K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Phía sau 52 lá bài này có một ý nghĩa thú vị mà ít người biết đến. Đặc biệt, 12 lá J, Q, K là hình ảnh đại diện cho 12 nhân vật nổi tiếng trong lịch sử thế giới.

Ngày nay, bài Tây được sử dụng trong mục đích giải trí hoặc tiên tri. Thế nhưng, nguồn gốc của chúng không phải chỉ là những mảnh giấy ghi số hay vẽ hình bất kỳ. Phía sau 52 lá bài này có một ý nghĩa thú vị mà ít người biết đến. Đặc biệt, 12 lá J, Q, K là hình ảnh đại diện cho 12 nhân vật nổi tiếng trong lịch sử thế giới.


Ý nghĩa của những lá bài số

Bài Tây được xem là hình ảnh đại diện cho cách tính lịch của con người. 52 lá bài tương ứng với 52 tuần trong một năm. 4 chất bài: cơ (hình trái tim), rô (hình thoi), chuồn hay tép (hình lá cánh chuồn) và bích (hình ngọn giáo) tượng trưng cho 4 mùa trong một năm.

📷

Số quân bài trong một chất (tính từ 2 đến át) có 13 lá, được lý giải là thể hiện cho 13 tuần trong một mùa. Vì mỗi ngày có ban ngày và ban đêm, nên màu sắc đỏ - đen của một bộ bài là để thể hiện điều này. Trong bộ bài, còn có thêm 2 lá Joker. Lá Joker màu đỏ đại diện cho mặt trời ban ngày, lá màu đen tượng trưng cho mặt trăng ban đêm.

📷

Có hai cách tính điểm trên mỗi lá bài. Cách thứ nhất, nếu tính mỗi lá Joker có 0.5 điểm thì tổng cả 54 lá bài sẽ vừa tròn 365 điểm tương ứng với 365 ngày mỗi năm. Cách thứ hai, nếu tính mỗi lá Joker có 1 điểm thì J, Q, K lần lượt là 11, 12 và 13 điểm. Khi cộng tất cả các lá bài lại, tổng điểm cũng vẫn là 365 điểm (đối với năm thường) và 366 điểm (đối với năm nhuận).

📷

Tuy nhiên, sự thú vị trong bộ bài Tây lại nằm ở 12 lá bài đầu người, bởi chúng được lấy cảm hứng từ cuộc đời của 12 nhân vật lịch sử và gắn liền với những sự kiện lớn.

Ý nghĩa lịch sử của 12 lá bài đầu người

Đối với quân K

K chuồn: Đại diện cho Alexander Đại đế (hay Kyng Alisaunder, 356 – 323 TCN). Ông là vị vua thứ 14 của nhà Argea, con trai vua Philip II và cai trị vương quốc Macedonia. Alexander Đại đế kế vị năm 20 tuổi, sau khi thống nhất các thành bang Hy Lạp cổ, ông đã thực hiện những cuộc chinh phạt đánh bại hầu hết những triều đại nổi tiếng lúc bấy giờ là Ba Tư, Lưỡng Hà, Bactria, Ai Cập, Gaza, Syria, Phoenicia,…

📷

K rô: Đại diện cho Gaius Julius Caesar (100 – 44 TCN), một nhà chính trị, quân sự người La Mã. Caesar là một trong số những người có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Năm 49 TCN, ông đã dẫn quân đánh chiếm Rome, Pompeii và thiết lập chế độ độc tài. Hình ảnh của Caesar trên đồng xu cổ của La Ma được khắc nghiêng, trong 4 quân K chỉ có K rô là mặt nghiêng.

📷

K cơ: Đại diện cho Charlemagne Charles Đại đế (742 – 814 AD), một hoàng đế La Mã. Trong 14 năm trị vì, Charlemagne đã thực hiện 50 cuộc chinh phạt và làm chủ hơn một nửa châu Âu. Hình ảnh không có ria mép của K cơ lấy từ điển tích kể rằng khi khắc hình vị hoàng đế này lên gỗ, người thợ đã làm chiếc đục sượt qua phần môi, khiến hình khắc bị xém mất bộ ria.

📷

K bích: Đại diện cho vua David (1040 – 970 TCN) là vị vua nổi tiếng của vương quốc Israel thống nhất. David rất giỏi diễn tấu đàn hạc nên hình vẽ của ông đều có hình ảnh cây đàn. Ngoài ra, cũng có giả thuyết cho rằng David thích diễn kịch nên ông ăn mặc trang phục diễn kịch.

📷

Đối với quân Q

Q chuồn: Đại diện cho hoàng hậu Argine. Q chuồn còn gợi nhắc đến câu chuyện về cuộc chiến Hoa hồng của quý tộc Anh. Trong đó nhà Lancaster lấy hoa hồng đỏ làm biểu tượng, còn nhà York lấy hoa hồng trắng. Cuối cùng hai gia tộc làm hòa sau cuộc chiến và kết hợp lại tạo ra vương triều Tudor với hình ảnh hoa hồng hợp nhất biểu tượng hai gia tộc.

📷

Q rô: Đại diện cho hoàng hậu Rachel. Theo Kinh thánh Genesis, Rachel là người vợ hai của Tổ phụ Jacob và là người được ông yêu quý nhất. Rachel sinh ra Joseph và Benyamin.

📷

Q cơ: Đại diện cho nữ hoàng Judith. Judith là nhân vật trong thánh kinh "Cựu Ước". Theo người Do Thái, Judith đã dùng sắc đẹp và mưu trí để ám sát tướng Holoferne, cứu người dân thành Bethulia.

📷

Q bích: Đại diện cho hoàng hậu Eleanor, vợ hoàng đế Leopold I. Đây là lá duy nhất trong 4 lá Q mà hoàng hậu cầm vũ khí.

📷

Đối với quân J

J chuồn: Đại diện cho hiệp sĩ Lancelot, một trong số các hiệp sĩ dũng cảm có nhiều chiến công của vua Arthur. Người đã phạm tội khi ngoại tình với vợ vua Arthur.

📷

J rô: Đại diện cho Hector, con trai vua Priamus, anh trai hoàng tử Paris. Hector đã hi sinh khi chiến đấu với Achilles trong cuộc chiến thành Troy.

📷

J cơ: Đại diện cho La Hire (1390-1443AD), tùy tùng của vua Charles VII le Victorieux, người đã trợ giúp cho thánh nữ Joanne d’Arc.

📷

J bích: Đại diện cho Ogier, tùy tùng của Charlemagne Charles Đại đế.

📷

0
Toán học là ngành nghiên cứu trừu tượng về những chủ đề như: lượng (các con số),[2] cấu trúc,[3] không gian, và sự thay đổi.[4][5][6]Các nhà toán học và triết học có nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa và phạm vi của toán học.[7][8]Các nhà toán học tìm kiếm các mô thức[9][10] và sử dụng chúng để tạo ra những giả thuyết mới. Họ lý giải tính đúng đắn hay sai lầm của các giả...
Đọc tiếp

Toán học là ngành nghiên cứu trừu tượng về những chủ đề như: lượng (các con số),[2] cấu trúc,[3] không gian, và sự thay đổi.[4][5][6]Các nhà toán học và triết học có nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa và phạm vi của toán học.[7][8]

Các nhà toán học tìm kiếm các mô thức[9][10] và sử dụng chúng để tạo ra những giả thuyết mới. Họ lý giải tính đúng đắn hay sai lầm của các giả thuyết bằng các chứng minh toán học. Khi những cấu trúc toán học là mô hình tốt cho hiện thực, lúc đó suy luận toán học có thể cung cấp sự hiểu biết sâu sắc hay những tiên đoán về tự nhiên. Thông qua việc sử dụng những phương pháp trừu tượng và lôgic, toán học đã phát triển từ việc đếm, tính toán, đo lường, và nghiên cứu có hệ thống những hình dạng và chuyển động của các đối tượng vật lý. Con người đã ứng dụng toán học trong đời sống từ xa xưa. Việc tìm lời giải cho những bài toán có thể mất hàng năm, hay thậm chí hàng thế kỷ.[11]

Những lập luận chặt chẽ xuất hiện trước tiên trong nền toán học Hy Lạp cổ đại, đáng chú ý nhất là trong tác phẩm Cơ sở của Euclid. Kể từ những công trình tiên phong của Giuseppe Peano (1858–1932), David Hilbert (1862–1943), và của những nhà toán học khác trong thế kỷ 19 về các hệ thống tiên đề, nghiên cứu toán học trở thành việc thiết lập chân lý thông qua suy luận lôgic chặt chẽ từ những tiên đề và định nghĩa thích hợp. Toán học phát triển tương đối chậm cho tới thời Phục hưng, khi sự tương tác giữa những phát minh toán học với những phát kiến khoa học mới đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng những phát minh toán học vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.[12]

Toán học được sử dụng trên khắp thế giới như một công cụ thiết yếu trong nhiều lĩnh vực, bao gồm khoa học, kỹ thuật, y học, và tài chính. Toán học ứng dụng, một nhánh toán học liên quan đến việc ứng dụng kiến thức toán học vào những lĩnh vực khác, thúc đẩy và sử dụng những phát minh toán học mới, từ đó đã dẫn đến việc phát triển nên những ngành toán hoàn toàn mới, chẳng hạn như thống kê và lý thuyết trò chơi. Các nhà toán học cũng dành thời gian cho toán học thuần túy, hay toán học vị toán học. Không có biên giới rõ ràng giữa toán học thuần túy và toán học ứng dụng, và những ứng dụng thực tiễn thường được khám phá từ những gì ban đầu được xem là toán học thuần túy.[13]

Mục lục

1Lịch sử

2Cảm hứng, thuần túy ứng dụng, và vẻ đẹp

3Ký hiệu, ngôn ngữ, tính chặt chẽ

4Các lĩnh vực toán học

4.1Nền tảng và triết học

4.2Toán học thuần túy

4.2.1Lượng

4.2.2Cấu trúc

4.2.3Không gian

4.2.4Sự thay đổi

4.3Toán học ứng dụng

4.3.1Thống kê và những lĩnh vực liên quan

4.3.2Toán học tính toán

5Giải thưởng toán học và những bài toán chưa giải được

6Mối quan hệ giữa toán học và khoa học

7Xem thêm

8Chú thích

9Tham khảo

10Liên kết ngoài

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

📷Nhà toán học Hy Lạp Pythagoras (khoảng 570–495 trước Tây lịch), được coi là đã phát minh ra định lý Pythagore.Bài chi tiết: Lịch sử toán học📷Nhà toán học Ba Tư Al-Khwarizmi (Khoảng 780-850 TCN), người phát minh ra Đại số.

Từ "mathematics" trong tiếng Anh bắt nguồn từ μάθημα (máthēma) trong tiếng Hy Lạp cổ, có nghĩa là "thứ học được",[14] "những gì người ta cần biết," và như vậy cũng có nghĩa là "học" và "khoa học"; còn trong tiếng Hy Lạp hiện đại thì nó chỉ có nghĩa là "bài học." Từ máthēma bắt nguồn từ μανθάνω (manthano), từ tương đương trong tiếng Hy Lạp hiện đại là μαθαίνω (mathaino), cả hai đều có nghĩa là "học." Trong tiếng Việt, "toán" có nghĩa là tính; "toán học" là môn học về toán số.[15] Trong các ngôn ngữ sử dụng từ vựng gốc Hán khác, môn học này lại được gọi là số học.

Sự tiến hóa của toán học có thể nhận thấy qua một loạt gia tăng không ngừng về những phép trừu tượng, hay qua sự mở rộng của nội dung ngành học. Phép trừu tượng đầu tiên, mà nhiều loài động vật có được,[16] có lẽ là về các con số, với nhận thức rằng, chẳng hạn, một nhóm hai quả táo và một nhóm hai quả cam có cái gì đó chung, ở đây là số lượng quả trong mỗi nhóm.

Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy, ngoài việc biết đếm những vật thể vật lý, con người thời tiền sử có thể cũng đã biết đếm những đại lượng trừu tượng như thời gian - ngày, mùa, và năm.[17]

Đến khoảng năm 3000 trước Tây lịch thì toán học phức tạp hơn mới xuất hiện, khi người Babylon và người Ai Cập bắt đầu sử dụng số học, đại số, và hình học trong việc tính thuế và những tính toán tài chính khác, trong xây dựng, và trong quan sát thiên văn.[18] Toán học được sử dụng sớm nhất trong thương mại, đo đạc đất đai, hội họa, dệt, và trong việc ghi nhớ thời gian.

Các phép tính số học căn bản trong toán học Babylon (cộng, trừ, nhân, và chia) xuất hiện đầu tiên trong các tài liệu khảo cổ. Giữa năm 600 đến 300 trước Tây lịch, người Hy Lạp cổ đã bắt đầu nghiên cứu một cách có hệ thống về toán học như một ngành học riêng, hình thành nên toán học Hy Lạp.[19] Kể từ đó toán học đã phát triển vượt bậc; sự tương tác giữa toán học và khoa học đã đem lại nhiều thành quả và lợi ích cho cả hai. Ngày nay, những phát minh toán học mới vẫn tiếp tục xuất hiện.

Cảm hứng, thuần túy ứng dụng, và vẻ đẹp[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Vẻ đẹp của toán học📷Isaac Newton (1643–1727), một trong những người phát minh ra vi tích phân.

Toán học nảy sinh ra từ nhiều kiểu bài toán khác nhau. Trước hết là những bài toán trong thương mại, đo đạc đất đai, kiến trúc, và sau này là thiên văn học; ngày nay, tất cả các ngành khoa học đều gợi ý những bài toán để các nhà toán học nghiên cứu, ngoài ra còn nhiều bài toán nảy sinh từ chính bản thân ngành toán. Chẳng hạn, nhà vật lý Richard Feynman đã phát minh ra tích phân lộ trình (path integral) cho cơ học lượng tử bằng cách kết hợp suy luận toán học với sự hiểu biết sâu sắc về mặt vật lý, và lý thuyết dây - một lý thuyết khoa học vẫn đang trong giai đoạn hình thành với cố gắng thống nhất tất cả các tương tác cơ bản trong tự nhiên - tiếp tục gợi hứng cho những lý thuyết toán học mới.[20] Một số lý thuyết toán học chỉ có ích trong lĩnh vực đã giúp tạo ra chúng, và được áp dụng để giải các bài toán khác trong lĩnh vực đó. Nhưng thường thì toán học sinh ra trong một lĩnh vực có thể hữu ích trong nhiều lĩnh vực, và đóng góp vào kho tàng các khái niệm toán học.

Các nhà toán học phân biệt ra hai ngành toán học thuần túy và toán học ứng dụng. Tuy vậy các chủ đề toán học thuần túy thường tìm thấy một số ứng dụng, chẳng hạn như lý thuyết số trong ngành mật mã học. Việc ngay cả toán học "thuần túy nhất" hóa ra cũng có ứng dụng thực tế chính là điều mà Eugene Wigner gọi là "sự hữu hiệu đến mức khó tin của toán học".[21] Giống như trong hầu hết các ngành học thuật, sự bùng nổ tri thức trong thời đại khoa học đã dẫn đến sự chuyên môn hóa: hiện nay có hàng trăm lĩnh vực toán học chuyên biệt và bảng phân loại các chủ đề toán học đã dài tới 46 trang.[22] Một vài lĩnh vực toán học ứng dụng đã nhập vào những lĩnh vực liên quan nằm ngoài toán học và trở thành những ngành riêng, trong đó có xác suất, vận trù học, và khoa học máy tính.

Những ai yêu thích ngành toán thường thấy toán học có một vẻ đẹp nhất định. Nhiều nhà toán học nói về "sự thanh lịch" của toán học, tính thẩm mỹ nội tại và vẻ đẹp bên trong của nó. Họ coi trọng sự giản đơn và tính tổng quát. Vẻ đẹp ẩn chứa cả bên trong những chứng minh toán học đơn giản và gọn nhẹ, chẳng hạn chứng minh của Euclid cho thấy có vô hạn số nguyên tố, và trong những phương pháp số giúp đẩy nhanh các phép tính toán, như phép biến đổi Fourier nhanh. Trong cuốn sách Lời bào chữa của một nhà toán học (A Mathematician's Apology) của mình, G. H. Hardy tin rằng chính những lý do về mặt thẩm mỹ này đủ để biện minh cho việc nghiên cứu toán học thuần túy. Ông nhận thấy những tiêu chuẩn sau đây đóng góp vào một vẻ đẹp toán học: tầm quan trọng, tính không lường trước được, tính không thể tránh được, và sự ngắn gọn.[23] Sự phổ biến của toán học vì mục đích giải trí là một dấu hiệu khác cho thấy nhiều người tìm thấy sự sảng khoái trong việc giải toán...

Ký hiệu, ngôn ngữ, tính chặt chẽ[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Danh sách ký hiệu toán học📷Leonhard Euler, người tạo ra và phổ biến hầu hết các ký hiệu toán học được dùng ngày nay.

Hầu hết các ký hiệu toán học đang dùng ngày nay chỉ mới được phát minh vào thế kỷ 16.[24] Trước đó, toán học được viết ra bằng chữ, quá trình nhọc nhằn này đã cản trở sự phát triển của toán học.[25] Euler (1707–1783) là người tạo ra nhiều trong số những ký hiệu đang được dùng ngày nay. Ký hiệu hiện đại làm cho toán học trở nên dễ hơn đối với chuyên gia toán học, nhưng người mới bắt đầu học toán thường thấy nản lòng. Các ký hiệu cực kỳ ngắn gọn: một vài biểu tượng chứa đựng rất nhiều thông tin. Giống ký hiệu âm nhạc, ký hiệu toán học hiện đại có cú pháp chặt chẽ và chứa đựng thông tin khó có thể viết theo một cách khác đi.

Ngôn ngữ toán học có thể khó hiểu đối với người mới bắt đầu. Những từ như hoặc và chỉ có nghĩa chính xác hơn so với trong lời nói hàng ngày. Ngoài ra, những từ như mở và trường đã được cho những nghĩa riêng trong toán học. Những thuật ngữ mang tính kỹ thuật như phép đồng phôi và khả tích có nghĩa chính xác trong toán học. Thêm vào đó là những cụm từ như nếu và chỉ nếu nằm trong thuật ngữ chuyên ngành toán học. Có lý do tại sao cần có ký hiệu đặc biệt và vốn từ vựng chuyên ngành: toán học cần sự chính xác hơn lời nói thường ngày. Các nhà toán học gọi sự chính xác này của ngôn ngữ và logic là "tính chặt chẽ."

Các lĩnh vực toán học[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Các lĩnh vực toán học

Nói chung toán học có thể được chia thành các ngành học về lượng, cấu trúc, không gian, và sự thay đổi (tức là số học, đại số, hình học, và giải tích). Ngoài những mối quan tâm chính này, toán học còn có những lĩnh vực khác khảo sát mối quan hệ giữa toán học và những ngành khác, như với logic và lý thuyết tập hợp, toán học thực nghiệm trong những ngành khoa học khác nhau (toán học ứng dụng), và gần đây hơn là sự nghiên cứu chặt chẽ về tính bất định.

Nền tảng và triết học[sửa | sửa mã nguồn]

📷Kurt Gödel là một trong những nhà logic toán học lớn, với các định lý bất toàn.

Để làm rõ nền tảng toán học, lĩnh vực logic toán học và lý thuyết tập hợp đã được phát triển. Logic toán học bao gồm nghiên cứu toán học về logic và ứng dụng của logic hình thức trong những lĩnh vực toán học khác. Lý thuyết tập hợp là một nhánh toán học nghiên cứu các tập hợp hay tập hợp những đối tượng. Lý thuyết phạm trù, liên quan đến việc xử lý các cấu trúc và mối quan hệ giữa chúng bằng phương pháp trừu tượng, vẫn đang tiếp tục phát triển. Cụm từ "khủng hoảng nền tảng" nói đến công cuộc tìm kiếm một nền tảng toán học chặt chẽ diễn ra từ khoảng năm 1900 đến 1930.[26] Một số bất đồng về nền tảng toán học vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Cuộc khủng hoảng nền tảng nổi lên từ một số tranh cãi thời đó, trong đó có những tranh cãi liên quan đến lý thuyết tập hợp của Cantor và cuộc tranh cãi giữa Brouwer và Hilbert.

Khoa học máy tính lý thuyết bao gồm lý thuyết khả tính (computability theory), lý thuyết độ phức tạp tính toán, và lý thuyết thông tin. Lý thuyết khả tính khảo sát những giới hạn của những mô hình lý thuyết khác nhau về máy tính, bao gồm mô hình máy Turing nổi tiếng. Lý thuyết độ phức tạp nghiên cứu khả năng có thể giải được bằng máy tính; một số bài toán, mặc dù về lý thuyết có thể giải được bằng máy tính, cần thời gian hay không gian tính toán quá lớn, làm cho việc tìm lời giải trong thực tế gần như không thể, ngay cả với sự tiến bộ nhanh chóng của phần cứng máy tính. Một ví dụ là bài toán nổi tiếng "P = NP?".[27] Cuối cùng, lý thuyết thông tin quan tâm đến khối lượng dữ liệu có thể lưu trữ được trong một môi trường lưu trữ nhất định, và do đó liên quan đến những khái niệm như nén dữ liệu và entropy thông tin.

{\displaystyle p\Rightarrow q\,}📷📷📷📷Logic toán họcLý thuyết tập hợpLý thuyết phạm trùLý thuyết tính toán

Toán học thuần túy[sửa | sửa mã nguồn]

Lượng[sửa | sửa mã nguồn]

Việc nghiên cứu về lượng (quantity) bắt đầu với các con số, trước hết với số tự nhiên và số nguyên và các phép biến đổi số học, nói đến trong lĩnh vực số học. Những tính chất sâu hơn về các số nguyên được nghiên cứu trong lý thuyết số, trong đó có định lý lớn Fermat nổi tiếng. Trong lý thuyết số, giả thiết số nguyên tố sinh đôi và giả thiết Goldbach là hai bài toán chưa giải được.

Khi hệ thống số được phát triển thêm, các số nguyên được xem như là tập con của các số hữu tỉ. Các số này lại được bao gồm trong số thực vốn được dùng để thể hiện những đại lượng liên tục. Số thực được tổng quát hóa thành số phức. Đây là những bước đầu tiên trong phân bố các số, sau đó thì có các quaternion (một sự mở rộng của số phức) và octonion. Việc xem xét các số tự nhiên cũng dẫn đến các số vô hạn (transfinite numbers), từ đó chính thức hóa khái niệm "vô hạn". Một lĩnh vực nghiên cứu khác là kích cỡ (size), từ đó sinh ra số đếm (cardinal numbers) và rồi một khái niệm khác về vô hạn: số aleph, cho phép thực hiện so sánh có ý nghĩa kích cỡ của các tập hợp lớn vô hạn.

