong kiến Trung Quốc.

Tiền “Thiên Phúc trấn bảo”: hình tròn lỗ vuông, có gờ viền mép và viền lỗ ở cả 2 mặt. Mặt tiền 4 chữ Hán    “Thiên Phúc Trấn Bảo” đọc trên xuống, bên phải qua. Lưng tiền 1 chữ Hán  “ Lê” đối lưng với chữ  Thiên. Chữ “Lê” chính là quốc tính, họ của vua nước Đại Cồ Việt: Lê Hoàn.

Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, Lý Công Uẩn được triều thần suy tôn làm vua, lập ra nhà Lý. Tiếp nối sự nghiệp độc lập, năm 1010, nhà Lý dời đô về La Thành (Hà Nội ngày nay) và đổi tên kinh đô là Thăng Long. Năm 1054 Lý Thánh Tông khẳng định tên nước là Đại Việt.

 Dưới thời Lý, song song với việc xây dựng hoàng thành Thăng Long, công cuộc tổ chức và kiến tạo đất nước được đẩy mạnh: nhà Lý chia nước làm nhiều lộ và phủ (đơn vị như tỉnh ngày nay), ban hành bộ Hình thư (1042), hoàn chỉnh quan lại theo hệ thống cửu phẩm (1089) và các tăng quan, định quân hiệu hoàn thiện quân chính quy, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” (nhà nước có việc thì ra làm lính, bình thường ở nhà làm ruộng), đắp đê Cơ Xá hình thành hệ thống đê điều thành Thăng Long, có nhiều biện pháp khuyến khích nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp. Về ngoại thương năm 1149 lập thương cảng Vân Đồn (Quảng Ninh ngày nay) buôn bán với nước ngoài. Thuyền buôn các nước trong khu vực như Tiêm La (Thái Lan), Trảo Oa (Java - Indonesia), Lộ Lạc (Sarawak? - Malaysia) đều đã đến đây trao đổi hàng hóa... Về giáo dục, năm 1070 xây dựng Văn miếu thờ Khổng Tử, xác định ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo- Trung quốc. Năm 1075 nhà Lý mở khoa thi đầu tiên lấy người làm quan và từ đó về sau định kỳ tổ chức các kỳ thi chọn nhân tài. Năm 1076 mở Quốc tử giám - trường đào tạo con em của triều đình. Về văn hóa nghệ thuật: ca múa nhạc, lễ hội, sáng tác thơ văn, sáng tạo chữ Nôm, điêu khắc, kiến trúc… đồng loạt phát triển rực rỡ trong đó tiêu biểu nhất là cụm kiến trúc hoàng thành Thăng Long, chùa Một Cột (1049) và nghệ thuật múa rối nước... Về an ninh quốc phòng giữ vững biên giới phía Bắc và mở rộng lănh thổ về phía Nam. Năm 1171, Lý Anh Tông cho vẽ quyển địa đồ đầu tiên của Đại Việt [40, tr.104].

 
20 tháng 10 2016

thank bạn nha