{\displaystyle 1,2,3,\ldots \!}📷{\displaystyle \ldots ,-2,-1,0,1,2\,\ldots \!}📷{\displaystyle -2,{\frac {2}{3}},1.21\,\!}📷{\displaystyle -e,{\sqrt {2}},3,\pi \,\!}📷{\displaystyle 2,i,-2+3i,2e^{i{\frac {4\pi }{3}}}\,\!}📷Số tự nhiênSố nguyênSố hữu tỉSố thựcSố phức

Cấu trúc[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều đối tượng toán học, chẳng hạn tập hợp những con số và những hàm số, thể hiện cấu trúc nội tại toát ra từ những phép biến đổi toán học hay những mối quan hệ được xác định trên tập hợp. Toán học từ đó nghiên cứu tính chất của những tập hợp có thể được diễn tả dưới dạng cấu trúc đó; chẳng hạn lý thuyết số nghiên cứu tính chất của tập hợp những số nguyên có thể được diễn tả dưới dạng những phép biến đổi số học. Ngoài ra, thường thì những tập hợp có cấu trúc (hay những cấu trúc) khác nhau đó thể hiện những tính chất giống nhau, khiến người ta có thể xây dựng nên những tiên đề cho một lớp cấu trúc, rồi sau đó nghiên cứu đồng loạt toàn bộ lớp cấu trúc thỏa mãn những tiên đề này. Do đó người ta có thể nghiên cứu các nhóm, vành, trường, và những hệ phức tạp khác; những nghiên cứu như vậy (về những cấu trúc được xác định bởi những phép biến đổi đại số) tạo thành lĩnh vực đại số trừu tượng. Với mức độ tổng quát cao của mình, đại số trừu tượng thường có thể được áp dụng vào những bài toán dường như không liên quan gì đến nhau. Một ví dụ về lý thuyết đại số là đại số tuyến tính, lĩnh vực nghiên cứu về các không gian vectơ, ở đó những yếu tố cấu thành nó gọi là vectơ có cả lượng và hướng và chúng có thể được dùng để mô phỏng các điểm (hay mối quan hệ giữa các điểm) trong không gian. Đây là một ví dụ về những hiện tượng bắt nguồn từ những lĩnh vực hình học và đại sốban đầu không liên quan gì với nhau nhưng lại tương tác rất mạnh với nhau trong toán học hiện đại. Toán học tổ hợp nghiên cứu những cách tính số lượng những đối tượng có thể xếp được vào trong một cấu trúc nhất định.

{\displaystyle {\begin{matrix}(1,2,3)&(1,3,2)\\(2,1,3)&(2,3,1)\\(3,1,2)&(3,2,1)\end{matrix}}}📷📷📷📷📷📷Toán học tổ hợpLý thuyết sốLý thuyết nhómLý thuyết đồ thịLý thuyết trật tựĐại số

Không gian[sửa | sửa mã nguồn]

Việc nghiên cứu không gian bắt đầu với hình học - cụ thể là hình học Euclid. Lượng giác là một lĩnh vực toán học nghiên cứu về mối quan hệ giữa các cạnh và góc của tam giác và với các hàm lượng giác; nó kết hợp không gian và các con số, và bao gồm định lý Pythagore nổi tiếng. Ngành học hiện đại về không gian tổng quát hóa những ý tưởng này để bao gồm hình học nhiều chiều hơn, hình học phi Euclide (đóng vai trò quan trọng trong lý thuyết tương đối tổng quát), và tô pô. Cả lượng và không gian đều đóng vai trò trong hình học giải tích, hình học vi phân, và hình học đại số. Hình học lồi và hình học rời rạc trước đây được phát triển để giải các bài toán trong lý thuyết số và giải tích phiếm hàm thì nay đang được nghiên cứu cho các ứng dụng trong tối ưu hóa (tối ưu lồi) và khoa học máy tính (hình học tính toán). Trong hình học vi phân có các khái niệm bó sợi (fiber bundles) và vi tích phân trên các đa tạp, đặc biệt là vi tích phân vectơ và vi tích phân tensor. Hình học đại số thì mô tả các đối tượng hình học dưới dạng lời giải là những tập hợp phương trình đa thức, cùng với những khái niệm về lượng và không gian, cũng như nghiên cứu về các nhóm tô-pô kết hợp cấu trúc và không gian. Các nhóm Lie được dùng để nghiên cứu không gian, cấu trúc, và sự thay đổi. Tô pô trong tất cả những khía cạnh của nó có thể là một lĩnh vực phát triển vĩ đại nhất của toán học thế kỷ 20; nó bao gồm tô-pô tập hợp điểm (point-set topology), tô-pô lý thuyết tập hợp (set-theoretic topology), tô-pô đại số và tô-pô vi phân (differential topology). Trong đó, những chủ đề của tô-pô hiện đại là lý thuyết không gian mêtric hóa được (metrizability theory), lý thuyết tập hợp tiên đề (axiomatic set theory), lý thuyết đồng luân (homotopy theory), và lý thuyết Morse. Tô-pô cũng bao gồm giả thuyết Poincaré nay đã giải được, và giả thuyết Hodge vẫn chưa giải được. Những bài toán khác trong hình học và tô-pô, bao gồm định lý bốn màu và giả thiết Kepler, chỉ giải được với sự trợ giúp của máy tính.

📷📷📷📷📷📷Hình họcLượng giácHình học vi phânTô pôHình học fractalLý thuyết về độ đo

Sự thay đổi[sửa | sửa mã nguồn]

Hiểu và mô tả sự thay đổi là chủ đề thường gặp trong các ngành khoa học tự nhiên. Vi tích phân là một công cụ hiệu quả đã được phát triển để nghiên cứu sự thay đổi đó. Hàm sốtừ đây ra đời, như một khái niệm trung tâm mô tả một đại lượng đang thay đổi. Việc nghiên cứu chặt chẽ các số thực và hàm số của một biến thực được gọi là giải tích thực, với số phức thì có lĩnh vực tương tự gọi là giải tích phức. Giải tích phiếm hàm (functional analysis) tập trung chú ý vào những không gian thường là vô hạn chiều của hàm số. Một trong nhiều ứng dụng của giải tích phiếm hàm là trong cơ học lượng tử (ví dụ: lý thuyết phiếm hàm mật độ). Nhiều bài toán một cách tự nhiên dẫn đến những mối quan hệ giữa lượng và tốc độ thay đổi của nó, rồi được nghiên cứu dưới dạng các phương trình vi phân. Nhiều hiện tượng trong tự nhiên có thể được mô tả bằng những hệ thống động lực; lý thuyết hỗn độn nghiên cứu cách thức theo đó nhiều trong số những hệ thống động lực này thể hiện những hành vi không tiên đoán được nhưng vẫn có tính tất định.

📷📷📷📷📷📷Vi tích phânVi tích phân vec-tơPhương trình vi phânHệ thống động lựcLý thuyết hỗn độnGiải tích phức

Toán học ứng dụng[sửa | sửa mã nguồn]

Toán học ứng dụng quan tâm đến những phương pháp toán học thường được sử dụng trong khoa học, kỹ thuật, kinh doanh, và công nghiệp. Như vậy, "toán học ứng dụng" là một ngành khoa học toán học với kiến thức đặc thù. Thuật ngữ toán học ứng dụng cũng được dùng để chỉ lĩnh vực chuyên nghiệp, ở đó các nhà toán học giải quyết các bài toán thực tế. Với tư cách là một ngành nghề chú trọng vào các bài toán thực tế, toán học ứng dụng tập trung vào "việc thiết lập, nghiên cứu, và sử dụng những mô hình toán học" trong khoa học, kỹ thuật, và những lĩnh vực thực hành toán học khác. Trước đây, những ứng dụng thực tế đã thúc đẩy sự phát triển các lý thuyết toán học, để rồi sau đó trở thành chủ đề nghiên cứu trong toán học thuần túy, nơi toán học được phát triển chủ yếu cho chính nó. Như vậy, hoạt động của toán học ứng dụng nhất thiết có liên hệ đến nghiên cứu trong lĩnh vực toán học thuần túy.

Thống kê và những lĩnh vực liên quan[sửa | sửa mã nguồn]

Toán học ứng dụng có nhiều phần chung với thống kê, đặc biệt với lý thuyết xác suất. Các nhà thống kê, khi làm việc trong một công trình nghiên cứu, "tạo ra số liệu có ý nghĩa" sử dụng phương pháp tạo mẫu ngẫu nhiên (random sampling) và những thí nghiệm được ngẫu nhiên hóa (randomized experiments);[28] việc thiết kế thí nghiệm hay mẫu thống kê xác định phương pháp phân tích số liệu (trước khi số liệu được tạo ra). Khi xem xét lại số liệu từ các thí nghiệm và các mẫu hay khi phân tích số liệu từ những nghiên cứu bằng cách quan sát, các nhà thống kê "làm bật ra ý nghĩa của số liệu" sử dụng phương pháp mô phỏng và suy luận – qua việc chọn mẫu và qua ước tính; những mẫu ước tính và những tiên đoán có được từ đó cần được thử nghiệm với những số liệu mới.[29]

Lý thuyết thống kê nghiên cứu những bài toán liên quan đến việc quyết định, ví dụ giảm thiểu nguy cơ (sự tổn thất được mong đợi) của một hành động mang tính thống kê, chẳng hạn sử dụng phương pháp thống kê trong ước tính tham số, kiểm nghiệm giả thuyết, và chọn ra tham số cho kết quả tốt nhất. Trong những lĩnh vực truyền thống này của thống kê toán học, bài toán quyết định-thống kê được tạo ra bằng cách cực tiểu hóa một hàm mục tiêu (objective function), chẳng hạn giá thành hay sự mất mát được mong đợi, dưới những điều kiện nhất định.[30] Vì có sử dụng lý thuyết tối ưu hóa, lý thuyết toán học về thống kê có chung mối quan tâm với những ngành khoa học khác nghiên cứu việc quyết định, như vận trù học, lý thuyết điều khiển, và kinh tế học toán.[31]

Toán học tính toán[sửa | sửa mã nguồn]

Toán học tính toán đưa ra và nghiên cứu những phương pháp giải các bài toán toán học mà con người thường không có khả năng giải số được. Giải tích số nghiên cứu những phương pháp giải các bài toán trong giải tích sử dụng giải tích phiếm hàm và lý thuyết xấp xỉ; giải tích số bao gồm việc nghiên cứu xấp xỉ và rời rạc hóa theo nghĩa rộng, với sự quan tâm đặc biệt đến sai số làm tròn (rounding errors). Giải tích số và nói rộng hơn tính toán khoa học (scientific computing) cũng nghiên cứu những chủ đề phi giải tích như khoa học toán học, đặc biệt là ma trận thuật toán và lý thuyết đồ thị. Những lĩnh vực khác của toán học tính toán bao gồm đại số máy tính (computer algebra) và tính toán biểu tượng(symbolic computation).

📷📷📷📷📷📷📷Vật lý toán họcThủy động lực họcGiải tích sốTối ưu hóaLý thuyết xác suấtThống kêMật mã học📷📷📷📷📷 📷📷Tài chính toánLý thuyết trò chơiSinh học toánHóa học toánToán sinh họcKinh tế toánLý thuyết điều khiển

Giải thưởng toán học và những bài toán chưa giải được[sửa | sửa mã nguồn]

Có thể nói giải thưởng toán học danh giá nhất là Huy chương Fields,[32][33] thiết lập vào năm 1936 và nay được trao bốn năm một lần cho 2 đến 4 nhà toán học có độ tuổi dưới 40. Huy chương Fields thường được xem là tương đương với Giải Nobel trong những lĩnh vực khác. (Giải Nobel không xét trao thưởng trong lĩnh vực toán học) Một số giải thưởng quốc tế quan trọng khác gồm có: Giải Wolf về Toán học (thiết lập vào năm 1978) để ghi nhận thành tựu trọn đời; Giải Abel (thiết lập vào năm 2003) dành cho những nhà toán học xuất chúng; Huy chương Chern (thiết lập vào năm 2010) để ghi nhận thành tựu trọn đời.

Năm 1900, nhà toán học người Đức David Hilbert biên soạn một danh sách gồm 23 bài toán chưa có lời giải (còn được gọi là Các bài toán của Hilbert). Danh sách này rất nổi tiếng trong cộng đồng các nhà toán học, và ngày nay có ít nhất chín bài đã được giải. Một danh sách mới bao gồm bảy bài toán quan trọng, gọi là "Các bài toán của giải thiên niên kỷ" (Millennium Prize Problems), đã được công bố vào năm 2000, ai giải được một trong số các bài toán này sẽ được trao giải một triệu đô-la. Chỉ có một bài toán từ danh sách của Hilbert (cụ thể là giả thuyết Riemann) trong danh sách mới này. Tới nay, một trong số bảy bài toán đó (giả thuyết Poincaré) đã có lời giải.

Mối quan hệ giữa toán học và khoa học[sửa | sửa mã nguồn]

Carl Friedrich Gauss, người được xem là "hoàng tử của toán học."[34]

Gauss xem toán học là "nữ hoàng của các ngành khoa học".[35] Trong cụm từ La-tinh Regina Scientiarum và cụm từ tiếng Đức Königin der Wissenschaften (cả hai đều có nghĩa là "nữ hoàng của các ngành khoa học"), từ chỉ "khoa học" có nghĩa là "lĩnh vực tri thức," và đây cũng chính là nghĩa gốc của từ science (khoa học) trong tiếng Anh; như vậy toán học là một lĩnh vực tri thức. Sự chuyên biệt hóa giới hạn nghĩa của "khoa học" vào "khoa học tự nhiên" theo sau sự phát triển của phương pháp luận Bacon, từ đó đối lập "khoa học tự nhiên" với phương pháp kinh viện, phương pháp luận Aristotle nghiên cứu từ những nguyên lý cơ sở. So với các ngành khoa học tự nhiên như sinh học hay vật lý học thì thực nghiệm và quan sát thực tế có vai trò không đáng kể trong toán học. Albert Einstein nói rằng "khi các định luật toán học còn phù hợp với thực tại thì chúng không chắc chắn; và khi mà chúng chắc chắn thì chúng không còn phù hợp với thực tại."[36] Mới đây hơn, Marcus du Sautoy đã gọi toán học là "nữ hoàng của các ngành khoa học;... động lực thúc đẩy chính đằng sau những phát kiến khoa học."[37]

Nhiều triết gia tin rằng, trong toán học, tính có thể chứng minh được là sai (falsifiability) không thể thực hiện được bằng thực nghiệm, và do đó toán học không phải là một ngành khoa học theo như định nghĩa của Karl Popper.[38] Tuy nhiên, trong thập niên 1930, các định lý về tính không đầy đủ (incompleteness theorems) của Gödel đưa ra gợi ý rằng toán học không thể bị quy giảm về logic mà thôi, và Karl Popper kết luận rằng "hầu hết các lý thuyết toán học, giống như các lý thuyết vật lý và sinh học, mang tính giả định-suy diễn: toán học thuần túy do đó trở nên gần gũi hơn với các ngành khoa học tự nhiên nơi giả định mang tính chất suy đoán hơn hơn mức mà người ta nghĩ."[39]

Một quan điểm khác thì cho rằng một số lĩnh vực khoa học nhất định (như vật lý lý thuyết) là toán học với những tiên đề được tạo ra để kết nối với thực tại. Thực sự, nhà vật lý lý thuyết J. M. Ziman đã cho rằng khoa học là "tri thức chung" và như thế bao gồm cả toán học.[40] Dù sao đi nữa, toán học có nhiều điểm chung với nhiều lĩnh vực trong các ngành khoa học vật lý, đáng chú ý là việc khảo sát những hệ quả logic của các giả định. Trực giác và hoạt động thực nghiệm cũng đóng một vai trò trong việc xây dựng nên các giả thuyết trong toán học lẫn trong những ngành khoa học (khác). Toán học thực nghiệm ngày càng được chú ý trong bản thân ngành toán học, và việc tính toán và mô phỏng đang đóng vai trò ngày càng lớn trong cả khoa học lẫn toán học.

Ý kiến của các nhà toán học về vấn đề này không thống nhất. Một số cảm thấy việc gọi toán học là khoa học làm giảm tầm quan trọng của khía cạnh thẩm mỹ của nó, và lịch sử của nó trong bảy môn khai phóng truyền thống; một số người khác cảm thấy rằng bỏ qua mối quan hệ giữa toán học và các ngành khoa học là cố tình làm ngơ trước thực tế là sự tương tác giữa toán học và những ứng dụng của nó trong khoa học và kỹ thuật đã là động lực chính của những phát triển trong toán học. Sự khác biệt quan điểm này bộc lộ trong cuộc tranh luận triết học về chuyện toán học "được tạo ra" (như nghệ thuật) hay "được khám phá ra" (như khoa học). Các viện đại học thường có một trường hay phân khoa "khoa học và toán học".[41] Cách gọi tên này ngầm ý rằng khoa học và toán học gần gũi với nhau nhưng không phải là một.

0
Trong toán học và tin học, lý thuyết đồ thị nghiên cứu các tính chất của đồ thị. Một cách không chính thức, đồ thị là một tập các đối tượng được gọi là các đỉnh (hoặc nút) nối với nhau bởi các cạnh (hoặc cung). Cạnh có thể có hướng hoặc vô hướng. Đồ thị thường được vẽ dưới dạng một tập các điểm (các đỉnh nối với nhau bằng các đoạn thẳng (các cạnh).Đồ...
Đọc tiếp


Trong toán học và tin học, lý thuyết đồ thị nghiên cứu các tính chất của đồ thị. Một cách không chính thức, đồ thị là một tập các đối tượng được gọi là các đỉnh (hoặc nút) nối với nhau bởi các cạnh (hoặc cung). Cạnh có thể có hướng hoặc vô hướng. Đồ thị thường được vẽ dưới dạng một tập các điểm (các đỉnh nối với nhau bằng các đoạn thẳng (các cạnh).Đồ thị biểu diễn được rất nhiều cấu trúc, nhiều bài toán thực tế có thể được biểu diễn bằng đồ thị. Ví dụ, cấu trúc liên kết của một website có thể được biểu diễn bằng một đồ thị có hướng như sau: các đỉnh là các trang web hiện có tại website, tồn tại một cạnh có hướng nối từ trang A tới trang B khi và chỉ khi A có chứa 1 liên kết tới B. Do vậy, sự phát triển của các thuật toán xử lý đồ thị là một trong các mối quan tâm chính của khoa học máy tính.Cấu trúc đồ thị có thể được mở rộng bằng cách gán trọng số cho mỗi cạnh. Có thể sử dụng đồ thị có trọng số để biểu diễn nhiều khái niệm khác nhau. Ví dụ, nếu đồ thị biểu diễn một mạng đường giao thông, các trọng số có thể là độ dài của mỗi con đường. Một cách khác để mở rộng đồ thị cơ bản là quy định hướng cho các cạnh của đồ thị (như đối với các trang web, A liên kết tới B, nhưng B không nhất thiết cũng liên kết tới A). Loại đồ thị này được gọi là đồ thị có hướng. Một đồ thị có hướng với các cạnh có trọng số được gọi là một lưới.Các lưới có nhiều ứng dụng trong khía cạnh thực tiễn của lý thuyết đồ thị, chẳng hạn, phân tích lưới có thể dùng để mô hình hoá và phân tích mạng lưới giao thông hoặc nhằm "phát hiện" hình dáng của Internet - (Xem thêm các ứng dụng đưới đây. Mặc dù vậy, cũng nên lưu ý rằng trong phân tích lưới, thì định nghĩa của khái niệm "lưới" có thể khác nhau và thường được chỉ ra bằng một đồ thị đơn giản.)

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Một trong những kết quả đầu tiên trong lý thuyết đồ thị xuất hiện trong bài báo của Leonhard Euler về Bảy cây cầu ở Königsberg, xuất bản năm 1736. Bài báo này cũng được xem như một trong những kết quả topo đầu tiên trong hình học, tức là, nó không hề phụ thuộc vào bất cứ độ đo nào. Nó diễn tả mối liên hệ sâu sắc giữa lý thuyết đồ thị và tôpô học.Năm 1845, Gustav Kirchhoff đưa ra Định luật Kirchhoff cho mạch điện để tính điện thế và cường độ dòng điện trong mạch điện.Năm 1852 Francis Guthrie đưa ra bài toán bốn màu về vấn đề liệu chỉ với bốn màu có thể tô màu một bản đồ bất kì sao cho không có hai nước nào cùng biên giới được tô cùng màu. Bài toán này được xem như đã khai sinh ra lý thuyết đồ thị, và chỉ được giải sau một thế kỉ vào năm 1976 bởi Kenneth Appel và Wolfgang Haken. Trong khi cố gắng giải quyết bài toán này, các nhà toán học đã phát minh ra nhiều thuật ngữ và khái niệm nền tảng cho lý thuyết đồ thị.

Định nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Đồ thị (toán học)

Cách vẽ đồ thị[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Vẽ đồ thịĐồ thị được biểu diễn đồ họa bằng cách vẽ một điểm cho mỗi đỉnh và vẽ một cung giữa hai đỉnh nếu chúng được nối bởi một cạnh. Nếu đồ thị là có hướng thì hướng được chỉ bởi một mũi tên.Không nên lẫn lộn giữa một đồ hình của đồ thị với bản thân đồ thị (một cấu trúc trừu tượng, không đồ họa) bởi có nhiều cách xây dựng đồ hình. Toàn bộ vấn đề nằm ở chỗ đỉnh nào được nối với đỉnh nào, và bằng bao nhiêu cạnh. Trong thực hành, thường rất khó để xác định xem hai đồ hình có cùng biểu diễn một đồ thị không. Tùy vào bài toán mà đồ hình này có thể phù hợp và dễ hiểu hơn đồ hình kia.

Các cấu trúc dữ liệu đồ thị[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Đồ thị (cấu trúc dữ liệu)Có nhiều cách khác nhau để lưu trữ các đồ thị trong máy tính. Sử dụng cấu trúc dữ liệu nào thì tùy theo cấu trúc của đồ thị và thuật toán dùng để thao tác trên đồ thị đó. Trên lý thuyết, người ta có thể phân biệt giữa các cấu trúc danh sách và các cấu trúc ma trận. Tuy nhiên, trong các ứng dụng cụ thể, cấu trúc tốt nhất thường là kết hợp của cả hai. Người ta hay dùng các cấu trúc danh sách cho các đồ thị thưa (sparse graph), do chúng đòi hỏi ít bộ nhớ. Trong khi đó, các cấu trúc ma trận cho phép truy nhập dữ liệu nhanh hơn, nhưng lại cần lượng bộ nhớ lớn nếu đồ thị có kích thước lớn.

Các cấu trúc danh sách[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách liên thuộc (Incidence list) - Mỗi đỉnh có một danh sách các cạnh nối với đỉnh đó. Các cạnh của đồ thị được có thể được lưu trong một danh sách riêng (có thể cài đặt bằng mảng (array) hoặc danh sách liên kết động (linked list)), trong đó mỗi phần tử ghi thông tin về một cạnh, bao gồm: cặp đỉnh mà cạnh đó nối (cặp này sẽ có thứ tự nếu đồ thị có hướng), trọng số và các dữ liệu khác. Danh sách liên thuộc của mỗi đỉnh sẽ chiếu tới vị trí của các cạnh tương ứng tại danh sách cạnh này.

Danh sách kề (Adjacency list) - Mỗi đỉnh của đồ thị có một danh sách các đỉnh kề nó (nghĩa là có một cạnh nối từ đỉnh này đến mỗi đỉnh đó). Trong đồ thị vô hướng, cấu trúc này có thể gây trùng lặp. Chẳng hạn nếu đỉnh 3 nằm trong danh sách của đỉnh 2 thì đỉnh 2 cũng phải có trong danh sách của đỉnh 3. Lập trình viên có thể chọn cách sử dụng phần không gian thừa, hoặc có thể liệt kê các quan hệ kề cạnh chỉ một lần. Biểu diễn dữ liệu này thuận lợi cho việc từ một đỉnh duy nhất tìm mọi đỉnh được nối với nó, do các đỉnh này đã được liệt kê tường minh.

Các cấu trúc ma trận[sửa | sửa mã nguồn]

Ma trận liên thuộc (Incidence matrix) - Đồ thị được biểu diễn bằng một ma trận {\displaystyle [b_{ij}]}📷 kích thước p × q, trong đó p là số đỉnh và q là số cạnh, {\displaystyle b_{ij}=1}📷 chứa dữ liệu về quan hệ giữa đỉnh {\displaystyle v_{i}}📷 và cạnh {\displaystyle x_{j}}📷. Đơn giản nhất: {\displaystyle b_{ij}=1}📷 nếu đỉnh {\displaystyle v_{i}}📷 là một trong 2 đầu của cạnh {\displaystyle x_{j}}📷, bằng 0 trong các trường hợp khác.

Ma trận kề (Adjaceny matrix) - một ma trận N × N, trong đó N là số đỉnh của đồ thị. Nếu có một cạnh nào đó nối đỉnh {\displaystyle v_{i}}📷với đỉnh {\displaystyle v_{j}}📷 thì phần tử {\displaystyle M_{i,j}}📷 bằng 1, nếu không, nó có giá trị 0. Cấu trúc này tạo thuận lợi cho việc tìm các đồ thị con và để đảo các đồ thị.

Ma trận dẫn nạp (Admittance matrix) hoặc ma trận Kirchhoff (Kirchhoff matrix) hay ma trận Laplace (Laplacian matrix) - được định nghĩa là kết quả thu được khi lấy ma trận bậc (degree matrix) trừ đi ma trận kề. Do đó, ma trận này chứa thông tin cả về quan hệ kề (có cạnh nối hay không) giữa các đỉnh lẫn bậc của các đỉnh đó.

Các bài toán đồ thị[sửa | sửa mã nguồn]

Tìm đồ thị con[sửa | sửa mã nguồn]

Một bài toán thường gặp, được gọi là bài toán đồ thị con đẳng cấu (subgraph isomorphism problem), là tìm các đồ thị con trong một đồ thị cho trước. Nhiều tính chất của đồ thị có tính di truyền, nghĩa là nếu một đồ thị con nào đó có một tính chất thì toàn bộ đồ thị cũng có tính chất đó. Chẳng hạn như một đồ thị là không phẳng nếu như nó chứa một đồ thị hai phía đầy đủ (complete bipartite graph ) {\displaystyle K_{3,3}}📷 hoặc nếu nó chứa đồ thị đầy đủ {\displaystyle K_{5}}📷. Tuy nhiên, bài toán tìm đồ thị con cực đại thỏa mãn một tính chất nào đó thường là bài toán NP-đầy đủ (NP-complete problem).

Bài toán đồ thị con đầy đủ lớn nhất (clique problem) (NP-đầy đủ)

Bài toán tập con độc lập (independent set problem) (NP-đầy đủ)

Tô màu đồ thị[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Tô màu đồ thị

Định lý bốn màu (four-color theorem)

Định lý đồ thị hoàn hảo mạnh (strong perfect graph theorem)

Bài toán Erdős-Faber-Lovász conjecture (hiện chưa ai giải được)

Bài toán total coloring conjecture (hiện chưa ai giải được)

Bài toán list coloring conjecture (hiện chưa ai giải được)

Các bài toán đường đi[sửa | sửa mã nguồn]

Bài toán bảy cây cầu Euler (Seven Bridges of Königsberg) còn gọi là "Bảy cây cầu ở Königsberg"

Cây bao trùm nhỏ nhất (Minimum spanning tree)

Cây Steiner

Bài toán đường đi ngắn nhất

Bài toán người đưa thư Trung Hoa (còn gọi là "bài toán tìm hành trình ngắn nhất")

Bài toán người bán hàng (Traveling salesman problem) (NP-đầy đủ) cũng có tài liệu (tiếng Việt) gọi đây là "Bài toán người đưa thư"

Luồng[sửa | sửa mã nguồn]

Định lý luồng cực đại lát cắt cực tiểu

Reconstruction conjecture

Visibility graph problems[sửa | sửa mã nguồn]

Museum guard problem

Các bài toán phủ[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Phủ (lý thuyết đồ thị)Các bài toán phủ là các thể hiện cụ thể của các bài toán tìm đồ thị con. Chúng có quan hệ chặt chẽ với bài toán đồ thị con đầy đủ hoặc bài toán tập độc lập.

Bài toán phủ tập (Set cover problem)

Bài toán phủ đỉnh (Vertex cover problem)

Các thuật toán quan trọng[sửa | sửa mã nguồn]

Thuật toán Bellman-Ford

Thuật toán Dijkstra

Thuật toán Ford-Fulkerson

Thuật toán Kruskal

Thuật toán láng giềng gần nhất

Thuật toán Prim

Các lĩnh vực toán học có liên quan

Lý thuyết Ramsey

Toán tổ hợp (Combinatorics)

Ứng dụng

Lý thuyết đồ thị được ứng dụng nhiều trong phân tích lưới. Có hai kiểu phân tích lưới. Kiểu thứ nhất là phân tích để tìm các tính chất về cấu trúc của một lưới, chẳng hạn nó là một scale-free network hay là một small-world network. Kiểu thứ hai, phân tích để đo đạc, chẳng hạn mức độ lưu thông xe cộ trong một phần của mạng lưới giao thông (transportation network).Lý thuyết đồ thị còn được dùng trong nghiên cứu phân tử. Trong vật lý vật chất ngưng tụ, cấu trúc ba chiều phức tạp của các hệ nguyên tử có thể được nghiên cứu một cách định lượng bằng cách thu thập thống kê về các tính chất lý thuyết đồ thị có liên quan đến cấu trúc tô pô của các nguyên tử.

0
Tô pô hay tô pô học có gốc từ trong tiếng Hy Lạp là topologia (tiếng Hy Lạp: τοπολογία) gồm topos (nghĩa là "nơi chốn") và logos (nghiên cứu), là một ngành toán học nghiên cứu các đặc tính còn được bảo toàn qua các sự biến dạng, sự xoắn, và sự kéo giãn nhưng ngoại trừ việc xé rách và việc dán dính. Do đó, tô pô còn được mệnh danh là "hình học của màng cao su". Các đặc tính đó...
Đọc tiếp

Tô pô hay tô pô học có gốc từ trong tiếng Hy Lạp là topologia (tiếng Hy Lạp: τοπολογία) gồm topos (nghĩa là "nơi chốn") và logos (nghiên cứu), là một ngành toán học nghiên cứu các đặc tính còn được bảo toàn qua các sự biến dạng, sự xoắn, và sự kéo giãn nhưng ngoại trừ việc xé rách và việc dán dính. Do đó, tô pô còn được mệnh danh là "hình học của màng cao su". Các đặc tính đó gọi là các bất biến tô pô. Khi ngành học này lần đầu tiên tìm ra trong những năm đầu của thế kỉ 20 thì nó vẫn được gọi bằng tiếng Latinh là geometria situs (hình học của nơi chốn) và analysis situs (giải tích nơi chốn). Từ khoảng 1925 đến 1975 nó đã trở thành lãnh vực lớn mạnh quan trọng bậc nhất của toán học.

Thuật ngữ tô pô cũng để chỉ một đối tượng toán học riêng biệt trong ngành. Với ý nghĩa này, một tô pô là một họ của các tập mở mà có chứa tập trống và toàn bộ không gian, và nó đóng dưới các phép hội bất kì và phép giao hữu hạn. Và đây là định nghĩa của một không gian tô pô.

Mục lục

1Giới thiệu

2Lịch sử

3Dẫn nhập sơ khởi

4Toán học tô pô

5Một số định lý tổng quát về tô pô

6Một số đề tài hữu ích về tô pô đại số

7Phác thảo lý thuyết đi sâu hơn

8Tổng quát hóa

9Xem thêm

10Tham khảo

11Liên kết ngoài

Giới thiệu[sửa | sửa mã nguồn]

📷Một tách cà phê trở thành vòng xuyến qua sự biến dạng hình học bảo toàn các bất biến tô pô. Cả tách cà phê và bánh vòng đều có những tính chất tô pô hoàn toàn giống nhau.

Người ta có phát biểu rằng một nhà tô pô học là người mà không thể phân biệt được sự khác nhau giữa một cái vòng xuyến và một ca đựng bia có quai. Vì cả hai đều là vật rắn và có đúng 1 lỗ hổng. Đôi khi tô pô còn được gọi là hình học về miếng cao suvì trong tô pô thì không có sự phân biệt giữa một đường hình vuông với một đường tròn. Đường hình tròn có thể được kéo co giãn để biến dạng thành hình vuông. Tuy nhiên, đường tròn thì hoàn toàn phân biệt với đường hình số 8, bởi vì không thể nào kéo giãn hình tròn để tạo thành hình số 8 mà không đục xé nó ra thêm một lỗ. Các không gian nghiên cứu trong tô pô gọi là các không gian tô pô. Chúng thay đổi từ dạng quen thuộc như không gian thực n chiều cho đến các cấu trúc vô cùng kì lạ.

Như vậy có thể nói một cách nôm na rằng tô pô là một ngành nghiên cứu về đặc tính của các cấu trúc đặc có tính siêu co giãn, siêu biến dạng nhưng lại không thể bị cắt rời thành nhiều mảnh, không thể bị đâm thủng hay bị dán dính vào nhau.

📷Mặt Mobius-một mặt có thể đi sang bên kia mà không phải vòng qua mép

.

Tô pô giới thiệu thêm một ngôn ngữ hình học mới - như là các phức đơn hình (simplicial complex), đồng luân (homotopy), đối đồng điều (cohomology), đối ngẫu Poincaré (Poincaré duality), phân thớ (fibration), không gian vec tơ tô pô (topological vector space), bó(sheaf), lớp đặc trưng (characteristic class), hàm Morse (Morse function), đại số đồng điều (homological algebra), dãy phổ (spectral sequence). Nó đã tạo ra một tác động chính đến các lĩnh vực rộng rãi của hình học vi phân (differential geometry), hình học đại số(algebraic geometry), hệ thống động lực học (dynamical system), phương trình đạo hàm riêng (partial differential equation) và hàm nhiều biến phức (several complex variables). "Hình học", theo cách diễn giải của Michael Atiyah và trường phái của ông ngày nay, bao gồm điều kể trên. Một cách nội hàm, bộ môn này có các lĩnh vực tô pô tập điểm (point-set topology) hay tô pô đại cương(general topology) nghiên cứu về các không gian tô pô mà không có thêm các điều kiện giới hạn; trong khi các lĩnh vực khác lại nghiên cứu các không gian tô pô giống như là các đa tạp (manifold). Những lĩnh vực đó bao gồm tô pô đại số (algebraic topology) - phát triển từ tô pô tổ hợp (combinatorial topology), tô pô hình học (geometric topology), tô pô ít chiều (low-dimensional topology) - chẳng hạn lo về lý thuyết nút (knot theory), và tô pô vi phân (differential topology).

Đây là bài viết tổng quan về tô pô. Để có các khái niệm chính xác toán học, xem thêm bài không gian tô pô hoặc các bài viết trong danh sách dưới đây. Bài thuật ngữ tô pô bao gồm các định nghĩa của các thuật ngữ dùng trong tô pô học.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc của tô pô đã được người ta biết đến từ môn hình học trong các nền văn hóa cổ đại. Gottfried Leibniz là người đầu tiên khai thác thật ngữ analysus situs, sau đó các nghiên cứu trong thế kỉ 19 đã dùng như ngày nay là tô pô. Trong tiểu luận của Leonhard Euler về Bảy cầu Königsberg đã viết về các thành quả tô pô.

Từ topology được nhà toán học người Đức Johann Benedict Listing đưa ra sử dụng lần đầu tiên năm 1847 trong Vorstudien zur Topologie, mặc dù ông đã dùng nó từ mười năm trước

Georg Cantor, cha đẻ của lý thuyết tập hợp, đã khởi sự nghiên cứu lý thuyết tập điểm trong các không gian Euclide vào nửa cuối thế kỉ 19 như là một phần của khảo cứu về chuỗi Fourier.

Năm 1895, Henri Poincaré xuất bản tác phẩm Analyis Situs, đã giới thiệu các khái niệm về đồng luân và đồng điều.

Maurice Fréchet, thống nhất các nghiên cứu về không gian hàm của các nhà toán học Cantor, Volterra, Arzelà, Hadamard, Ascoli và những người khác. Ông đã dẫn nhập khái niệm về không gian metric trong năm 1906.

Năm 1914, Felix Hausdorff, tổng quát hóa đặc tính của không gian metric và đặt ra khái niệm "không gian tô pô" đồng thời cung cấp một định nghĩa mà ngày nay gọi là không gian Hausdorff.

Cuối cùng, vào năm 1922 Kazimierz Kuratowski đã tổng quát hóa thêm một bước nhỏ để đạt tới khái niệm không gian tô pô như hiện nay.

Thuật ngữ topologie được giới thiệu lần đầu ở Đức vào năm 1847 bởi Johann Benedict Listing trong cuốn Vorstudien zur Topologie (Những nghiên cứu trước tác về tô pô), Vandenhoeck và Ruprecht, Göttingen, pp. 67, 1948. Mặc dù vậy, Listing đã dùng chữ này từ mười năm trước. Topology, dạng Anh ngữ, đã được giới thiệu trong bản in của Solomon Lefschetz năm 1930 để thay cho tên trước đó là analysis situs. Riêng thuật ngữ topologist (nhà tô pô học), một chuyên gia trong ngành tô pô, có lẽ đã ra đời khoảng 1920.

📷Danh sách một số nhà nghiên cứu Tô pô ít chiều (low-dimensional topology) gần đây

Dẫn nhập sơ khởi[sửa | sửa mã nguồn]

Các không gian tô pô được tìm thấy sẵn có trong giải tích toán học, đại số trừu tượng và hình học. Điều này đã làm cho ngành nghiên cứu này trở thành đối tượng quan trọng trong việc thống nhất toán học. Tô pô đại cương, hay tô pô tập điểm, xác định và nghiên cứu những đặc tính hữu dụng của các không gian và các ánh xạ như là tính liên thông, tính compact và tính liên tục. Tô pô đại số là công cụ rất mạnh để nghiên cứu các không gian tô pô và các ánh xạ giữa chúng. Nó liên kết "rời rạc" và có nhiều bất biến khả đoán với các ánh xạ và các không gian thường là trong một cách thức có tính hàm tử. Các luận giải từ môn tô pô đại số ảnh hưởng lớn đến đại số trừu tượng và hình học đại số.

📷Bảy cây cầu Königsberg, một bài toán tô pô nổi tiếng

Động cơ rõ ràng phía sau của tô pô là việc một số vấn đề hình học không phụ thuộc vào hình dạng chính xác của đối tượng tham gia mà phụ thuộc vào "cách thức chúng nối kết nhau". Một trong những bài viết đầu tiên về tô pô được Leonhard Euler mô tả rằng không thể tìm ra một cách đi xuyên qua các thị tứ của Königsberg mà chỉ băng qua mỗi cầu nối giữa chúng đúng một lần. Kết quả này không phụ thuộc vào độ dài của các cây cầu, hay ngay cả khoảng cách giữa chúng mà chỉ phụ thuộc vào các đặc tính liên thông: Các cây cầu được nối như thế nào giữa các cù lao và các bờ sông. Bài toán này, được gọi là Bảy cầu ở Königsberg, đã trở thành bài toán dẫn nhập nổi tiếng trong toán, và đưa tới một phân nhánh là lý thuyết đồ thị.

Tương tự, định lý mặt cầu tóc của tô pô đại số bảo rằng "người ta không thể chải xuôi tóc trên một mặt cầu trơn". Ý nghĩa thực của nó là không tồn tại một mặt cầu tóc nào mà không có "xoáy" ngoại trừ tất cả tóc đều dựng đứng. Định lý này lập tức thuyết phục được hầu hết mọi người (do tính thực tế kiểm nghiệm được trên bản thân). Mặc dù rằng những người biết tới định lý này có thể không nhận biết mệnh đề phát biểu chính thức của định lý. Đó là Trên một mặt cầu, không tồn tại trường vectơ tiếp tuyến liên tục không triệt tiêu nào, cũng giống Bài toán Bảy cây cầu, kết quả trên không phụ thuộc vào dạng cầu mà nó còn đúng cho mọi bề mặt "blob" (là các đối tượng thỏa mãn tính trơn của bề mặt), miễn là chúng không có lỗ hổng (thí dụ hình vòng xuyến, hình vòng số 8 sẽ vi phạm điều kiện của định lý mặt cầu tóc - nhưng hình quả trám, hình trái bóng nhựa bị bóp xẹp lại thỏa mãn đòi hỏi của định lý).

Để có thể nghiên cứu các vấn đề mà chúng không hoàn toàn phụ thuộc vào hình dạng của đối tượng, người ta phải tách bạch rõ ra các tính chất nào sẽ phụ thuộc vào hình dạng. Và từ yêu cầu này phát sinh khái niệm về "tương đương tô pô". Trong các thí dụ trên, việc "không thể băng qua mỗi cây cầu chỉ một lần" có thể được áp dụng cho mọi cách xếp đặt của các cây cầu mà vẫn tương đương tô pô với các cây cầu nguyên thủy ở Königsberg; cũng như vậy, định lý mặt cầu tóc đúng cho mọi không gian tô pô tương đương với một hình cầu (như là hình quả trám chẳng hạn).

Nói cách khác, hai không gian là tương đương tô pô nếu tồn tại một phép đồng phôi giữa chúng. Trong trường hợp này, các không gian đó được gọi là đồng phôi và chúng được xét một cách chủ yếu như là có cùng các mục đích (nghiên cứu) của tô pô.

Một cách chính thức, một phép đồng phôi là một song ánh liên tục với hàm ngược cũng liên tục.

Một cách nôm na có thể cho thấy một ý nghĩa rõ hơn: Hai không gian là tương đương tô pô nếu người ta có thể biến dạng một không gian thành cái còn lại mà không phải cắt bỏ hay đục thủng các chi tiết ra và không phải dán các chi tiết lại với nhau. Dĩ nhiên, ở đây ta giả thiết "vật" (không gian) bị biến dạng có khả năng "siêu dẻo". Do vậy, việc nói đùa rằng nhà tô pô học không thể phân biệt được một vòng xuyến và cái ly có quai là vì cái ly có thể bị nặn bóp để trở thành hình vòng xuyến.

Một bài tập đơn giản về tương đương tô pô chia 10 chữ số Ả Rập, 0,1,2,3,4,5,6,7,8,9, thành các lớp có hình dạng tương đương nhau về mặt tô pô. Lớp thứ nhất bao gồm {1,2,3,5,7}; hình dạng các chữ số này không có lỗ hổng. Lớp thứ hai là {0,4,9,6}; hình dạng các chữ số này có đúng 1 lỗ hổng. Và lớp thứ 3 chỉ có một phần tử duy nhất {8} có tới hai lỗ hổng.

Toán học tô pô[sửa | sửa mã nguồn]

Để hiểu được tô pô theo góc độ toán học, có thể phải dùng đến hai khái niệm tập hợp và ánh xạ.

Cho một tập hợp X ≠ {\displaystyle \emptyset }📷 và họ t các tập hợp con của X. Họ t được gọi là tô pô trên X nếu:

{\displaystyle \emptyset }📷 {\displaystyle \in }📷 t, X {\displaystyle \in }📷 t: họ t bao gồm cả X và cả tập hợp rỗng.

Hợp một họ bất kỳ các phần tử của t là một phần tử của t.

Giao của một họ hữu hạn các phần tử của t là một phần tử của t.

Cặp (X,t) khi ấy được gọi là một không gian tô pô, ta có thể ghi tắt X mà không cần ghi đầy đủ là (X,t). Tập {\displaystyle \emptyset }📷 không phải là không gian tôpô.

Một số định lý tổng quát về tô pô[sửa | sửa mã nguồn]

Mọi khoảng đóng trong R có chiều dài hữu hạn là compact. Rộng hơn: Một tập hợp trong R n là compact nếu và chỉ nếu nó đóng và bị chặn. (Xem thêm Định lý Heine-Borel)

Ảnh liên tục của một không gian compact là compact.

Định lý Tychonoff: Tích của các không gian compact là compact.

Mọi dãy điểm trong một không gian mêtric compact có dãy con hội tụ.

Mọi khoảng trong R là liên thông.

Ảnh liên tục của một không gian liên thông (connected space) là liên thông.

Mọi không gian mêtric là không gian Hausdorff, thì cũng là không gian chuẩn tắc và parcompact.

Định lý mêtric hoá cung cấp điều kiện cần và đủ cho một tô pô để trở thành một không gian mêtric.

Định lý mở rộng Tietze: Trong một không gian chuẩn tắc, mọi hàm có giá trị thực liên tục xác định trên một không gian con đóng đều có thể mở rộng thành một hàm liên tục xác định trên toàn bộ không gian đó.

Định lý phạm trù Baire: Nếu X là một không gian metric đủ hay là một không gian Hausdorff compact địa phương, thì hội đếm được của các tập không đâu trù mật có phần trong là tập trống.

Mọi không gian đường liên thông, đường liên thông địa phương, và đơn liên bán địa phương đều có một phủ phổ dụng.

0
📷Tập hợp Mandelbrot, đặt tên theo người đã khám phá ra nó, là một ví dụ nổi tiếng về phân dạng📷Mandelbrot năm 2007📷Xây dựng một bông tuyết Koch cơ bản từ tam giác đềuMột phân dạng (còn được biết đến là fractal) là một vật thể hình học thường có hình dạng gấp khúc trên mọi tỷ lệ phóng đại, và có thể được tách ra thành từng phần: mỗi phần trông giống như hình tổng...
Đọc tiếp

📷Tập hợp Mandelbrot, đặt tên theo người đã khám phá ra nó, là một ví dụ nổi tiếng về phân dạng📷Mandelbrot năm 2007📷Xây dựng một bông tuyết Koch cơ bản từ tam giác đều

Một phân dạng (còn được biết đến là fractal) là một vật thể hình học thường có hình dạng gấp khúc trên mọi tỷ lệ phóng đại, và có thể được tách ra thành từng phần: mỗi phần trông giống như hình tổng thể, nhưng ở tỷ lệ phóng đại nhỏ hơn. Như vậy phân dạng có vô tận các chi tiết, các chi tiết này có thể có cấu trúc tự đồng dạng ở các tỷ lệ phóng đại khác nhau. Nhiều trường hợp, có thể tạo ra phân dạng bằng việc lặp lại một mẫu toán học, theo phép hồi quy. Từ fractal được nói đến lần đầu vào năm 1975 bởi Benoît Mandelbrot, lấy từ tiếng Latin fractus nghĩa là "đứt gãy". Trước đó, các cấu trúc này (ví dụ bông tuyết Koch) được gọi là "đường cong quỷ".

Phân dạng ban đầu được nghiên cứu như một vật thể toán học. Hình học phân dạng là ngành toán học chuyên nghiên cứu các tính chất của phân dạng; những tính chất không dễ gì giải thích được bằng hình học thông thường. Ngành này có ứng dụng trong khoa học, công nghệ, và nghệ thuật tạo từ máy tính. Ý niệm cơ bản của môn này là xây dựng phép đo đạc mới về kích thước của vật thể, do các phép đo thông thường của hình học Euclid và giải tích thất bại khi mô tả các phân dạng.

Mục lục

1Định nghĩa

2Lịch sử

3Tập hợp Mandelbrot

4Ví dụ

4.1Phân dạng tạo từ hình toán học

4.2Vật thể tự nhiên có cấu trúc phân dạng

5Ứng dụng

5.1Khoa học máy tính

5.2Y học và sinh học

5.3Hóa học

5.4Vật lý

5.5Thiên văn học

5.6Kinh tế

6Chú thích

7Tham khảo

8Liên kết ngoài

Định nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]

📷

Việc định nghĩa các đặc tính của phân dạng, có vẻ dễ dàng với trực quan, lại cực kỳ khó với đòi hỏi chính xác và cô đọng của toán học.

Mandelbrot đã định nghĩa phân dạng là "một tập hợp mà trong đó số chiều Hausdorff (hay chiều Hausdorff-Besicovitch) lớn hơn chiều tô pô học". Số chiều Hausdorff là khái niệm sinh ra để đo kích thước của phân dạng, thường không phải là một số tự nhiên. Một hình vẽ phân dạng trên tờ giấy 2 chiều có thể bắt đầu có những tính chất của vật thể trong không gian 3 chiều, và có thể có chiều Hausdorff nằm giữa 2 và 3. Đối với một phân dạng hoàn toàn tự đồng dạng, chiều Hausdorff sẽ đúng bằng chiều Minkowski-Bouligand.

Xem thêm: Số chiều Hausdorff

Các vấn đề liên quan đến định nghĩa phân dạng gồm:

Không có ý nghĩa chính xác của "gấp khúc".

Không có định nghĩa duy nhất của "chiều".

Có nhiều cách mà một vật thể có thể tự đồng dạng.

Không phải tất cả mọi phân dạng đều tìm được bằng phép đệ quy.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà toán học bắt đầu nghiên cứu các hình tự đồng dạng tự thế kỷ 17, khi Gottfried Leibniz xem xét các đường gấp khúc và định nghĩa đường thằng là đường phân dạng chuẩn: "các đường thẳng là đường cong, bất kỳ phần nào của nó cũng tương tự với toàn bộ".

Năm 1872, nhà toán học người Đức Karl Weierstrass đưa ra mô hình về một hàm liên tục nhưng không đâu khả vi

📷Bông tuyết Koch

Năm 1904, nhà toán học Thụy Điển Helge von Koch trong một bài "Sur une courbe continue sans tangente, obtenue par une construction géométrique élémentaire" đã nghiên cứu các tính chất của phân dạng tạo thành bắt đầu từ các đa giác đơn lồi phẳng, mà cụ thể là tam giác, có hình dạng na ná rìa của các bông tuyết và được gọi là bông tuyết Koch (Koch snowflake)

Tập hợp Mandelbrot[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Tập hợp Mandelbrot📷Hình ảnh đầu tiên của tập Mandelbrot (trên mặt phẳng phức) trong dãy phóng đại với môi trường được tô màu liên tục (các điểm màu đen thuộc về tập này).

Tập Mandelbrot là một tập hợp các điểm nằm trong mặt phẳng phức, với biên của nó có dạng fractal. Tập Mandelbrot là tập các giá trị của số phức c với quỹ đạo bắt đầu từ 0 dưới phép lặp của đa thức bậc hai hệ số phức zn+1 = zn2 + c vẫn bị chặn (đóng trong biên).[1] Có nghĩa là, một số phức c thuộc về tập Mandelbrot, khi bắt đầu với z0 = 0 và áp dụng phép lặp lại, thì giá trị tuyệt đối của zn không bao giờ vượt quá một số xác định (số này phụ thuộc vào c) cho dù n lớn như thế nào. Tập Mandelbrot được đặt tên theo nhà toán học Benoît Mandelbrot, người đầu tiên đã nghiên cứu và phát triển nó.

Ví dụ, lấy c = 1 thì khi áp dụng chuỗi lặp ta thu được dãy số 0, 1, 2, 5, 26,…, và dãy này tiến tới vô cùng. Hay dãy này không bị chặn, và do vậy 1 không phải là phần tử của tập Mandelbrot.

Ví dụ khác, lấy c = i (trong đó i được định nghĩa là i2 = −1) sẽ cho dãy 0, i, (−1 + i), −i, (−1 + i), −i,..., và dãy này bị chặn nên ithuộc về tập Mandelbrot.

Khi tính toán và vẽ trên mặt phẳng phức, tập Mandelbrot có hình dạng ở biên giống như một fractal, nó có tính chất tự đồng dạng khi phóng đại tại bất kì vị trí nào trên biên của tập hợp.

Tập Mandelbrot đã trở thành phổ biến ở cả bên ngoài toán học, từ vẻ đẹp thẩm mỹ cho tới cấu trúc phức tạp được xuất phát từ định nghĩa đơn giản, và nó cũng là một trong những ví dụ nổi tiếng của đồ họa toán học. Nhiều nhà toán học, bao gồm Mandelbrot, đã phổ biến lĩnh vực toán học này ra công chúng. Đây là một trong những tập hợp phân dạng nổi tiếng nhất.

Ví dụ[sửa | sửa mã nguồn]

Phân dạng tạo từ hình toán học[sửa | sửa mã nguồn]

📷Một phân dạng Mandelbrot zn+1 = zn2 + c

📷Phân dạng trông giống bông hoa

📷Một phân dạng của tập hợp Julia

📷Một phân dạng Mandelbrot khác

Vật thể tự nhiên có cấu trúc phân dạng[sửa | sửa mã nguồn]

📷Kéo hai tấm nhựa trong suốt có dính keo ra khỏi nhau, ta có được một cấu trúc phân dạng.

📷Phóng điện cao thếtrong một khối nhựa trong suốt, ta thu được hình Lichtenberg có cấu trúc phân dạng.

📷Các vết nứt có cấu trúc phân dạng trên bề mặt đĩa DVD, sau khi đưa đĩa này vào lò vi sóng

📷Súp lơ xanh Romanescocó những cấu trúc phân dạng tự nhiên

Ứng dụng[sửa | sửa mã nguồn]

Hình học Phân dạng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống và mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới trong nhiều lĩnh vực như sinh học, y học, thiên văn, kinh tế, công nghệ thông tin...

Khoa học máy tính[sửa | sửa mã nguồn]

Hình học Phân dạng có thể giúp thiết kế các hình ảnh đẹp trên máy tính một cách đơn giản và trực quan. Đây là một trong những lĩnh vực được nhiều người quan tâm, nhất là đối với những người yêu mến nghệ thuật. Cơ sở hình học Fractal cũng đã được ứng dụng trong công nghệ nén ảnh một cách hiệu quả thông qua các hệ hàm lặp (IFS), đây là một trong những lĩnh vực được các chuyên gia về khoa học máy tính đặc biệt quan tâm.

Phương pháp nén phân dạng là một phương pháp nén dữ liệu có mất mát thông tin cho ảnh số dựa trên phân dạng. Phương pháp này thích hợp nhất cho các ảnh tự nhiên dựa vào tính chất các phần của một bức ảnh thường giống với các phần khác của chính bức ảnh đó. Thuật toán phân dạng chuyển các phần này thành dữ liệu toán học được gọi là "mã phân dạng" và mã này được dùng để tái tạo lại bức ảnh đã được mã hóa. Đại diện của ảnh phân dạng được mô tả một cách toán học như là hệ thống các hàm lặp (IFS).

Như đã biết, với một ánh xạ co trên một không gian metric đầy đủ, luôn tồn tại một điểm bất động. Mở rộng kết quả này cho một họ các ánh xạ co, người ta chứng minh được với một họ ánh xạ như vậy luôn tồn tại một điểm bất động. Để ý rằng với một ánh xạ co, ta luôn tìm được điểm bất động của nó bằng cách lấy một giá trị khởi đầu rồi lặp lại nhiều lần ánh xạ đó trên các kết quả thu được của mỗi lần lặp. Số lần lặp càng nhiều thì giá trị tìm được càng xấp xỉ chính xác giá trị của điểm bất động. Do đó nếu ta coi ảnh cần nén là "điểm bất động" của một họ các ánh xạ co thì mỗi ảnh ta chỉ cần lưu thông tin về họ ánh xạ thích hợp, điều này sẽ làm giảm đi rất nhiều dung lượng cần có để lưu trữ thông tin ảnh.

Y học và sinh học[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà khoa học đã tìm ra các mối quan hệ giữa phân dạng với hình thù của tế bào, quá trình trao đổi chất của cơ thể người, AND, nhịp tim, … Trước đây, các nhà sinh học quan niệm lượng chất trao đổi phụ thuộc vào khối lượng cơ thể người, nghĩa là nó tỉ lệ bậc 3 khi xem xét con người là một đối tượng 3 chiều. Nhưng với góc nhìn từ hình học phân dạng, người ta cho rằng sẽ chính xác hơn nếu xem con người là một mặt phân dạng với số chiều xấp xỉ 2.5, như vậy tỉ lệ đó không nguyên nữa mà là một số hữu tỷ. Việc chẩn đoán bệnh áp dụng hình học phân dạng đã có những tiến bộ rõ rệt. Bằng cách quan sát hình dạng của các tế bào theo quan điểm phân dạng, người ta đã tìm ra các bệnh lý của con người, tuy nhiên những lĩnh vực này vẫn còn mới mẻ, cần phải được tiếp tục nghiên cứu.

Hóa học[sửa | sửa mã nguồn]

Hình học Phân dạng được sử dụng trong việc khảo sát các hợp chất cao phân tử. Tính đa dạng về cấu trúc polymer thể hiện sự phong phú về các đặc tính của hợp chất cao phân tử chính là các phân dạng. Hình dạng vô định hình, đường bẻ gãy, chuỗi, sự tiếp xúc của bề mặt polyme với không khí… đều có liên quan đến các phân dạng. Sự chuyển động của các phân tử, nguyên tử trong hợp chất, dung dịch, các quá trình tương tác gần giữa các chất với nhau,… đều có thể xem như một hệ động lực hỗn độn (chaos).

Vật lý[sửa | sửa mã nguồn]

Trong vật lý, khi nghiên cứu các hệ cơ học có năng lượng tiêu hao (chẳng hạn như có lực ma sát) người ta cũng nhận thấy trạng thái của các hệ đó khó xác định trước được và hình ảnh hình học của chúng là các đối tượng phân dạng.

Thiên văn học[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà khoa học đã tiến hành xem xét lại các quỹ đạo của các hành tinh trong hệ mặt trời cung như trong các hệ thiên hà khác. Một số kết quả cho thấy không phải các hành tinh này quay theo một quỹ đạo Ellipse như trong hình học Euclide mà nó chuyển động theo các đường phân dạng. Quỹ đạo của nó được mô phỏng bằng những quỹ đạo trong các tập hút "lạ".

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Mô tả sự biến động của giá cả trên thị trường chứng khoán bằng các đồ hình phân dạng sẽ cho phép chúng ta theo dõi sự biến động của giá cả. Trên cơ sở đó dự báo giá cả trên thị trường dựa theo các luật của hình học phân dạng.

0
Tham khảo phần dàn ý bài văn tả cây bàng lớp 4 của Minh HạMở bài: Giới thiệu cây bàng:– Sân trường rộng, rợp mát bóng cây,... thế nhưng, gắn bó nhất vẫn là cây bàng ở góc sân.– Cây bàng không biết trồng tự bao giờ mà đã cao ngang tầng 4 khu nhà tầng.Thân bài:1. Tả cây bàng mùa thu:– Cây um tùm lá, đủ màu: lá xanh thẫm, lá ngả vàng, có cái lá đỏ như màu đồng.– Quả bàng vàng...
Đọc tiếp

Tham khảo phần dàn ý bài văn tả cây bàng lớp 4 của Minh Hạ

Mở bài: Giới thiệu cây bàng:

– Sân trường rộng, rợp mát bóng cây,... thế nhưng, gắn bó nhất vẫn là cây bàng ở góc sân.

– Cây bàng không biết trồng tự bao giờ mà đã cao ngang tầng 4 khu nhà tầng.

Thân bài:

1. Tả cây bàng mùa thu:

– Cây um tùm lá, đủ màu: lá xanh thẫm, lá ngả vàng, có cái lá đỏ như màu đồng.

– Quả bàng vàng ruộm lúc lỉu trên cành, nấp giữa vòm lá; có quả rụng lăn lóc trên mặt đất.

– Mới sau khai giảng, bài vở chưa nhiều, lũ học trò túm tụm dưới gốc cây.

2. Tả cây bàng mùa đông:

– Thân cây lộ rõ vẻ sần sùi; những cái u trên thân trơ ra.

– Cành bàng trơ trụi lá, gầy guộc, nâu xám.

– Vài cái lá đỏ còn sót lại vẫy vẫy trong gió.

– Học trò tránh rét, đến trường vào ngay lớp học, cây bàng buồn.

3. Tả cây bàng mùa xuân:

– Gió đông ấm dần, xuân về.

– Một sáng, trên cây lấm tấm những chồi non hồng như ngọn lửa.

– Bỗng một hai hôm sau, cả cây xoè nở những cái lá non tí xíu, mơn mởn

– Rồi cả cây xanh mượt màu lá. Lũ học trò ngỡ ngàng.

4. Tả cây bàng mùa hè:

– Cây như cái ô khổng lồ, xanh um.

– Lá bàng xanh thẫm, dày; hoa bàng trắng li ti.

- Bàng ra quả.

– Học trò về nghỉ hè.

Kết bài:

– Cây bàng là bạn của học sinh.

– Sân trường và cây bàng là hình ảnh đẹp của tuổi thơ.

0
*Vũ trụ bao gồm tất cả các vật chất và không gian hiện có được coi là một tổng thể. Vũ trụ được cho là có đường kính ít nhất 10 tỷ năm ánh sáng và chứa một số lượng lớn các thiên hà; nó đã được mở rộng kể từ khi thành lập ở Big Bang khoảng 13 tỷ năm trước.[8][9][10][11][12][13] Vũ trụ bao gồm các hành tinh, sao, thiên hà, các thành phần của không gian liên sao, những hạt hạ...
Đọc tiếp

*

Vũ trụ bao gồm tất cả các vật chất và không gian hiện có được coi là một tổng thể. Vũ trụ được cho là có đường kính ít nhất 10 tỷ năm ánh sáng và chứa một số lượng lớn các thiên hà; nó đã được mở rộng kể từ khi thành lập ở Big Bang khoảng 13 tỷ năm trước.[8][9][10][11][12][13] Vũ trụ bao gồm các hành tinh, sao, thiên hà, các thành phần của không gian liên sao, những hạt hạ nguyên tử nhỏ nhất, và mọi vật chất và năng lượng. Vũ trụ quan sát được có đường kính vào khoảng 28 tỷ parsec (91 tỷ năm ánh sáng) trong thời điểm hiện tại.[2] Các nhà thiên văn chưa biết được kích thước toàn thể của Vũ trụ là bao nhiêu và có thể là vô hạn.[14] Những quan sát và phát triển của vật lý lý thuyết đã giúp suy luận ra thành phần và sự tiến triển của Vũ trụ.

Xuyên suốt các thư tịch lịch sử, các thuyết vũ trụ học và tinh nguyên học, bao gồm các mô hình khoa học, đã từng được đề xuất để giải thích những hiện tượng quan sát của Vũ trụ. Các thuyết địa tâm định lượng đầu tiên đã được phát triển bởi các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ.[15][16] Trải qua nhiều thế kỷ, các quan sát thiên văn ngày càng chính xác hơn đã đưa tới thuyết nhật tâm của Nicolaus Copernicus và, dựa trên kết quả thu được từ Tycho Brahe, cải tiến cho thuyết đó về quỹ đạo elip của hành tinh bởi Johannes Kepler, mà cuối cùng được Isaac Newton giải thích bằng lý thuyết hấp dẫn của ông. Những cải tiến quan sát được xa hơn trong Vũ trụ dẫn tới con người nhận ra rằng Hệ Mặt Trời nằm trong một thiên hà chứa hàng tỷ ngôi sao, gọi là Ngân Hà. Sau đó các nhà thiên văn phát hiện ra rằng thiên hà của chúng ta chỉ là một trong số hàng trăm tỷ thiên hà khác. Ở trên những quy mô lớn nhất, sự phân bố các thiên hà được giả định là đồng nhất và như nhau trong mọi hướng, có nghĩa là Vũ trụ không có biên hay một tâm đặc biệt nào đó. Quan sát về sự phân bố và vạch phổ của các thiên hà đưa đến nhiều lý thuyết vật lý vũ trụ học hiện đại. Khám phá trong đầu thế kỷ XX về sự dịch chuyển đỏ trong quang phổ của các thiên hà gợi ý rằng Vũ trụ đang giãn nở, và khám phá ra bức xạ nền vi sóng vũ trụ cho thấy Vũ trụ phải có thời điểm khởi đầu.[17] Gần đây, các quan sát vào cuối thập niên 1990 chỉ ra sự giãn nở của Vũ trụ đang gia tốc[18] cho thấy thành phần năng lượng chủ yếu trong Vũ trụ thuộc về một dạng chưa biết tới gọi là năng lượng tối. Đa phần khối lượng trong Vũ trụ cũng tồn tại dưới một dạng chưa từng biết đến hay là vật chất tối.

Lý thuyết Vụ Nổ Lớn là mô hình vũ trụ học được chấp thuận rộng rãi, nó miêu tả về sự hình thành và tiến hóa của Vũ trụ. Không gian và thời gian được tạo ra trong Vụ Nổ Lớn, và một lượng cố định năng lượng và vật chất choán đầy trong nó; khi không gian giãn nở, mật độ của vật chất và năng lượng giảm. Sau sự giãn nở ban đầu, nhiệt độ Vũ trụ giảm xuống đủ lạnh cho phép hình thành lên những hạt hạ nguyên tử đầu tiên và tiếp sau là những nguyên tử đơn giản. Các đám mây khổng lồ chứa những nguyên tố nguyên thủy này theo thời gian dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn kết tụ lại thành các ngôi sao. Nếu giả sử mô hình phổ biến hiện nay là đúng, thì tuổi của Vũ trụ có giá trị tính được từ những dữ liệu quan sát là 13,799 ± 0,021 tỷ năm.[1].

Có nhiều giả thiết đối nghịch nhau về Số phận sau cùng của Vũ trụ. Các nhà vật lý và triết học vẫn không biết chắc về những gì, nếu bất cứ điều gì, có trước Vụ Nổ Lớn. Nhiều người phản bác những ước đoán, nghi ngờ bất kỳ thông tin nào từ trạng thái trước này có thể thu thập được. Có nhiều giả thuyết về đa vũ trụ, trong đó một vài nhà vũ trụ học đề xuất rằng Vũ trụ có thể là một trong nhiều vũ trụ cùng tồn tại song song với nhau [19][20].

Là một phần trong loạt bài vềVũ trụ học vật lý📷

Vụ Nổ Lớn · Vũ trụ

Độ tuổi vũ trụ

Lịch sử vũ trụ

Vũ trụ ban đầu[hiện]Sự giãn nở · Tương lai[hiện]Thành phần · Cấu trúc[hiện]Thí nghiệm[hiện]Nhà khoa học[hiện]Lịch sử[hiện]

📷 Thể loại

📷 Chủ đề Vũ trụ học

📷 Chủ đề Thiên văn học

📷 Chủ đề Vật lý

x

t

s

Mục lục

1Định nghĩa

2Các tiến trình và Vụ Nổ Lớn

3Tính chất

3.1Hình dạng

3.2Kích thước và các khu vực

3.3Tuổi và sự giãn nở

3.4Không thời gian

4Thành phần

4.1Năng lượng tối

4.2Vật chất tối

4.3Vật chất thường

4.4Hạt sơ cấp

4.4.1Hadron

4.4.2Lepton

4.4.3Photon

5Các mô hình vũ trụ học

5.1Mô hình dựa trên thuyết tương đối tổng quát

6Xem thêm

7Tham khảo

8Đọc thêm

Định nghĩa

Vũ trụ có thể được định nghĩa là mọi thứ đang tồn tại, mọi thứ đã tồn tại, và mọi thứ sẽ tồn tại.[21][22][23] Theo như hiểu biết hiện tại, Vũ trụ chứa các thành phần: không thời gian, các dạng năng lượng (bao gồm bức xạ điện từ và vật chất), và các định luật vật lý liên hệ giữa chúng. Vũ trụ bao hàm mọi dạng sống, mọi lịch sử, và thậm chí một số nhà triết học và khoa học gợi ý rằng nó bao hàm các ý tưởng như toán học và logic.[24][25][26]

Các tiến trình và Vụ Nổ Lớn

Bài chi tiết: Vụ Nổ Lớn và Biên niên của Vũ trụ

Mô hình được chấp thuận rộng rãi về nguồn gốc của Vũ trụ đó là lý thuyết Vụ Nổ Lớn.[27][28] Mô hình Vụ Nổ Lớn miêu tả trạng thái sớm nhất của Vũ trụ có mật độ và nhiệt độ cực kỳ lớn và sau đó trạng thái này giãn nở tại mọi điểm trong không gian. Mô hình dựa trên thuyết tương đối rộng và những giả thiết cơ bản như tính đồng nhất và đẳng hướng của không gian. Phiên bản của mô hình với hằng số vũ trụ học (Lambda) và vật chất tối lạnh, gọi là mô hình Lambda-CDM, là mô hình đơn giản nhất cung cấp cách giải thích hợp lý cho nhiều quan sát khác nhau trong Vũ trụ. Mô hình Vụ Nổ Lớn giải thích cho những quan sát như sự tương quan giữa khoảng cách và dịch chuyển đỏ của các thiên hà, tỉ lệ giữa số lượng nguyên tử hiđrô với nguyên tử heli, và bức xạ nền vi sóng vũ trụ.

Tiến trình của Vũ trụ📷Trong biểu đồ này, thời gian truyền từ trái sang phải, vì vậy tại bất kỳ thời điểm nào, Vũ trụ được biểu diễn bằng một "lát" hình đĩa của biểu đồ.

Trạng thái nóng, đặc ban đầu được gọi là kỷ nguyên Planck, một giai đoạn ngắn kéo dài từ lúc thời gian bằng 0 cho tới một đơn vị thời gian Planck xấp xỉ bằng 10−43 giây. Trong kỷ nguyên Planck, mọi loại vật chất và mọi loại năng lượng đều tập trung trong một trạng thái đặc, nơi lực hấp dẫn được cho là trở lên mạnh ngang với các lực cơ bản khác, và tất cả các lực này có thể đã thống nhất làm một. Từ kỷ nguyên Planck, Vũ trụ đã giãn nở cho tới hình dạng hiện tại, mà có khả năng nó đã trải qua một giai đoạn lạm phát rất ngắn khiến cho kích thước của Vũ trụ đạt tới kích thước lớn hơn nhiều chỉ trong ít hơn 10−32 giây.[29] Giai đoạn này làm đều đặn đi các khối cục vật chất nguyên sơ của Vũ trụ và để lại nó trong trạng thái đồng đều và đẳng hướng như chúng ta quan sát thấy ngày nay. Các thăng giáng cơ học lượng tử trong suốt quá trình này để lại các thăng giáng mật độ trong Vũ trụ, mà sau đó trở thành mầm mống cho sự hình thành các cấu trúc trong Vũ trụ.[30]

Sau kỷ nguyên Planck và lạm phát tới các kỷ nguyên quark, hadron, và lepton. Theo Steven Weinberg, ba kỷ nguyên này kéo dài khoảng 13,82 giây sau thời điểm Vụ Nổ Lớn.[31] Sự xuất hiện của các nguyên tố nhẹ có thể được giải thích bằng lý thuyết dựa trên sự giãn nở của không gian kết hợp với vật lý hạt nhân và vật lý nguyên tử.[32] Khi Vũ trụ giãn nở, mật độ năng lượng của bức xạ điện từ giảm nhanh hơn so với mật độ của vật chất bởi vì năng lượng của một photon giảm theo bước sóng của nó. Cùng với Vũ trụ giãn nở và nhiệt độ giảm đi, các hạt cơ bản kết hợp lại thành những hạt tổ hợp lớn hơn và ổn định hơn. Do vậy, chỉ vài giây sau Vụ Nổ Lớn, hình thành các hạt proton và neutron ổn định và rồi hình thành lên các hạt nhân nguyên tử thông qua các phản ứng hạt nhân.[33][34] Quá trình này, gọi là tổng hợp hạt nhân Vụ Nổ Lớn, dẫn tới sự có mặt hiện nay của các hạt nhân nhẹ, bao gồm hiđrô, deuteri, và heli. Tổng hợp hạt nhân Vụ Nổ Lớn kết thúc sau khoảng 20 phút, khi nhiệt độ Vũ trụ giảm xuống mức không còn đủ để xảy ra các phản ứng tổng hợp hạt nhân nữa.[35] Ở giai đoạn này, vật chất trong Vũ trụ chủ yếu là plasma nóng đặc chứa các electron mang điện tích âm, các hạt neutrino trung hòa và các hạt nhân mang điện tích dương. Các hạt và phản hạt liên tục va chạm và hủy thành cặp photon và ngược lại. Kỷ nguyên này được gọi là kỷ nguyên photon, kéo dài trong khoảng 380 nghìn năm.[36]

Với photon không còn tương tác với vật chất nữa, Vũ trụ bước vào giai đoạn vật chất chiếm đa số về mật độ (matter-dominated era; lưu ý là giai đoạn này sau khoảng 47 nghìn năm kể từ Vụ Nổ Lớn,[37] bởi Vũ trụ vẫn như màn sương mờ đục-optical thick-đối với bức xạ. Trước giai đoạn này là bức xạ chiếm đa số và động lực của Vũ trụ bị chi phối bởi bức xạ.). Đến thời điểm của kỷ nguyên tái kết hợp - sau khoảng 380 nghìn năm, electron và các hạt nhân hình thành lên các nguyên tử ổn định, cho phép Vũ trụ trở lên trong suốt với sóng điện từ. Lúc này ánh sáng có thể lan truyền tự do trong không gian, và nó vẫn còn được quan sát cho tới tận ngày nay với tên gọi bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CMB). Sau khoảng 100 đến 300 triệu năm, những ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành; đây là những ngôi sao rất lớn, sáng và chịu trách nhiệm cho quá trình tái ion hóa của Vũ trụ. Bởi không có các nguyên tố nặng hơn liti từ giai đoạn tổng hợp hạt nhân Vụ Nổ Lớn, những ngôi sao này đã tạo ra các nguyên tố nặng đầu tiên bởi quá trình tổng hợp hạt nhân sao.[38] Vũ trụ cũng chứa một dạng năng lượng bí ẩn gọi là năng lượng tối; mật độ năng lượng của năng lượng tối không thay đổi theo thời gian. Sau khoảng 9,8 tỷ năm, Vũ trụ đã giãn nở đến mức độ khiến cho mật độ của vật chất nhỏ hơn mật độ của năng lượng tối, đánh dấu bắt đầu của giai đoạn năng lượng tối thống lĩnh Vũ trụ (dark-energy-dominated era).[39] Trong giai đoạn này, sự giãn nở gia tăng của Vũ trụ là do năng lượng tối.

Tính chất

Bài chi tiết: Vũ trụ quan sát được, Tuổi của Vũ trụ, và Giãn nở metric của không gian

Không thời gian của Vũ trụ thường được thể hiện từ khuôn khổ của không gian Euclid, khi coi không gian có ba chiều vật lý, và thời gian là một chiều khác, trở thành "chiều thứ tư".[40] Bằng cách kết hợp không gian và thời gian thành một thực thể đa tạp toán học duy nhất gọi là không gian Minkowski, các nhà vật lý đã đưa ra nhiều lý thuyết vật lý miêu tả các hiện tượng trong Vũ trụ theo một cách thống nhất hơn từ phạm vi siêu thiên hà cho tới mức hạ nguyên tử.

Các sự kiện trong không thời gian không được xác định tuyệt đối từ khoảng không gian và khoảng thời gian mà có quan hệ tương đối với chuyển động của một quan sát viên. Không gian Minkowski miêu tả gần đúng Vũ trụ khi không có lực hấp dẫn; đa tạp tựa-Riemann của thuyết tương đối rộng miêu tả Vũ trụ chính xác hơn khi đưa trường hấp dẫn và vật chất vào không thời gian bốn chiều. Lý thuyết dây giả thiết có tồn tại những chiều ngoại lai khác của không thời gian.

Trong bốn tương tác cơ bản, lực hấp dẫn thống trị Vũ trụ trên phạm vi kích thước lớn, bao gồm thiên hà và các cấu trúc lớn hơn. Các hiệu ứng hấp dẫn có tính tích lũy; ngược lại, trong khi đó các hiệu ứng của điện tích âm và điện tích dương có xu hướng hủy lẫn nhau, khiến cho lực điện từ không có ảnh hưởng nhiều trên quy mô lớn của Vũ trụ. Hai tương tác còn lại, tương tác yếu và tương tác mạnh, giảm cường độ tác dụng rất nhanh theo khoảng cách và các hiệu ứng của chúng chủ yếu đáng kể trên phạm vi hạ nguyên tử.

Vũ trụ chứa vật chất nhiều hơn phản vật chất, một sự chênh lệch có khả năng liên quan tới sự vi phạm CP trong tương tác yếu.[41] Dường như Vũ trụ cũng không có động lượnghay mômen động lượng. Sự vắng mặt của điện tích hay động lượng trên tổng thể có thể xuất phát từ các định luật vật lý được đa số các nhà khoa học công nhận (tương ứng định luật Gauss và tính không phân kỳ của giả tenxơ ứng suất-năng lượng-động lượng) nếu Vũ trụ có biên giới hạn.[42]

Các cấp độ khoảng cách trong Vũ trụ quan sát được📷Vị trí của Trái Đất trong Vũ trụ.

Hình dạng

📷Ba hình dạng có thể của vũ trụ.Bài chi tiết: Hình dạng của Vũ trụ

Thuyết tương đối tổng quát miêu tả không thời gian bị cong như thế nào do ảnh hưởng của vật chất và năng lượng. Tô pô hay hình họccủa Vũ trụ bao gồm cả hình học cục bộ trong vũ trụ quan sát được và hình học toàn cục. Các nhà vũ trụ học thường nghiên cứu trên một nhát cắt kiểu không gian nhất định của không thời gian gọi là các tọa độ đồng chuyển động. Phần không thời gian có thể quan sát được là phần nhìn ngược về nón ánh sáng mà phân định ra chân trời vũ trụ học. Chân trời vũ trụ học (cũng gọi là chân trời hạt hoặc chân trời ánh sáng) là khoảng cách đo được mà từ đó có thể khôi phục được thông tin[43] hay khoảng cách lớn nhất mà hạt có thể đạt được để tới quan sát viên trong phạm vi tuổi của Vũ trụ. Chân trời này là ranh giới biên giữa những vùng quan sát được và không quan sát được của Vũ trụ.[44][45] Sự tồn tại, tính chất và ý nghĩa của chân trời Vũ trụ học phụ thuộc vào từng mô hình vũ trụ học cụ thể.

Một tham số quan trọng xác định lên tương lai tiến hóa của Vũ trụ đó là tham số mật độ, Omega (Ω), định nghĩa bằng mật độ vật chất trung bình của Vũ trụ chia cho một giá trị giới hạn của mật độ này. Việc có một trong ba khả năng của hình dạng Vũ trụ phụ thuộc vào Ω có bằng, nhỏ hơn hay lớn hơn 1. Tương ứng với các giá trị này là Vũ trụ phẳng, mở hay Vũ trụ đóng.[46]

Các quan sát, bao gồm từ các tàu Cosmic Background Explorer (COBE), Tàu thăm dò Bất đẳng hướng Vi sóng Wilkinson (WMAP), và Planck vẽ bản đồ CMB, cho thấy Vũ trụ mở rộng vô hạn với tuổi hữu hạn như được miêu tả bởi mô hình Friedmann–Lemaître–Robertson–Walker (FLRW).[47][48][49][50] Mô hình FLRW cũng ủng hộ các mô hình vũ trụ lạm phát và mô hình chuẩn của vũ trụ học, miêu tả vũ trụ phẳng và đồng nhất với sự chiếm lĩnh chủ yếu của vật chất tối và năng lượng tối.[51][52]

Tô pô toàn cục của Vũ trụ rất khó xác định và người ta chưa biết chính xác tính chất này của Vũ trụ. Từ các dữ liệu quan trắc CMB của tàu Planck, một số nhà vật lý cho rằng tô pô của vũ trụ là mở, lớn vô hạn có biên hoặc không có biên.[53][54]

Kích thước và các khu vực

Xem thêm: Vũ trụ quan sát được và Vũ trụ học quan sát

Xác định kích thước chính xác của Vũ trụ là một vấn đề khó khăn. Theo như định nghĩa có tính giới hạn, Vũ trụ là những thứ trong phạm vi không thời gian mà có thể có cơ hội tương tác với chúng ta và ngược lại.[55] Theo thuyết tương đối tổng quát, một số khu vực của không gian sẽ không bao giờ tương tác được với chúng ta ngay cả trong thời gian tồn tại của Vũ trụ bởi vì tốc độ ánh sáng là giới hạn và sự giãn nở của không gian. Ví dụ, thông điệp vô tuyến gửi từ Trái Đất có thể không tới được một số khu vực của không gian, ngay cả nếu như Vũ trụ tồn tại mãi mãi: do không gian có thể giãn nở nhanh hơn ánh sáng truyền bên trong nó.[56]

Các vùng không gian ở xa được cho là tồn tại và là một phần thực tại như chúng ta, cho dù chúng ta không bao giờ chạm tới được chúng. Vùng không gian mà chúng ta có thể thu nhận được thông tin gọi là Vũ trụ quan sát được. Nó phụ thuộc vào vị trí của người quan sát. Bằng cách di chuyển, một quan sát viên có thể liên lạc được với một vùng không thời gian lớn hơn so với quan sát viên đứng yên. Tuy vậy, ngay cả đối với quan sát viên di chuyển nhanh nhất cũng không thể tương tác được với toàn bộ không gian. Nói chung, Vũ trụ quan sát được lấy theo nghĩa của phần không gian Vũ trụ được quan sát từ điểm thuận lợi của chúng ta từ Ngân Hà.

Khoảng cách riêng—khoảng cách được đo tại một thời điểm cụ thể, bao gồm vị trí hiện tại từ Trái Đất cho tới biên giới của Vũ trụ quan sát được là bằng 46 tỷ năm ánh sáng (14 tỷ parsec), do đó đường kính của Vũ trụ quan sát được vào khoảng 91 tỷ năm ánh sáng (28×109 pc). Khoảng cách ánh sáng từ biên của Vũ trụ quan sát được là xấp xỉ bằng tuổi của Vũ trụ nhân với tốc độ ánh sáng, 13,8 tỷ năm ánh sáng (4,2×109 pc), nhưng khoảng cách này không biểu diễn cho một thời điểm bất kỳ khác, bởi vì biên giới của Vũ trụ và Trái Đất đang di chuyển dần ra xa khỏi nhau.[57] Để so sánh, đường kính của một thiên hà điển hình gần bằng 30.000 năm ánh sáng, và khoảng cách điển hình giữa hai thiên hà lân cận nhau là khoảng 3 triệu năm ánh sáng.[58] Ví dụ, đường kính của Ngân Hà vào khoảng 100.000 năm ánh sáng,[59] và thiên hà lớn gần nhất với Ngân Hà, thiên hà Andromeda, nằm cách xa khoảng 2,5 triệu năm ánh sáng.[60] Bởi vì chúng ta không thể quan sát không gian vượt ngoài biên giới của Vũ trụ quan sát được, chúng ta không thể biết được kích thước của Vũ trụ là hữu hạn hay vô hạn.[14][61][62]

Tuổi và sự giãn nở

Bài chi tiết: Tuổi của Vũ trụ và Giãn nở metric của không gian

Các nhà thiên văn tính toán tuổi của Vũ trụ bằng giả thiết rằng mô hình Lambda-CDM miêu tả chính xác sự tiến hóa của Vũ trụ từ một trạng thái nguyên thủy rất nóng, đậm đặc và đồng nhất cho tới trạng thái hiện tại và họ thực hiện đo các tham số vũ trụ học mà cấu thành lên mô hình này. Mô hình này được hiểu khá tốt về mặt lý thuyết và được ủng hộ bởi những quan trắc thiên văn với độ chính xác cao gần đây như từ các tàu WMAP và Planck. Các kết quả này thường khớp với các quan trắc từ các dự án khảo sát sự bất đẳng hướng trong bức xạ vi sóng vũ trụ, mối liên hệ giữa dịch chuyển đỏ và độ sáng từ các vụ nổ siêu tân tinh loại Ia, và khảo sát các cụm thiên hà trên phạm vi lớn bao gồm đặc điểm dao động baryon tựa âm thanh (baryon acoustic oscillation). Những quan sát khác, như nghiên cứu hằng số Hubble, sự phân bố các cụm thiên hà, hiện tượng thấu kính hấp dẫn yếu và tuổi của các cụm sao cầu, đều cho dữ liệu nhất quán với nhau, từ đó mang lại phép thử chéo cho mô hình chuẩn của Vũ trụ học ở giai đoạn trẻ của vũ trụ nhưng bớt chính xác hơn đối với những đo đạc trong phạm vi gần Ngân Hà. Với sự ưu tiên về mô hình Lambda-CDM là đúng, sử dụng nhiều kỹ thuật đo cho những tham số này cho phép thu được giá trị xấp xỉ tốt nhất về tuổi của Vũ trụ vào khoảng 13,799 ± 0,021 tỷ năm (tính đến năm 2015).[1]

Theo thời gian Vũ trụ và các thành phần trong nó tiến hóa, ví dụ số lượng và sự phân bố của các chuẩn tinh và các thiên hà đều thay đổi[63] và chính không gian cũng giãn nở. Vì sự giãn nở này, các nhà khoa học có thể ghi lại được ánh sáng từ một thiên hà nằm cách xa Trái Đất 30 tỷ năm ánh sáng cho dù ánh sáng mới chỉ đi được khoảng thời gian khoảng 13 tỷ năm; lý do không gian giữa chúng đã mở rộng ra. Sự giãn nở này phù hợp với quan sát rằng ánh sáng từ những thiên hà ở xa khi tới được thiết bị đo thì đã bị dịch chuyển sáng phía đỏ; các photon phát ra từ chúng đã mất dần năng lượng và chuyển dịch sang bước sóng dài hơn (hay tần số thấp hơn) trong suốt quãng đường hành trình của chúng. Phân tích phổ từ các siêu tân tinh loại Ia cho thấy sự giãn nở không gian là đang gia tốc tăng.[64][65]

Càng nhiều vật chất trong Vũ trụ, lực hút hấp dẫn giữa chúng càng mạnh. Nếu Vũ trụ quá đậm đặc thì nó sẽ sớm co lại thành một kỳ dị hấp dẫn. Tuy nhiên, nếu Vũ trụ chứa quá ít vật chất thì sự giãn nở sẽ gia tốc quá nhanh không đủ thời gian để các hành tinh và hệ hành tinh hình thành. Sau Vụ Nổ Lớn, Vũ trụ giãn nở một cách đơn điệu. Thật ngạc nhiên là, Vũ trụ của chúng ta có mật độ khối lượng vừa đúng vào cỡ khoảng 5 proton trên một mét khối cho phép sự giãn nở của không gian kéo dài trong suốt 13,8 tỷ năm qua, một quãng thời gian đủ để hình thành lên vũ trụ quan sát được như ngày nay.[66]

Có những lực mang tính động lực tác động lên các hạt trong Vũ trụ mà ảnh hưởng tới tốc độ giãn nở. Trước năm 1998, đa số các nhà vũ trụ học cho rằng sự tăng giá trị của hằng số Hubble sẽ tiến tới giảm dần theo thời gian do sự ảnh hưởng của tương tác hấp dẫn, do vậy họ đưa ra một đại lượng đo được trong Vũ trụ đó là tham số giảm tốc mà họ hi vọng nó có liên hệ trực tiếp tới mật độ vật chất của Vũ trụ. Vào năm 1998, hai nhóm các nhà thiên văn độc lập với nhau đã đo được tham số giảm tốc có giá trị xấp xỉ bằng −1 nhưng khác 0, hàm ý rằng tốc độ giãn nở ngày nay của Vũ trụ là gia tăng theo thời gian.[18][67]

Không thời gian

Bài chi tiết: Không thời gian và Tuyến thế giớiXem thêm: Phép biến đổi Lorentz

Không thời gian là bối cảnh cho mọi sự kiện vật lý xảy ra—một sự kiện là một điểm trong không thời gian xác định bởi các tọa độ không gian và thời gian. Các yếu tố cơ bản của không thời gian là các sự kiện. Trong một không thời gian bất kỳ, sự kiện được xác định một cách duy nhất bởi vị trí và thời gian. Bởi vì các sự kiện là các điểm không thời gian, trong vật lý tương đối tính cổ điển, vị trí của một hạt cơ bản (giống như hạt điểm) tại một thời điểm cụ thể có thể được viết bằng {\displaystyle (x,y,z,t)}📷. Có thể định nghĩa không thời gian là hợp của mọi sự kiện giống như cách một đường thẳng là hợp của mọi điểm trên nó, mà theo phát biểu toán học gọi là đa tạp.[68]

Vũ trụ dường như là một continum không thời gian chứa ba chiều không gian một chiều thời khoảng (thời gian). Trên trung bình, Vũ trụ có tính chất hình học gần phẳng (hay độ cong không gian xấp xỉ bằng 0), có nghĩa là hình học Euclid là mô hình xấp xỉ tốt về hình học của Vũ trụ trên khoảng cách lớn của nó.[69] Ở cấu trúc toàn cục, tô pô của không thời gian có thể là không gian đơn liên (simply connected space), tương tự như với một mặt cầu, ít nhất trên phạm vi Vũ trụ quan sát được. Tuy nhiên, các quan sát hiện tại không thể ngoại trừ một số khả năng rằng Vũ trụ có thêm nhiều chiều ẩn giấu và không thời gian của Vũ trụ có thể là không gian tô pô đa liên toàn cục (multiply connected global topology), tương tự như tô pô của không gian hai chiều đối với mặt của hình trụ hoặc hình vòng xuyến.[48][70][71][72]

Thành phần

📷Mô phỏng sự hình thành của các đám và sợi thiên hà trên quy mô lớn theo mô hình Vật chất tối lạnh kết hợp với năng lượng tối. Khung hình chỉ ra tiến hóa của cấu trúc này trong hộp thể tích 43 triệu parsec (hay 140 triệu năm ánh sáng) từ dịch chuyển đỏ bằng 30 cho tới kỷ nguyên hiện tại (hộp trên cùng bên trái z=30 tới hộp dưới cùng bên phải z=0).Xem thêm: Sự hình thành và tiến hóa thiên hà, Quần tụ thiên hà, Dự án Illustris, và Tinh vân

Vũ trụ chứa phần lớn các thành phần năng lượng tối, vật chất tối, và vật chất thông thường. Các thành phần khác là bức xạ điện từ(ước tính chiếm từ 0,005% đến gần 0,01%) và phản vật chất.[73][74][75] Tổng lượng bức xạ điện từ sản sinh ra trong Vũ trụ đã giảm đi một nửa trong 2 tỷ năm qua.[76][77]

Tỷ lệ phần trăm của mọi loại vật chất và năng lượng thay đổi trong suốt lịch sử của Vũ trụ.[78] Ngày nay, vật chất thông thường, bao gồm nguyên tử, sao, thiên hà, môi trường không gian liên sao, và sự sống, chỉ chiếm khoảng 4,9% thành phần của Vũ trụ.[6] Mật độtổng hiện tại của loại vật chất thông thường là rất thấp, chỉ khoảng 4,5 × 10−31 gram trên một centimét khối, tương ứng với mật độ của một proton trong thể tích bốn mét khối.[4] Các nhà khoa học vẫn chưa biết được bản chất của cả năng lượng tối và vật chất tối. Vật chất tối, một dạng vật chất bí ẩn mà các nhà vật lý vẫn chưa nhận ra dạng của nó, chiếm thành phần khoảng 26,8%. Năng lượng tối, có thể coi là năng lượng của chân không và là nguyên nhân gây ra sự giãn nở gia tốc của Vũ trụ trong lịch sử gần đây của nó, thành phần còn lại chiếm khoảng 68,3%.[6][79][80]

📷Bản đồ vẽ các siêu đám thiên hà và khoảng trống gần Trái Đất nhất.

Vật chất, vật chất tối, năng lượng tối phân bố đồng đều trong toàn thể Vũ trụ khi xét phạm vi khoảng cách trên 300 triệu năm ánh sáng.[81] Tuy nhiên, trên những phạm vi nhỏ hơn, vật chất có xu hướng tập trung lại thành cụm; nhiều nguyên tử tích tụ thành các ngôi sao, các ngôi sao tập trung trong thiên hà và phần lớn các thiên hà quần tụ lại thành các đám, siêu đám và cuối cùng là những sợi thiên hà (galaxy filament) trên những khoảng cách lớn nhất. Vũ trụ quan sát được chứa xấp xỉ 3×10 23 ngôi sao[82] và hơn 100 tỷ (1011) thiên hà.[83] Các thiên hà điển hình xếp từ loại thiên hà lùn với vài chục triệu [84] (107) sao cho tới những thiên hà chứa khoảng một nghìn tỷ (1012)[85] sao. Giữa những cấu trúc này là các khoảng trống (void) lớn, với đường kính vào cỡ 10–150 Mpc (33 triệu–490 triệu ly). Ngân Hà nằm trong Nhóm Địa Phương, rồi đến lượt nó thuộc về siêu đám Laniakea.[86] Siêu đám này trải rộng trên 500 triệu năm ánh sáng, trong khi Nhóm Địa Phương có đường kính xấp xỉ 10 triệu năm ánh sáng.[87] Vũ trụ cũng có những vùng trống hoang vu tương đối lớn; khoảng trống lớn nhất từng đo được có đường kính vào khoảng 1,8 tỷ ly (550 Mpc).[88]

📷Tỷ lệ phần trăm các thành phần của Vũ trụ ngày nay so với thời điểm 380.000 năm sau Vụ Nổ Lớn, dữ liệu thu thập trong 5 năm từ tàu WMAP (tính đến 2008).[89] (Do làm tròn, tổng các tỷ lệ này không chính xác bằng 100%). Điều này phản ánh giới hạn của WMAP khi xác định vật chất tối và năng lượng tối.

Trên quy mô lớn hơn các siêu đám thiên hà, Vũ trụ quan sát được là đẳng hướng, có nghĩa rằng những dữ liệu mang tính chất thống kê của Vũ trụ có giá trị như nhau trong mọi hướng khi quan sát từ Trái Đất. Vũ trụ chứa đầy bức xạ vi sóng có độ đồng đều cao mà nó tương ứng với phổ bức xạ vật đen trong trạng thái cân bằng nhiệt động ở nhiệt độ gần 2,72548 kelvin.[5] Tiên đề coi Vũ trụ là đồng đều và đẳng hướng trên phạm vi khoảng cách lớn được gọi là nguyên lý vũ trụ học.[90] Nếu vật chất và năng lượng trong Vũ trụ phân bố đồng đều và đẳng hướng thì sẽ nhìn thấy mọi thứ như nhau khi quan sát từ mọi điểm[91] và Vũ trụ không có một tâm đặc biệt nào.[92]

Năng lượng tối

Bài chi tiết: Năng lượng tối

Tại sao sự giãn nở của Vũ trụ lại tăng tốc vẫn là một câu hỏi hóc búa đối với các nhà vũ trụ học. Người ta thường cho rằng "năng lượng tối", một dạng năng lượng bí ẩn với giả thuyết mật độ không đổi và có mặt khắp nơi trong Vũ trụ là nguyên nhân của sự giãn nở này.[93]Theo nguyên lý tương đương khối lượng-năng lượng, trong phạm vi cỡ thiên hà, mật độ của năng lượng tối (~ 7 × 10−30 g/cm3) nhỏ hơn rất nhiều so với mật độ của vật chất thông thường hay của năng lượng tối chứa trong thể tích của một thiên hà điển hình. Tuy nhiên, trong thời kỳ năng lượng tối thống trị hiện nay, nó lấn át thành phần khối lượng-năng lượng của Vũ trụ bởi vì sự phân bố đồng đều của nó ở khắp nơi trong không gian.[94][95]

Các nhà khoa học đã đề xuất hai dạng mà năng lượng tối có thể gán cho đó là hằng số vũ trụ học, một mật độ năng lượng không đổi choán đầy không gian vũ trụ,[96] và các trường vô hướng như nguyên tố thứ năm (quintessence) hoặc trường moduli, các đại lượng động lực mà mật độ năng lượng có thể thay đổi theo không gian và thời gian. Các đóng góp từ những trường vô hướng mà không đổi trong không gian cũng thường được bao gồm trong hằng số vũ trụ học. Ngoài ra, biến đổi nhỏ ở giá trị trường vô hướng bởi sự phân bố bất đồng nhất theo không gian khiến cho rất khó có thể phân biệt những trường này với mô hình hằng số vũ trụ. Vật lý lượng tử cũng gợi ý hằng số này có thể có nguồn gốc từ năng lượng chân không (ví dụ sự xuất hiện của hiệu ứng Casimir). Tuy vậy giá trị đo được của mật độ năng lượng tối lại nhỏ hơn 120 lần bậc độ lớn so với giá trị tính toán của lý thuyết trường lượng tử.

Vật chất tối

Bài chi tiết: Vật chất tối

Vật chất tối là loại vật chất giả thiết không thể quan sát được trong phổ điện từ, nhưng theo tính toán nó phải chiếm phần lớn vật chất trong Vũ trụ. Sự tồn tại và tính chất của vật chất tối được suy luận từ ảnh hưởng hấp dẫn của nó lên vật chất baryon, bức xạ và các cấu trúc lớn trong Vũ trụ. Ngoài neutrino, một loại được các nhà thiên văn vật lý xếp vào dạng vật chất tối nóng - có thể phát hiện thông qua các máy dò đặt dưới lòng đất, thì cho tới nay chưa thể phát hiện tác động trực tiếp của vật chất tối lên các thiết bị thí nghiệm, khiến cho nó trở thành một trong những bí ẩn lớn nhất của ngành thiên văn vật lý hiện đại. Vật chất tối không phát ra hay hấp thụ ánh sáng hay bất kỳ bức xạ điện từnào ở mức đáng kể. Theo kết quả quan trắc từ bức xạ nền vi sóng vũ trụ, vật chất tối chiếm khoảng 26,8% tổng thành phần năng lượng-vật chất và 84,5% tổng thành phần vật chất trong Vũ trụ quan sát được.[79][97]

Vật chất thường

Bài chi tiết: Vật chất📷Ảnh chụp của Hubble về cụm sao trẻ Westerlund 2 và môi trường xung quanh nó.

Thành phần khối lượng-năng lượng chiếm 4,9% còn lại của Vũ trụ là "vật chất thông thường", tức là bao gồm các loại nguyên tử, ion, electron và các vật thể mà chúng cấu thành lên. Chúng bao gồm các sao, loại thiên thể tạo ra phần lớn ánh sáng phát ra từ các thiên hà, cũng như khí và bụi trong môi trường liên sao (vd. các tinh vân) và liên thiên hà, các hành tinh, và mọi vật thể có mặt trong cuộc sống hàng ngày mà chúng ta có thể cầm nắm, sản xuất, nghiên cứu và phát hiện ra.[98] Vật chất thông thường tồn tại trong bốn trạng thái (hay pha): thể rắn, lỏng, khí, và plasma. Tuy nhiên, những tiến bộ trong kỹ thuật thực nghiệm đã cho phép hiện thực hóa được những trạng thái mới của vật chất mà trước đó chỉ được tiên toán tồn tại trên lý thuyết, đó là ngưng tụ Bose–Einstein và ngưng tụ fermion.

Vật chất bình thường cấu thành từ hai loại hạt cơ bản: quark và lepton.[99] Ví dụ, hạt proton hình thành từ hai hạt quark lên và một hạt quark xuống; hạt neutron hình thành từ hai hạt quark xuống và một hạt quark lên; và electron là một loại thuộc họ lepton. Một nguyên tử chứa một hạt nhân nguyên tử, mà do các proton và neutron liên kết với nhau, và các electron trên obitan nguyên tử. Bởi vì phần lớn khối lượng của nguyên tử tập trung tại hạt nhân của nó, mà cấu thành từ các hạt baryon, các nhà thiên văn học thường sử dụng thuật ngữ vật chất baryon để miêu tả vật chất thông thường, mặc dù một phần nhỏ của loại "vật chất baryon" này là các electron và neutrino.

Ngay sau vụ nổ Big Bang, các proton và neutron nguyên thủy hình thành từ dạng plasma quark–gluon của giai đoạn sơ khai khi Vũ trụ "nguội" đi dưới hai nghìn tỷ độ. Một vài phút sau, trong quá trình tổng hợp hạt nhân Big Bang, các hạt nhân hình thành nhờ sự kết hợp của các hạt proton và neutron nguyên thủy. Quá trình tổng hợp này tạo ra các nguyên tố nhẹ như liti và beryllium, trong khi các nguyên tố nặng hơn chúng lại được sản sinh từ quá trình khác. Một số nguyên tử boron có thể hình thành vào giai đoạn này, nhưng đối với nguyên tố nặng hơn kế tiếp, carbon, đã không hình thành ra một lượng đáng kể. Tổng hợp hạt nhân Vụ Nổ Lớn kết thúc sau khoảng 20 phút do sự giảm nhanh chóng của nhiệt độ và mật độ bởi sự giãn nở của Vũ trụ. Sự hình thành các nguyên tố nặng hơn là do kết quả của các quá trình tổng hợp hạt nhân saovà tổng hợp hạt nhân siêu tân tinh.[100]

Một số cấu trúc trong Vũ trụ📷Tinh vân Đầu Ngựa trong chòm sao Orion.📷Cụm thiên hà Abell 1689 với hiệu ứng thấu kính hấp dẫn📷Ngân Hà trên bầu trời Paranal với kính thiên văn VLT.

Hạt sơ cấp

📷Mô hình chuẩn của các hạt sơ cấp: 12 fermion cơ bản và 4 boson cơ bản. Các boson chuẩn (màu đỏ) bắt cặp với các fermion (màu tím và xanh), phóng to hình vẽ để thấy. Các cột là ba thế hệ vật chất (những fermion) và những hạt trường của tương tác (boson). Trong ba cột đầu tiên, hai hàng trên là các hạt quarks và hai hàng dưới là các lepton. Hai hàng trên lần lượt là quark lên (u) và quark xuống (d), quark duyên (c) và quark lạ (s), quark đỉnh (t) và quark đáy (b), và photon (γ) và gluon (g), ngoài cùng là boson Higgs. Hai hàng dưới chứa lần lượt neutrino electron (νe) và electron (e), neutrino muon (νμ) và muon (μ), neutrino tau (ντ) và tau (τ), và các boson mang lực hạt nhân yếu Z0 và W±. Khối lượng, điện tích, và spin được viết ra cho mỗi loại hạt.Bài chi tiết: Vật lý hạt

Vật chất thông thường và các lực tác dụng lên vật chất được miêu tả theo tính chất và hoạt động của các hạt sơ cấp.[101] Các hạt này đôi khi được miêu tả là cơ bản, bởi vì dường như chúng không có cấu trúc bên trong, và người ta chưa biết liệu chúng có phải là hạt tổ hợp của những hạt nhỏ hơn hay không.[102][103] Lý thuyết quan trọng trung tâm miêu tả các hạt sơ cấp là Mô hình Chuẩn, lý thuyết đề cập đến các tương tác điện từ, tương tác yếu và tương tác mạnh.[104] Mô hình Chuẩn đã được kiểm chứng và xác nhận bằng thực nghiệm liên quan tới sự tồn tại của các hạt cấu thành lên vật chất: các hạt quark và lepton, và những "phản hạt" đối ngẫu với chúng, cũng như các hạt chịu trách nhiệm truyền tương tác: photon, và boson W và Z , và gluon.[102] Mô hình Chuẩn cũng tiên đoán sự tồn tại của loại hạt gần đây mới được xác nhận tồn tại đó là boson Higgs, loại hạt đặc trưng cho một trường trong Vũ trụ mà chịu trách nhiệm cho khối lượng của các hạt sơ cấp.[105][106] Bởi vì nó đã thành công trong giải thích rất nhiều kết quả thí nghiệm, Mô hình Chuẩn đôi lúc được coi là "lý thuyết của mọi thứ".[104] Tuy nhiên, Mô hình Chuẩn không miêu tả lực hấp dẫn. Một lý thuyết thực thụ "cho tất cả" vẫn còn là mục tiêu xa của ngành vật lý lý thuyết.[107]

Hadron

Bài chi tiết: Hadron

Hadron là những hạt tổ hợp chứa các quark liên kết với nhau bởi lực hạt nhân mạnh. Hadron được phân thành hai họ: baryon(như proton và neutron) được cấu thành từ ba hạt quark, và meson (như hạt pion) được cấu thành từ một quark và một phản quark. Trong các hadron, proton là loại hạt ổn định với thời gian sống rất lâu, và neutron khi liên kết trong hạt nhân nguyên tử cũng là loại ổn định. Các hadron khác rất không bền dưới các điều kiện bình thường và do vậy chúng là những thành phần không đáng kể trong Vũ trụ. Từ xấp xỉ 10−6 giây sau vụ nổ Big Bang, trong giai đoạn gọi là kỷ nguyên hadron, nhiệt độ của Vũ trụ đã giảm đáng kể cho phép các hạt quark liên kết với các gluon để tạo thành hadron, và khối lượng của Vũ trụ giai đoạn này chủ yếu đóng góp từ các hadron. Nhiệt độ lúc đầu đủ cao để cho phép hình thành các cặp hadron/phản-hadron, mà giữ cho vật chất và phản vật chất trong trạng thái cân bằng nhiệt động. Tuy nhiên, khi nhiệt độ Vũ trụ tiếp tục giảm, các cặp hadron/phản-hadron không còn tồn tại nữa. Đa số các hadron và phản-hadron hủy lẫn nhau trong phản ứng hủy cặp hạt-phản hạt, chỉ để lại một lượng nhỏ hadron tại lúc Vũ trụ mới trải qua quãng thời gian một giây.[108]: 244–266

Lepton

Bài chi tiết: Lepton

Lepton là loại hạt sơ cấp có spin bán nguyên không tham gia vào tương tác mạnh nhưng nó tuân theo nguyên lý loại trừ Pauli; không có hai lepton cùng một thế hệ nào có thể ở cùng một trạng thái tại cùng một thời gian.[109] Có hai lớp lepton: các lepton mang điện tích (còn được biết đến lepton giống electron), và các lepton trung hòa (hay các hạt neutrino). Electron là hạt ổn định và là lepton mang điện phổ biến nhất trong Vũ trụ, trong khi muon và tau là những hạt không bền mà nhanh chóng phân rã sau khi được tạo ra từ các va chạm năng lượng cao, như ở phản ứng tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển hoặc thực hiện trong các máy gia tốc.[110][111] Các lepton mang điện có thể kết hợp với các hạt khác để tạo thành nhiều loại hạt tổ hợp khác nhau như các nguyên tử và positronium. Electron chi phối gần như mọi tính chất hóa học của các nguyên tố và hợp chất do chúng tạo nên các obitan nguyên tử. Neutrino tương tác rất hiếm với các hạt khác, và do vậy rất khó theo dõi được chúng. Các dòng hạt chứa hàng tỷ tỷ neutrino bay khắp Vũ trụ nhưng hầu hất đều không tương tác với vật chất thông thường.[112]

Có một giai đoạn ngắn trong quá trình tiến hóa lúc sơ khai của Vũ trụ mà các hạt lepton chiếm lĩnh khối lượng chủ yếu. Nó bắt đầu gần 1 giây sau Vụ Nổ Lớn, sau khi phần lớn các hadron và phản hadron hủy lẫn nhau khi kết thúc kỷ nguyên hadron. Trong kỷ nguyên lepton, nhiệt độ của Vũ trụ vẫn còn đủ cao để duy trì các phản ứng sinh cặp lepton/phản-lepton, do đó lúc này các lepton và phản-lepton ở trong trạng thái cân bằng nhiệt động. Đến xấp xỉ 10 giây kể từ Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ của Vũ trụ giảm xuống dưới điểm mà cặp lepton và phản-lepton không thể tạo ra được nữa.[113] Gần như toàn bộ lepton và phản-lepton sau đó hủy lẫn nhau, chỉ còn lại dư một ít lepton. Khối lượng-năng lượng của Vũ trụ khi đó chủ yếu do các photon đóng góp và Vũ trụ tiến tới giai đoạn kỷ nguyên photon.[114][115]

Photon

Bài chi tiết: Kỷ nguyên photonXem thêm: Photino

Photon là hạt lượng tử của ánh sáng và tất cả các bức xạ điện từ khác. Nó cũng là hạt truyền tương tác của lực điện từ, thậm chí đối với trường hợp tương tác thông qua các photon ảo. Hiệu ứng của lực điện từ có thể dễ dàng quan sát trên cấp vi mô và vĩ mô bởi vì photon có khối lượng nghỉ bằng 0; điều này cho phép tương tác có phạm vi tác dụng trên khoảng cách lớn. Giống như tất cả các hạt sơ cấp khác, photon được giải thích tốt bằng cơ học lượng tử và nó thể hiện lưỡng tính sóng hạt, các tính chất có của sóng lẫn của hạt.

Kỷ nguyên photon bắt đầu sau khi đa phần các lepton và phản-lepton hủy lẫn nhau tại cuối kỷ nguyên lepton, khoảng 10 giây sau Big Bang. Hạt nhân nguyên tử được tạo ra trong quá trình tổng hợp hạt nhân xuất hiện trong thời gian một vài phút của kỷ nguyên photon. Vũ trụ trong kỷ nguyên này bao gồm trạng thái vật chất plasma nóng đặc của các hạt nhân, electron và photon. Khoảng 380.000 năm sau Big Bang, nhiệt độ của Vũ trụ giảm xuống tới giá trị cho phép các electron có thể kết hợp với hạt nhân nguyên tử để tạo ra các nguyên tử trung hòa. Kết quả là, photon không còn thường xuyên tương tác với vật chất nữa và Vũ trụ trở lên "sáng rõ" hơn. Các photon có dịch chuyển đỏ lớn từ giai đoạn tạo nên bức xạ nền vi sóng vũ trụ. Những thăng giáng nhỏ trong nhiệt độ và mật độ phát hiện thấy trong CMB chính là những "mầm mống" sơ khai mà từ đó các cấu trúc trong Vũ trụ hình thành lên.[108]: 244–266

[hiện]

x

t

s

Timeline of the Big Bang

Các mô hình vũ trụ học

Mô hình dựa trên thuyết tương đối tổng quát

Bài chi tiết: Nghiệm của phương trình trường EinsteinXem thêm: Big Bang và Số phận sau cùng của vũ trụ

Thuyết tương đối rộng là lý thuyết hình học về lực hấp dẫn do Albert Einstein đưa ra vào năm 1915 và là miêu tả hiện tại của hấp dẫn trong vật lý hiện đại. Nó là cơ sở cho các mô hình vật lý của Vũ trụ. Thuyết tương đối tổng quát mở rộng phạm vi của thuyết tương đối hẹp và định luật vạn vật hấp dẫn của Newton, đưa đến cách miêu tả thống nhất về hấp dẫn như là tính chất hình học của không gian và thời gian, hay không thời gian. Đặc biệt, độ cong của không thời gian có liên hệ trực tiếp với năng lượng và động lượng của vật chất và bức xạ có mặt trong một thể tích cho trước. Liên hệ này được xác định bằng phương trình trường Einstein, một hệ phương trình vi phân riêng phần. Trong thuyết tương đối rộng, sự phân bố của vật chất và năng lượng xác định ra hình học của không thời gian, từ đó miêu tả chuyển động có gia tốc của vật chất. Do vậy, một trong các nghiệm của phương trình trường Einstein miêu tả sự tiến triển của Vũ trụ. Kết hợp với các giá trị đo về số lượng, loại và sự phân bố của vật chất trong Vũ trụ, các phương trình của thuyết tương đối tổng quát miêu tả sự vận động của Vũ trụ theo thời gian.[116]

Với giả sử của nguyên lý vũ trụ học về Vũ trụ có tính chất đồng nhất và đẳng hướng ở khắp nơi, có một nghiệm cụ thể chính xác của phương trình trường miêu tả Vũ trụ đó là tenxơ mêtric gọi là mêtric Friedmann–Lemaître–Robertson–Walker,

{\displaystyle ds^{2}=-c^{2}dt^{2}+R(t)^{2}\left({\frac {dr^{2}}{1-kr^{2}}}+r^{2}d\theta ^{2}+r^{2}\sin ^{2}\theta \,d\phi ^{2}\right)}📷

trong đó (r, θ, φ) là các tọa độ tương ứng trong hệ tọa độ cầu. Mêtric này chỉ có hai tham số chưa xác định. Đó là tham số không thứ nguyên tỷ lệ dịch chuyển độ dài (dimensionless length scale factor) R miêu tả kích thước của Vũ trụ như là một hàm số của thời gian; giá trị R tăng biểu thị cho sự giãn nở của Vũ trụ.[117] Chỉ số độ cong k miêu tả hình học của Vũ trụ. Chỉ số k được định nghĩa bằng 0 tương ứng cho hình học Euclid phẳng, bằng 1 tương ứng với không gian có độ cong toàn phần dương, hoặc bằng −1 tương ứng với không gian có độ cong âm.[118] Giá trị của hàm số R theo biến thời gian t phụ thuộc vào chỉ số k và hằng số vũ trụ học Λ.[116] Hằng số vũ trụ học biểu diễn cho mật độ năng lượng của chân không trong Vũ trụ và có khả năng liên hệ tới năng lượng tối.[80] Phương trình miêu tả R biến đổi như thế nào theo thời gian được gọi là phương trình Friedmann mang tên nhà vật lý Alexander Friedmann.[119]

Kết quả thu được cho R(t) phụ thuộc vào k và Λ, nhưng nó có một số đặc trưng tổng quát. Đầu tiên và quan trọng nhất, tỷ lệ dịch chuyển độ dài R của Vũ trụ sẽ không đổi chỉ khinếu Vũ trụ là đẳng hướng hoàn hảo với độ cong toàn phần dương (k=1) và có một giá trị chính xác về mật độ ở khắp nơi, như được lần đầu tiên chỉ ra bởi Albert Einstein.[116] Tuy vậy, trạng thái cân bằng này là không ổn định: bởi vì các quan sát cho thấy Vũ trụ có vật chất phân bố bất đồng nhất trên phạm vi nhỏ, R phải thay đổi theo thời gian. Khi R thay đổi, mọi khoảng cách không gian trong Vũ trụ cũng thay đổi tương ứng; dẫn tới có một sự giãn nở hoặc co lại trên tổng thể của không gian Vũ trụ. Hiệu ứng này giải thích cho việc quan sát thấy các thiên hà dường như đang lùi ra xa so với nhau; bởi vì không gian giữa chúng đang giãn ra. Sự giãn nở của không gian cũng giải thích lý do vì sao hai thiên hà có thể nằm cách nhau 40 tỷ năm ánh sáng, mặc dù chúng có thể hình thành ở một thời điểm nào đó cách đây gần 13,8 tỷ năm[120] và không bao giờ chuyển động đạt tới tốc độ ánh sáng.

Thứ hai, trong các nghiệm có một đặc tính đó là tồn tại kỳ dị hấp dẫn trong quá khứ, khi R tiến tới 0 và năng lượng và vật chất có mật độ lớn vô hạn. Dường như đặc điểm này là bất định bởi vì điều kiện biên ban đầu để giải phương trình vi phân riêng phần dựa trên giả sử về tính đồng nhất và đẳng hướng (nguyên lý vũ trụ học) và chỉ xét tới tương tác hấp dẫn. Tuy nhiên, định lý kỳ dị Penrose–Hawking chứng minh rằng đặc điểm kỳ dị này xuất hiện trong những điều kiện rất tổng quát. Do vậy, theo phương trình trường Einstein, R lớn lên nhanh chóng từ một trạng thái nóng đặc cực độ, xuất hiện ngay lập tức sau kỳ dị hấp dẫn (tức khi R có giá trị nhỏ hữu hạn); đây là tính chất cơ bản của mô hình Vụ Nổ Lớn của Vũ trụ. Để hiểu bản chất kỳ dị hấp dẫn của Big Bang đòi hỏi một lý thuyết lượng tử về hấp dẫn, mà vẫn chưa có lý thuyết nào thành công hay được xác nhận bằng thực nghiệm.[121]

Thứ ba, chỉ số độ cong k xác định dấu của độ cong không gian trung bình của không-thời gian[118] trên những khoảng cách lớn (lớn hơn khoảng 1 tỷ năm ánh sáng). Nếu k=1, độ cong là dương và Vũ trụ có thể tích hữu hạn.[122] Những vũ trụ như thế được hình dung là một mặt cầu 3 chiều nhúng trong một không gian bốn chiều. Ngược lại, nếu k bằng 0 hoặc âm, Vũ trụ có thể tích vô hạn.[122] Có một cảm nhận phản trực giác đó là dường như một vũ trụ lớn vô hạn được tạo ra tức thì từ thời điểm Vụ Nổ Lớn khi R=0 và mật độ vô hạn, nhưng điều này đã được tiên đoán chính xác bằng toán học khi k không bằng 1. Có thể hình dung một cách tương tự, một mặt phẳng rộng vô hạn có độ cong bằng 0 và diện tích lớn vô hạn, trong khi một hình trụ dài vô hạn có kích thước hữu hạn theo một hướng và một hình xuyến có cả hai đều là hữu hạn. Vũ trụ với mô hình dạng hình xuyến có tính chất giống với Vũ trụ thông thường với điều kiện biên tuần hoàn (periodic boundary conditions).

Số phận sau cùng của vũ trụ vẫn còn là một câu hỏi mở, bởi vì nó phụ thuộc chủ yếu vào chỉ số độ cong k và hằng số vũ trụ Λ. Nếu mật độ Vũ trụ là đủ đậm đặc, k sẽ có thể bằng +1, có nghĩa rằng độ cong trung bình của nó đa phần là dương và Vũ trụ cuối cùng sẽ tái suy sụp trong Vụ Co Lớn,[123] và có thể bắt đầu một vũ trụ mới từ Vụ Nẩy Lớn (Big Bounce). Ngược lại, nếu Vũ trụ không đủ đậm đặc, k sẽ bằng 0 hoặc −1 và Vũ trụ sẽ giãn nở mãi mãi, nguội lạnh dần đi và cuối cùng đạt tới Vụ đóng băng lớn và cái chết nhiệt của vũ trụ.[116] Các số liệu hiện tại cho thấy tốc độ giãn nở của Vũ trụ không giảm dần, mà ngược lại tăng dần; nếu quá trình này kéo dài mãi, Vũ trụ cuối cùng sẽ đạt tới Vụ Xé Lớn (Big Rip). Trên phương diện quan trắc, Vũ trụ dường như có hình học phẳng (k = 0), và mật độ trung bình của nó rất gần với giá trị tới hạn giữa khả năng tái suy sụp và giãn nở mãi mãi.[124]

6
26 tháng 1 2019

z thì ai tạo ra vũ trụ bt ko?

1 tháng 2 2019

Vũ trụ xàm lắm tạo nhóm về toán đi :V

''NGƯỜI DU HÀNH'' ĐÃ KHÁM PHÁ ĐƯỢC NHỮNG GÌ ? Trước khi ''Người du hành'' đến được sao Mộc thì hành tinh lớn mà chúng ta nhìn thấy này chỉ là một điểm sáng trong bầu trời đêm như hàng triệu năm nay mà tổ tiên chúng ta đã nhìn thấy. Những số liệu mà ''Người du hành'' gửi về đã làm thay đổi tất cả và từ đó về sau sao Mộc trở thành một trong những...
Đọc tiếp

''NGƯỜI DU HÀNH'' ĐÃ KHÁM PHÁ ĐƯỢC NHỮNG GÌ ?

Trước khi ''Người du hành'' đến được sao Mộc thì hành tinh lớn mà chúng ta nhìn thấy này chỉ là một điểm sáng trong bầu trời đêm như hàng triệu năm nay mà tổ tiên chúng ta đã nhìn thấy. Những số liệu mà ''Người du hành'' gửi về đã làm thay đổi tất cả và từ đó về sau sao Mộc trở thành một trong những mục tiêu thăm dò của con người. Từ những búc ảnh mà phi thuyền ''Người du hành'' số 2 gửi về có thể thấy được kỳ quan của vệ tinh số 2 sao Mộc mà lần đầu tiên nhân loại ghi lại được. Trong những bức ảnh này có thể nhìn thấy chi tiết đến độ rộng vài thước Anh, trên bề mặt vệ tinh số 2 này cái mà có người đã cho rằng giống như mạng lưới sông trên sao Hỏa là những đường thẳng và những đường cong ngang dọc cắt nhau tạo nên một mạng lưới rất phức tạp, chúng có thể là những gân núi hoặc những khe sâu và liệu chúng có giống với kết cấu tảng ghép của Trái Đất hay không? Theo kết quả xử lý của máy vi tính thì trên vệ tinh số 2 sao Mộc có một đặc trưng giống với hố sao băng nhưng hố sao băng này đã bị lấp đầy. Ngoài ra, việc xử lý trên máy vi tính cũng có tác dụng rất lớn với một phát hiện quan trọng khác của ''Người du hành'' đối với vệ tinh số 1 sao Mộc. Từ Trái Đất nhìn qua kính viễn vọng chúng ta có thể thấy vệ tinh này có ánh sáng rất kì lạ. Chúng ta biết lưu huỳnh đã từng thông qua một phương thức nào đó tràn ra bề mặt vệ tinh số 1 sao Mộc và bắn ra đến vòng mây lớn thể khí bao quanh sao Mộc và đây cũng là một trong những nguyên nhân mà ''Người du hành'' số 1 phải tiếp cận vệ tinh số 1 này. Ở một số chỗ trên vệ tinh số 1 giống như những miệng núi lửa, điều này rất khó khẳng định, sau đó một thành viên của tổ nhiệm vụ ''Người du hành'' đã dùng máy tính tăng cường đồ họa vùng rìa của vệ tinh số 1 sao Mộc để hằng tinh phía sau nó hiện rõ ra.

Ngày thứ tư sau khi ''Người du hành'' số 1 bay đến cận kề sao Mộc thì xuất hiện một cảnh tượng, cảnh tượng mà sau khi được phóng to lên có thể nhìn thấy ở góc phía trái có một vật hình trăng đầu tháng xuất hiện đúng vào chỗ được nghi ngờ là vị trí của núi lửa và trong thực tế cũng đúng là lần núi lửa đang phun. Đây là núi lửa hoạt động đầu tiên được phát hiện bên ngoài Trái Đất, về sau chúng ta còn phát hiện trên vệ tinh số 1 này có nhiều núi lửa trong đó có 9 núi lửa thường xuyên hoạt động và khoảng vài trăm núi lửa đã tắt. Khi núi lửa hoạt động, lưu huỳnh và các nguyên tố khác phun ra bên ngoài vệ tinh số 1 và đậy chính là câu trả lời tại sao xung quanh sao Mộc có một lớp mây lưu huỳnh. Dung nham tan ra thành những dòng sông nhỏ chảy khắp nơi và đây có thể là nguyên nhân làm cho vệ tinh này có màu sắc đặc biệt. Rất có thể dưới lòng đất có độ tuổi vài nghìn năm của vệ tinh này còn có một biển lưu huỳnh lỏng lớn mà núi lửa chính là cửa để lưu huỳnh phun ra.

Chúng ta biết được vòng sáng sao Thổ vào những năm 1980 theo các tư liệu mà ''Người du hành'' gửi về. Những tư liệu này đã tiết lộ bảy dải vòng của sao Thổ, trong mỗi dải vòng lại có hàng trăm vòng nhỏ. ''Người du hành'' đã ghi lại quá trình biến hóa thần bí này bất kể là nhỏ nhất và ghi chép lại từng vòng cũng như khoảng cách giữa chúng. Khe hở lớn nhất giữa các vòng mang tên Casini rộng 4.000km. Vòng sáng sao Thổ đến nay vẫn là một điều kì bí, chúng rất có thể là những mảnh vỡ nham thạch do ở sát sao Thổ nên không ngừng ngưng tụ lại thành vệ tinh và rất có thể vài trăm năm sau vòng sáng sao Thổ sẽ tan đi.

''Người du hành'' đã tiến hành quan sát sao Thổ và các vệ tinh của nó. Sao Thổ có 31 vệ tinh đã được phát hiện. Vệ tinh số 1 của nó là một trong những vệ tinh đặc biệt nhất được tạo thành do băng và nham thạch. Trên bề mặt của nó vẫn còn dấu vết của một hố thiên thạch và nếu như thiên thể tác giả của hố thiên thạch này lớn hơn một chút thì rất có thể vệ tinh số 1 này đã biến thành một vòng sáng sao Thổ rồi. Vệ tinh số 2 lớn gấp đôi nhưng cũng chỉ có 500km, bên trên là băng và rất có thể là do nước phía dưới tràn ra tạo thành. Vệ tinh số 3 có đường kính 400km và có một khe núi lớn, vệ tinh số 4 của nó cũng tương tự như vậy nhưng nó có nửa bán cầu đẹp hơn nửa bán cầu còn lại, bề mặt của nó có những dãy núi hình vòng và những khe nông bị băng tuyết che phủ. Vệ tinh số 8 có một nửa bán cầu có màu đen như than còn nửa bán cầu kia thì lại rất sáng. Vệ tinh nhỏ số 7 giống như một chiếc bánh hambơgơ. Vệ tinh lớn nhất của sao Thổ là vệ tinh số 6 lớn hơn cả sao Thủy, do nhà thiên văn học Huygens người Hà Lan phát hiện ra năm 1655, nó giống như Trái Đất thời kì đóng băng. Dù vệ tinh số 6 này bị mây che phủ nhưng ''Người du hành" vẫn thăm dò được ở đó có dấu vết của các phân tử hữu cơ - chính thứ hợp chất này đã tạo nên sự sống ngoài Trái Đất, tuy nhiên chúng ta chỉ có thể suy đoán còn đối với lớp mây dày đặc thì "Người du hành" cũng chẳng có cách nào phát hiện gì hơn được.

Sau khi bay qua sao Thổ "Người du hành" tiếp tục bay về phía sao Thiên Vương và sao Hải Vương. Máy thăm dò cũng tiếp tục gửi về Trái Đất diện mạo địa hình của các hành tinh này và thăm dò cấu tạo địa chất của chúng. Năm 1986, "Người du hành" số 2 cũng đã phát hiện ra sao Thiên Vương có tất cả 24 vệ tinh. Sao Hải Vương cũng được phát hiện có 11 vệ tinh. Cho đến hiện nay máy thăm dò của loài người vẫn chưa tới được sao Diêm Vương - sao xa nhất của hệ Mặt Trời.

2
3 tháng 2 2019

k bt vì ng ta khám phá chứ mk có khám phá đâu mà mk bt

9 tháng 2 2019

Nhô các bnbnbn, kb nha #ttt#

NHỮNG QUỐC GIA NÀO XÂY DỰNG NÊN TRẠM KHÔNG GIAN VŨ TRỤ ? Phi thuyền vũ trụ và máy bay hàng không vũ trụ là phương tiên đón đưa các nhà du hành vũ trụ, còn trạm không gian mới là nơi các nhà du hành làm việc và sinh hoạt. Trong trạm không gian vũ trụ Hòa bình của Liên Xô, các nhà khoa học đã tiến hành nhiều các thử nghiệm khoa học trên nhiều các lĩnh vực. Ngày 23 tháng 3 năm 2001 lịch sử huy...
Đọc tiếp

NHỮNG QUỐC GIA NÀO XÂY DỰNG NÊN TRẠM KHÔNG GIAN VŨ TRỤ ?

Phi thuyền vũ trụ và máy bay hàng không vũ trụ là phương tiên đón đưa các nhà du hành vũ trụ, còn trạm không gian mới là nơi các nhà du hành làm việc và sinh hoạt. Trong trạm không gian vũ trụ Hòa bình của Liên Xô, các nhà khoa học đã tiến hành nhiều các thử nghiệm khoa học trên nhiều các lĩnh vực. Ngày 23 tháng 3 năm 2001 lịch sử huy hoàng trong suốt 15 năm của trạm Hòa bình đã khép lại, trạm này đã được cho rơi xuống Nam Thái Bình Dương theo quỹ đạo đã dự tính. Trên cơ sở những kinh nghiệm mà trạm Hòa bình tích lũy được, trạm không gian quốc tế - một căn cứ trên không nữa của nhân loại sẽ được vận hành trong nay mai.

Một cần cẩu đang vươn cánh tay dài đưa một cấu kiện thép vào đúng vị trí, những người công nhân xuất hiện, họ leo lên công trình và dùng các công cụ cố định những cấu kiện này lại; chúng ta có thể thấy được cảnh lao động này ở khắp mọi nơi trên Trái Đất nhưng điểm khác ở đây là họ đang làm việc trên độ cao cách mặt đất 400km. Và họ rất vinh dự bởi công trình họ đang làm chính là trạm không gian quốc tế. Trạm không gian quốc tế là hợp tác phi quân sự lớn nhất trong lịch sử nhân loại với sự tham gia của 16 nước và các vùng lãnh thổ trên Trái Đất như Canada, Mỹ, Nhật, Nga, Braxin và Cục Không gian Châu Âu. Công trình này có ý nghĩa thời đại giống như ý nghĩa lịch sử mà nhân loại đã xây dựng nên kim tự tháp cách đây mấy nghìn năm. Trung tâm của công trình là 6 khoang thực nghiệm với rất nhiều căn phòng, mỗi nhà du hành vũ trụ có thể có tới 6 căn phòng. Một đợt du hành của một nhà du hành vũ trụ thường kéo dài 90 ngày, trạm không gian này cung cấp cho họ sống và sinh hoạt tốt hơn nhiều so với trạm Hòa bình trước kia. Trạm không gian này tiêu tốn đến 100 tỷ đô la Mĩ, nó sẽ tiếp tục sứ mệnh mà trạm Hòa bình chưa hoàn thành hết và mục tiêu chủ yếu là kiểm tra các phản ứng của có thể sống lâu ở trong không trung làm cơ sở cho việc đưa người lên sao Hỏa.

Với tinh thành hợp tác xây dựng công trình không gian, chúng ta tin rằng loài người sẽ có những bước tiến xa hơn trong nghiên cứu vũ trụ. Trong tiến trình thăm dò khám phá vũ trụ, một câu hỏi luôn được đặt ra là liệu có sự sống trí tuệ ở ngoài Trái Đất hay không? Cho dù những câu chuyện về người ngoài hành tinh bị phủ nhận nhưng con người vẫn không từ bỏ, thậm chí vẫn tiếp tục phát các tín hiệu của mình ra ngoài, chế tác ra danh thiếp của Trái Đất. Tấm danh thiếp này phản ánh vị trí của Trái Đất trong hệ Ngân Hà, có hình vẽ một nam và một nữ và tàu thăm dò ''Người du hành'', một đĩa tiếng ghi lại các thứ tiếng đại diện cho nền văn minh Trái Đất và mọi người đều hi vọng có một nền văn minh ngoài Trái Đất sẽ phát hiện ra và biết được sự tồn tại của con người.

0
akari từng muốn được giống như Ichigo-chan, tuy nhiên, bây giờ cô ấy biết rằng mình cần phải tìm thấy ánh sáng của riêng mình. Đây là câu chuyện của cô ấy! \\\\\\\\\\\\\\\" - Akari khi cô bắt đầu để tìm cảm giác tự mình ở phần cuối củaEpisode 77 . Ozora Akari Akari Ozora ( 大空あかりOzora Akari ) là một trong những nhân vật chính từ Starlight Academy những người ra mắt vào nửa sau của mùa giải...
Đọc tiếp

akari từng muốn được giống như Ichigo-chan, tuy nhiên, bây giờ cô ấy biết rằng mình cần phải tìm thấy ánh sáng của riêng mình. Đây là câu chuyện của cô ấy! \\\\\\\\\\\\\\\" - Akari khi cô bắt đầu để tìm cảm giác tự mình ở phần cuối củaEpisode 77 . Ozora Akari Akari Ozora ( 大空あかりOzora Akari ) là một trong những nhân vật chính từ Starlight Academy những người ra mắt vào nửa sau của mùa giải thứ hai và bộ sưu tập thứ 4 của dữ liệu Carddass Aikatsu! 2014 Series. Tính Season 3, Akari là nhân vật trung tâm mới, thành công Ichigo Hoshimiya. Cô là một người dễ thương kiểu thần tượng và thương hiệu chính của cô là Dreamy Crown .Akari có đôi mắt màu đỏ tươi và mái tóc màu nâu mật ong. Tóc của cô là trong một bob nhiều lớp với một chút kéo lên vào một bên đuôi tóc cong bởi một chiếc nơ màu hồng. Trong lần xuất hiện đầu của cô, Akari đã có mái tóc dài và mặc một chiếc nơ màu hồng, do thực tế rằng cô ấy là một fan hâm mộ lớn của Ichigo. By Episode 96 , tóc Akari của vẫn còn nhiều lớp, nhưng đã phát triển đến nơi nó là chiều dài trung bình. Vào lúc bắt đầu của Season 4 , Akari bắt đầu mặc một phần tóc của cô trong một bím tóc đó đi qua đỉnh đầu của mình và không còn mặc một kiểu tóc đuôi ngựa bên. Tóc của cô cũng đã nhận được chú ý wavier.Akari là một cô gái vụng về, hơi lo lắng, nhưng vẫn vui vẻ. Cô rất ngưỡng mộ Ichigo đến độ muốn là một thần tượng như cô ấy. Cô xuất hiện đầu khóc và nhận được thất vọng một cách dễ dàng, nhưng dù sao cũng được xác định. Akari cũng khá đàn hồi và có thể nhanh chóng phục hồi từ những sai lầm của mình. Trong tập 96 , Akari đã phát triển thành một người muốn tỏa sáng với ánh sáng của riêng mình. Cô đã trở thành một khó làm việc và một thần tượng thậm chí còn quyết tâm hơn những người không còn mong muốn trở thành như Ichigo. Cô không còn vụng về và vẫn tràn đầy năng lượng và vui vẻ, nhưng có thể là trò hề hài hước dễ bị theo thời gian, giống như người thầy và người tiền nhiệm của mình.Ozora ( 大空 ) O ( 大 ) có nghĩa là lớn và kết hợp với Zora ( 空sora ) có nghĩa là bầu trời, Ozora nghĩa lớn bầu trời / rộng lớn. Như đã nói trong Episode 177 , điều này đề cập đến cô trở nên lớn hơn / bao gồm mặt trời và mặt trăngAkari ( あかり ) nghĩa là ánh sáng hoặc độ sángAkari đầu tiên đã trở thành một fan hâm mộ của Ichigo khi cô đang học lớp 4. Cô đã đi qua các chương trình truyền hình đặc biệt Giáng sinh ( Tập 12 ) và đã ngạc nhiên trước Ichigo đã giúp đỡ bạn bè của cô và mang lại nụ cười cho mọi người phải đối mặt. Mong muốn được như vậy, cô bé thu hết can đảm để giúp một cô gái đấu tranh trên các dầm không đồng đều trên sân trường mình và sau đó, bắt đầu xuống đường của fandom mình.Nó đã được tiết lộ trong tập 101 mà Akari tham dự buổi hòa nhạc ra mắt của Ichigo cho Mermaid Song Ngư Coord và được chụp bởi buổi biểu diễn của cô. Cô quyết định rằng cô muốn trở thành một thần tượng và thử giọng cho Starlight, nhưng thậm chí không đến gần để làm cho việc cắt giảm lần đầu tiên của mình xung quanh..Sự ngạc nhiên! Fan của Ichigo Ra mắt chính thức Akari là trong tập 76 của anime khi cô xuất hiện trong phòng khách nhà mình xem các quảng cáo cho Starlight Trường thần tượng Caravan trong đó nói rằng những người áp dụng và thất bại để có được thành Starlight lần đầu tiên, có thể thử một lần nữa với tìm kiếm thần tượng nước này . Kích thích, Akari nhảy tại cơ hội để không chỉ nhận được vào Starlight, nhưng để đáp ứng Ichigo là tốt. Akari đã không xuất hiện cho đến khi buổi thử giọng cuối cùng, nơi mà trước khi đến lượt của mình để đi trên sân khấu đến, cô tập trung quá nhiều vào Ichigo và kết thúc thực hiện một sai lầm. Điều này, cùng với sự xuất hiện tổng thể của cô mà bởi sau đó nhân đôi của Ichigo, để lại ấn tượng trong lòng khán giả và ban giám khảo.Niềm đam mê của cô được ghi nhận của Ran và Aoi, người đã gọi cô là \\\\\\\\\\\\\\\"dữ dội\\\\\\\\\\\\\\\". Akari sau đó cho thấy ba hình ảnh của những ngày cô đã cố gắng để có được vào Starlight và làm thế nào họ có thể không có tài năng, nhưng cô sẽ không lùi bước trong giấc mơ mà không chiến đấu. Trong khi cô có thể mess lên, cô sẽ cho nó cô tất cả và tiếp tục thực hiện \\\\\\\\\\\\\\\" Hoạt động thần tượng! \\\\\\\\\\\\\\\" Trong suốt buổi biểu diễn, Akari làm cho sai lầm sau khi sai lầm. Nhưng giữa những bước đi sai lầm, Ichigo đã nhìn thấy một thần tượng trong cô và vì lý do đó, đã chọn cô là người chiến thắng của cuộc thi thử giọng Caravan thức. Từ đó, mặc dù vẫn còn bị sốc, Akari Ozora bắt đầu con đường của thần tượng-dom cô. Với mục tiêu trở thành một sao gốc ☆彡sửa Sau khi bỏ lỡ xe buýt vào ngày đầu tiên của cô, Akari đang đẩy hành lý của cô lên đồi để Starlight trường trong khi hát Lịch Girl . Khi cô ấy làm cho vào đỉnh đồi, cô bắt đầu rơi nước mắt của hạnh phúc, thấy rằng cuối cùng cô cũng đã làm cho nó để Starlight. Sau đó, cô có một hình ảnh của mình tại cửa trước của nhà trường để kỷ niệm này, mà không biết rằng một thế giới đáng kinh ngạc sẽ chờ cô ấy. Trước khi tour diễn bắt đầu, Akari nhận ra rằng đây là nơi họ công bố kết quả kỳ thi nhập đầu tiên của cô. Đó là lần đầu tiên cô thất bại thảm hại và thậm chí không đến gần để đi qua, nhưng bây giờ cô ấy chính thức là một sinh viên của trường Starlight. Một lần nữa giếng phấn khích của cô lên và làm tour diễn tiếp tục, được dẫn đến hiệu trưởng Orihime văn phòng \\\\\\\\\\\\\\\'s. Orihime tự giới thiệu và chúc mừng thần tượng mới trên đi qua, lưu ý rằng trong khi ca hát và nhảy múa của mình vẫn là một cái gì đó để được mong muốn, cô có thể cảm nhận được những tiềm năng vô hình trong cô. Akari câu hỏi này và Orihime giải thích rằng Ichigo là thẩm phán, người qua cô ấy, và nói rằng cô ấy phải có nhìn thấy một cái gì đó đặc biệt và vui mừng nhận thấy loại đường Akari sẽ làm để trở thành một thần tượng. Khi đến phòng mình, cô gặp Yū Hattori , bạn cùng phòng mới của cô. Không lâu sau khi bắt đầu giải nén Akari, cô nhận được một cuộc gọi từ cô ấy mẹ nói rằng cô ấy trên TV ngay bây giờ và đúng đủ, cô ấy đã. Ichigo, Aoi, và Ran đã được phỏng vấn về những thần tượng Caravan và cô được chú ý vì cường độ của mình, làm thế nào cô đứng ra, và chỉ tại sao Ichigo chọn cô ấy. Ichigo tiết lộ rằng cô đã nhìn thấy một thần tượng trong cô, nhưng trước khi cô có thể xây dựng thời gian chạy ra ngoài để lại Akari khó chịu vì không nhận được một câu trả lời thẳng. Sau đêm đó, Akari nhận được một email từ Orihime, nói rằng Ichigo muốn cô thực hiện với cô sống tiếp theo của cô khiến cô bị sốc. Ngày hôm sau, trong khi Akari là chờ đợi cho Ichigo, cô nghĩ về làm thế nào cô ấy nhận được một bài học từ thần tượng của mình mà làm cho cô lo lắng và phấn khích. Ichigo đến và thông báo cách Akari giống cô, sau này tiết lộ mong muốn của mình để được như nhiều như cô có thể. Hai mang về với kỹ năng thể chất không thể đoán trước của Ichigo dãy gây ấn tượng Akari liên tục. Tại một số điểm sau đó, sau khi có công việc sau ngày kháng cáo đặc biệt, hai mất một break. Ichigo cho Akari các bản sao của lời bài hát \\\\\\\\\\\\\\\" gốc sao ☆彡 ,\\\\\\\\\\\\\\\" bài hát mà họ sẽ thực hiện cho Aikatsu Navi sống. Khi đọc lời bài hát, Akari đi qua đường \\\\\\\\\\\\\\\" với mục tiêu là ngôi sao \\\\\\\\\\\\\\\" và nói cho Ichigo rằng cô là ngôi sao cô ấy nhắm đến, nhưng không có vấn đề bao nhiêu cô cố gắng cô không đến gần hơn nữa để được như cô ấy. Điều này làm cho Ichigo ngạc chỉ lý do tại sao cô ấy đã chọn Akari và vẫn lên muộn nhìn qua lời bài hát, tìm kiếm câu trả lời của cô. Buổi sáng đi và do đó, thời gian cho các buổi hòa nhạc, nhưng trước khi họ đi trên, Ichigo nói với Akari rằng cô ấy là một ngôi sao, không phải của mình. Điều này tạo ra tiếng vang trong Akari, như Ichigo thông báo rằng cô đã được lựa chọn bởi vì ánh sáng Ichigo saw- một cô không thể rời mắt khỏi. Ánh sáng của một thần tượng, và mặc dù nó nhỏ, nó là của cô. Sau này, họ tiến tới sân khấu với Akari quản lý để kéo ra một phúc thẩm dress . Khi buổi biểu diễn kết thúc, Ichigo chúc mừng Akari vào một hiệu suất tuyệt vời sau đó đứng ra. Sau đêm đó, Akari nhận ra rằng cô phải tạo ra ánh sáng của riêng mình và cắt tóc của cô, nói rằng đây là câu chuyện của cô, như một dấu hiệu của cô trở thành chính mình. Aikatsu! Boot Camp Akari đồng hồ về một báo cáo liên quan đến việc sắp tới Cup Đối tác trong khi ngồi trong phòng ăn trưa khi Orihime đi kèm theo để trả cho cô một lần. Cô mang đến hiệu suất kém ở trường, và chỉ cho cô một tờ rơi cho các trại Aikatsu Boot, một chương trình mới để giúp thần tượng trau dồi tài năng và kỹ năng của họ để cải thiện bản thân. Trở lại phòng ký túc xá của cô đêm đó, Akari đang thảo luận tình hình với Yū; ai đặt vấn đề tại sao cô ấy đã đồng ý mà không làm bất kỳ nghiên cứu đầu tiên. Orihime đề nghị nó vì vậy cô cảm thấy rằng nó là tốt nhất để chỉ đồng ý ngay, nhưng cô bắt đầu băn khoăn là Yu tiết lộ những tin đồn cô nghe và nhìn lên một số nhận xét. Sáng sớm hôm sau, Akari lá cho trại. Trong khi lo lắng cho sự kiện này có thể được thực sự khó khăn, cô cũng nhận thức được thế nào xấu cô thực hiện ngay bây giờ. Trong khi đó, Orihime và Johnny cũng thảo luận về các sự kiện không may. Orihime nghĩ rằng trong khi Akari có thể không quá lớn bây giờ, nếu cô ấy có thể tìm ra những điều quan trọng trong khi ở trại khởi động, cô ấy sẽ trở nên tốt hơn cho nó. Trên xe buýt, Akari ngồi ở phía sau của mình. Nhiều người trong số các cô gái vẻ lo lắng, nhưng cô cố gắng tập trung vào cách thức tốt này sẽ cho cô ấy. Khi họ đến các bến cảng và được buộc vào một chiếc thuyền, trong đó đưa họ đến một hòn đảo kỳ lạ. Ở đó, các cô gái được chào đón bởi các huấn luyện viên, Sergeant Pepper. Anh ta nói với tất cả các cô gái bắt đầu chạy đến khu vực đầu tiên và Akari bị bắt bởi một cây gậy trên mặt đất và kéo mạnh xuống. Cô nhanh chóng đưa ra để bắt kịp với những người khác và được hiển thị làm điều tương tự Day tiếp theo với việc bổ sung các bản ghi. Akari nhận ra rằng đây không phải là những gì cô ấy muốn, và làm thế nào đằng sau cô là không có gì khó khăn khi cô cố gắng. Lần này cô nhận ra cô là một mình và rơi vào thất bại. Nó sau đó được Sergeant Pepper nói với các cô gái rằng tất cả mọi thứ họ làm là chỉ một ấm lên. Bây giờ họ cần phải xây dựng một sân khấu trên đảo này để biểu diễn. Họ chia tay nhau cố gắng tìm những điều trên, nhưng sớm nhận ra rằng họ cần phải làm việc gần nhau hơn. Cô và các cô gái tập hợp lại ở một phần khác của hòn đảo, cố gắng để xác định thiết kế sân khấu. Trong thời gian này, một trong các cô gái nhận Akari và mang lên cắt mái tóc của mình. Akari thừa nhận với họ rằng cô không phải là rất tài năng hay tốt với hiệu suất, và trái phiếu với các cô gái khi họ thừa nhận không bao giờ thực hiện trước khi một trong hai. Trong khi họ có thể nhảy múa trong đào tạo, thực tập, nó phải cảm thấy thực sự khác nhau để làm điều tương tự trước khi một khán giả lần đầu tiên. Các cô gái sau đó quyết định để cho Akari quyết định trên một thiết kế sân khấu, bởi vì cô đã có kinh nghiệm nhất từ ​​tất cả. Họ thể hiện Sergeant Pepper thiết kế và ông đồng ý cho nó và đưa các cô gái đến công cụ kho. Anh nói với họ rằng nếu có một cái gì đó họ không biết làm thế nào để sử dụng, họ có thể yêu cầu anh ta. Sau đó nó được Akari nhớ lại thời Ichigo chặt một cây cho người bạn của mình. Cô được lấy cảm hứng từ đó, nhưng cô chưa bao giờ thực sự sử dụng một chiếc rìu trước. Các cô gái được tiếp cận bởi Ichigo, người giúp Akari để giải phóng rìu. Cô bị sốc khi tìm thấy Ichigo có, cũng như Ran và Aoi. Akari hỏi tại sao họ đến, nhưng Ichigo đầu tiên giải thích về cách cô đã gặp Sergeant Pepper ở Mỹ. Cô đã được thưởng thức một bữa ăn nhẹ khi cô nhìn thấy một tấm áp phích quảng cáo một trại huấn luyện Idol. Nó có vẻ như thú vị để cô tham gia lên. Nghe lời như vậy, Akari và các cô gái khác trở thành cảm hứng cho một lần nữa. Ichigo giúp các cô gái tìm hiểu thêm về việc sử dụng các công cụ như rìu và họ xem như cây rơi xuống đất. Sau đó, tất cả mọi người bắt đầu làm việc với nhau, kéo cây đi, cắt chúng xuống và thành hình mà họ cần. Akari đã trở nên rất lấy cảm hứng từ tất cả những điều này và cô ấy thực sự muốn làm tốt nhất của mình cho tất cả những người bạn mới của cô đã không bao giờ nhận được để thực hiện trước. Tối hôm đó, Akari thảo luận về kinh nghiệm của mình vào trại với Ichigo. Akari thừa nhận rằng cô không hề biết rằng cô sẽ nhận được cùng rất tốt với những người khác, và trong khi nó có vẻ đáng sợ lúc đầu, cô đã có rất nhiều niềm vui và cô rất vui khi cô ấy đến bây giờ. Cô cũng nhận ra rằng cô thực sự không phải là một mình. Sáng hôm sau, Sergeant Pepper chúc mừng các cô gái về công việc của họ cũng được thực hiện. Sau đó ông hỏi ai sẽ thực hiện đầu tiên và họ tìm đến Akari và cô ấy hỏi nếu cô ấy có thể thực hiện với Ichigo. Cô muốn đứng trên sân khấu với cô ấy một lần nữa nhiều hơn thì bất cứ điều gì khác. Với các cô gái thay đổi vào coords lựa chọn của họ trước khi xuất hiện trên sân khấu, nơi họ thực hiện để \\\\\\\\\\\\\\\"Idol Hoạt động!\\\\\\\\\\\\\\\". Sau màn trình diễn của họ, Akari trả về nhà và nói với bạn bè của cô tất cả về những niềm vui của bà. Các cô gái từ trại trôi qua vừa chào cô và Akari lại tiếp tục thảo luận về những thứ mà đi vào trong khi tại trại. Như này đi về, Orihime ngắm nhìn cô ấy từ cửa và bình luận về cách Akari đã nhận ra những gì là thực sự quan trọng từ Ichigo. Summertime và phúc thẩm đặc biệt Phần 1 Trong khi đấu tranh để thực hiện một sự hấp dẫn đặc biệt, Akari tham gia trại huấn luyện của Johnny Bepp cho mùa hè. Trước khi cô bắt đầu đào tạo, cô nói với mẹ cô, người mua cho cô một quả dưa hấu, rằng cô ấy sẽ không về nhà cho kỳ nghỉ hè. Trong thời gian đào tạo, Akari giữ trong tâm trí những điều Johnny Bepp nói là những điểm quan trọng của một sự hấp dẫn đặc biệt, nhưng cô vẫn còn đấu tranh để thực hiện một lời kêu gọi trên tấm bạt lò xo do sự căng thẳng. Ngày hôm sau, Akari tiếp tục cải thiện kéo dài và la hét theo đơn đặt hàng của Johnny, nhưng cô vẫn quản lý để mess lên trên tấm bạt lò xo. Trong khi cung cấp một quả dưa hấu từ Koharu Ozora, Johnny nói với Akari rằng cô ấy là thần tượng duy nhất còn lại để thực hiện lời kêu gọi đặc biệt của mình, nhưng ông cũng lưu ý rằng cố gắng sẽ không thành vấn đề và cho dù nếu cô ấy có thể hoặc không có thể sẽ. Trở lại trên tấm bạt lò xo cho thực hành, Akari bắt đầu xé bắt đầu tin rằng cô ấy không được phù hợp cho trở thành một thần tượng. Phần 2 Trong khi cố gắng để cải thiện, Akari nhớ lại những lần thất bại của mình tại một sức hấp dẫn đặc biệt. Akari nhớ lần bà kêu gọi với Ichigo và khi cô gặp thần tượng khác tương tự như cô, và làm thế nào tất cả họ thúc đẩy bà tiếp tục được cải thiện. Tuy nhiên, Akari ghi nhận với chính mình rằng cô phải làm thế nào để giúp đỡ bản thân và tiếp tục tập luyện. Sau đó, Ichigo gặp Akari, người đã ra khỏi phòng đào tạo, và quan sát cánh tay băng bó của cô nói với cô rằng cô sẽ tiếp tục ủng hộ cô ấy. Tại ký túc xá của cô, Akari là hạnh phúc mà Ichigo vẫn ủng hộ cô ấy, nhưng cô ấy vẫn cạn kiệt từ thực tế và đưa ra những cô ngủ. Sáng hôm sau, Akari đi trở lại những tấm bạt lò xo với cảm giác đau, nhưng sau đó cô gặp Ichigo lại một lần nữa nói với cô ấy rằng cô ấy sẽ lắng nghe bất cứ điều gì cô muốn nói với cô ấy. Akari khóc khi kể Ichigo rằng bà tin rằng lời nói của cô về việc trở thành một thần tượng là sai. Ichigo nói với Akari rằng cô ấy vẫn có một ánh sáng chiếu vào, ngay cả cô mặc dù nó không thể nhìn thấy, và cô gia nhập của mình vào thực hành của cô.Ichigo giúp Akari cải thiện tư thế của mình và đặt ra nhằm thu hút, và Akari ngạc nhiên chính mình với sức hấp dẫn đặc biệt của riêng mình. Ngày thi cuối cùng của cô, Akari có thể thực hiện flash dễ thương mà cho phép mình để vượt qua bài kiểm tra của mình. Sau kỳ thi, cô được chúc mừng bởi Orihime, Johnny, và Ichigo ichigo Hoshimiya Ichigo (星宮 いちご) là nhân vật được tập trung chính của series Aikatsu! trong mùa 1 và mùa 2 Cô là học viên của Starlight Academy. Tính cách vui vẻ, hồn nhiên, lạc quan và đáng yêu chính là điểm mạnh của cô.Cô là một Idol loại Cute, và thương hiệu thời trang yêu thích của cô là Angely Sugar. Cô xếp hạng 1 trong Bảng xếp hạng Aikatsu!. Ban đầu, cô hoạt động Solo, nhưng sau đó, cùng với Kiriya Aoi, Shibuki Ran lập thành một nhóm nhạc ba người mang tên Soleil. Ở mùa 2 Anime, cô cùng Otoshiro Seira lập thành nhóm nhạc song ca 2wingS, nhóm nhạc đã chiến thắng WM tại Twinkle Star Cup. Trong Aikatsu! The Movie, Ichigo là idol đứng đầu, thay thế cho Mizuki. Mục lục[hiện] Lý Lịch Ichigo là một học sinh năm nhất trường trung học và là người làm trong tiệm Bento của gia đình mình.Cô ấy dành rất nhiều thời gian để giúp mẹ của mình, Ringo Hoshimiya - phục vụ khách hàng với những hộp bento của gia đình. Cũng chính vì điều này, vị giác của cô rất tinh tế. Bạn thân của cô ấy là Aoi Kiriya, một cô gái thông minh với rất nhiều thông tin về idol. Ichigo cũng thừa nhận cô là một \\\\\\\\\\\\\\\"Chuyên gia Idol\\\\\\\\\\\\\\\". Ichigo rất vô tư, tât cả những gì cô làm là giúp mẹ trong cửa hàng bento. Cô đã không nghĩ rằng mình có thể trở thành một idol, cho tới khi cô xem buổi biểu diễn của Mizuki với Aoi và em trai cô - Raichi, cũng là một fan hâm mộ idol, cô đã lấy được nguồn cảm hứng từ đó.Được cỗ vũ bới Aoi, Raichi và mẹ cô, Ichigo đã tham gia kì tuyển sinh của trường Starlight Academy để bắt đầu sự nghiệp idol của mình. Ichigo rất lạc quan và làm việc chăm chỉ để trở thành idol hàng đầu. Cô ấy không có nhiều kiến thức về ngành giải trí, vì thế Aoi luôn dạy cô. Cô ấy thực hiện nhiều hoạt động tại Starlight Academy, và bắt đầu học được như thế nào để trở thành một idol thực sự. Khi thực hiện bài thi của mình, Ichigo đã thực hiện được một Special Appeal và đã gây được chú ý với cô hiệu trưởng, trong khi Aoi có thể trả lời chính xác tất cả các câu hỏi về idol trong bài thi viết. Mã thí sinh của Ichigo là 367. Ngoại hình Ichigo sở hữu mái tóc vàng óng ả, gợn sóng và dài đến ngang thắt lưng cùng đôi mắt long lanh màu đỏ ruby. Cô luôn đeo chiếc băng đô có đính một chiếc nơ to màu đỏ, thứ đã trở thành điểm đặc biệt của cô. Là học sinh của Starlight Academy, cô luôn mặc đồng phục phù hợp với từng mùa. Khi luyện tập, cô sử dụng đồng phục thể dục hồng, với hai ống quần được kéo lên khoảng 3cm và cổ áo để dựng lên. Ngoài ra, để thuận tiện cho việc vận động, cô thường buộc tóc thành hai chùm lớn khi luyện tập Tính cách Ichigo là một cô gái hồn nhiên, hoạt bát, vui vẻ nhưng cũng lắm lúc thật ngốc nghếch. Tuy nhiên, cô là người luôn sẵn sàng giúp đỡ bạn bè và mọi người xung quanh, đem lại cho họ tiếng cười, chia sẽ với họ những buồn vui và luôn nghĩ cho người khác, giống như mẹ của cô. Là một Idol, tuy nhiên ban đầu cô chẳng có chút kiến thức nào. Tuy nhiên, với bản lĩnh và nghị lực phi thường, cùng quyết tâm tiến lên phía trước, cô đã làm nên những điều kỳ diệu mà không phải ai cũng làm được, đến mức Amahane-sensei, nhà thiết kế tài ba của thương hiệu Angely Sugar cũng phải khẳng định rằng, Ichigo đã trở thành nguồn cảm hứng cho mỗi thiết kế của bà, và bà cũng thật hạnh phúc khi được thiết kế cho Ichigo. Sự Kiện Trở thành một Idol Ichigo xuất hiện lần đầu trong tập 1, làm việc với mẹ và em trai trong cửa hàng bento của gia đình họ. Sau khi cửa hàng đóng, Ichigo chú tâm vào việc giúp mẹ dọn dẹp. Ringo nói với con gái mình rằng cô nên nghĩ về việc mình sẽ làm gì sau này, nhưng Ichigo trả lời rằng ước mơ của cô chính là làm việc trong cửa hàng. Sau đó cô ấy đi lên lầu để tìm em trai mình, nhưng cô đã vô tình nhìn thấy vài tấm hình. Trong khi cố gắng để xem chúng, cô vô tình làm đổ nước trài cây lên những tấm hình mà được Raichi nói rằng đó là ảnh của Kanzaki Mizuki. Thất vọng, Raichi bắt đầu nói với Ichigo rằng cô ấy rất tuyệt vời và cậu đã không có được vé đi xem buổi diễn của cổ. Vì vậy, Ichigo tìm đến sự trợ giúp của Aoi và cả ba người có thể đi đến buổi biểu diễn. Hôm sau, sau khi nhìn thấy buổi biễu diễn của Mizuki, Ichigo đã có hứng thú với idol. Aoi bắt đầu nói với cô về học viện Starlight Academy và học sẽ tham dự kỳ tuyển sinh với nhau. Lúc đầu, cô do dự nhựng mẹ cô ấy bảo rằng nó ổn để làm những gì cô ấy muốn. Hai cô gái bắt đầu luyện tập để có thể trúng tuyển. Vào ngày thi, cô ấy chọn bộ Pink Stage Coord cho buổi thử giọng của mình. Cô đã làm được một special appeal trong quá trình thử giọng, điều này Orihime và Mizuki rất ngạc nhiên. Ichigo và Aoi đã thành công, đánh dấu sự khởi đầu của họ trên con đường trở thành idol hàng đầu. Quan Hệ Giải Nghĩa Tên Hoshimiya ( 星宮 ) nghĩa là đền thờ ngôi sao , với Hoshi ( 星 ) nghĩa là ngôi sao . Đây có thể là một tham chiếu đến ước mơ của cô, trở thành một thần tượng .Và Miya ( 宮 ) có nghĩa là đền thờ . Ichigo ( いちご ) có nghĩa là dâu tây Kanzaki Mizuki SỬA ĐỔI BÌNH LUẬN (104) CHIA SẺ Kanzaki Mizuki Mùa 1Mùa 2 (bình thường)Mùa 2 (WM)Phim điện ảnh Mizuki Kanzaki Tên Kanji 神崎 美月 Tên Romanji Kanzaki Mizuki Thông tin Tuổi 14-15 (Mùa 1) 16-17 (Mùa 2) 17(Mùa 3) Giới tính Nữ Công việc/ Nghề nghiệp Học sinh (đã từng) Idol Giáo viên Cố vấn hậu trường Nhà thiết kế hàng đầu Nơi làm việc Starlight Acedamy (đã từng) Tristar STAR☆ANIS (đã từng) Dream Academy (đã từng) WM (đã từng) Moonlight Office Aikatsu8 Ngày sinh 18 tháng 9 Nhóm máu A Debut Diễn viên/Ca sĩ lồng tiếng Diễn viên lồng tiếng Minako Kotobuki Ca sĩ lồng tiếng Risuko đến từ STAR☆ANIS \\\\\\\"\\\\\\\"Một lần nữa mặt trăng lại mọc lên.\\\\\\\"\\\\\\\" – -Kanzaki Mizuki khi cô trở lại thế giới thần tượng trong tập 75. Mục lục[hiện] Kanzaki Mizuki (神 崎 美 月) là một trong những nhân vật chính trong bộ phim anime Aikatsu!. Cô là cựu sinh viên của Starlight Acedamy. Cô cũng là người thành lập và là nhóm trưởng của Tristar, STAR ☆ ANIS và WM. Trong tập 91, cô cũng trở thành nhóm trưởng của Aikatsu8, một đơn vị 8 người đặc biệt gồm các thành viên từ Starlight Acedamy, Dream Academy & WM. Lý lịch Mizuki là học sinh hàng đầu tại Starlight Acedamy, tự hào về khả năng của mình và cũng là thần tượng hàng đầu. Mizuki là thần tượng số một do đó được mọi người ngưỡng mộ. Cô bắt đầu như là một người mẫu hồi tiểu học nhưng sau đó biến mất một cách bí ẩn khỏi công chúng trong một năm. Cô trở lại mà không cảnh báo, chiếm cả thế giới thần tượng như một thần tượng hàng đầu. Trong thời gian đó, cô đã tập luyện chuyên sâu và đẩy mình làm việc chăm chỉ nhất để đạt được vị trí cao nhất. Mizuki không thể hiện sự chăm chỉ của mình đối với nhiều người và được cho là một thần đồng. Cô rất được Ichigo thần tượng và truyền cảm hứng cho cô làm việc chăm chỉ hơn nữa. Kể từ tập 28, cô có thương hiệu riêng của mình được thiết kế theo hình ảnh của cô, Love Queen. Trong tập 03, tiết lộ rằng Mizuki bắt đầu sự nghiệp của mình như là một thần tượng trong năm thứ tư ở trường tiểu học, bắt đầu như một mô hình trẻ em cho trẻ nhỏ, sau đó cô dành một năm mà không xuất hiện trước công chúng. Lý do cho điều này là không rõ vào thời điểm đó. Ngay sau khi sự gián đoạn của cô đã kết thúc, cô ghi danh vào Starlight Acedamy. Cuối cùng, cô xuất hiện như một thần tượng với ca hát và nhảy múa. Trong Cơ hội & thử sức☆, tập 33 của anime, Mizuki thông báo rằng cô đang chọn hai thành viên cho nhóm thần tượng mới của cô, Tristar, trong đó cô là thành viên đầu tiên. Cuối cùng, cô đã chọn Ichinose Kaede và Shibuki Ran là thành viên thứ hai và thứ ba tương ứng. Tuy nhiên, trong Hướng tới Mặt trời, Shibuki Ran đã rời Tristar để gia nhập nhóm nhạc của Ichigo và Aoi, Soleil. Để thay thế vị trí của Ran, Mizuki chọn Tōdō Yurika là thành viên thứ ba của Tristar. Cuối cùng, trên Hãy đánh bại họ đi Soleil!, cả hai nhóm nhạc đã tạm thời sáp nhập vào STAR ☆ ANIS cho chuyến lưu diễn mùa hè của họ. Nhóm STAR ☆ ANIS đã ra mắt chính thức trong tập 41, Mùa hè nhiệm màu☆. Trong tập 46, nó được chứng minh rằng cô đã được truyền cảm hứng để trở thành một thần tượng sau khi nhìn thấy Masquerade biểu diễn. Ngoài ra, khi cô là một người mẫu thời trang trong những năm học tiểu học, Mizuki rất quan tâm và lo lắng về tất cả những gì cô đã làm mà cô coi là từ bỏ thế giới giải trí. Nhưng khi một người nào đó từ cơ quan của cô trình chiếu cảnh quay đầu tiên của họ, cô ngay lập tức bị cuốn hút bởi nụ cười và niềm đam mê của họ. Tuy nhiên, cô cứ luôn tự hỏi tại sao cô lại bị xúc động bởi màn biểu diễn của họ, thậm chí vài ngày sau khi thấy điều này. Mizuki sau đó đã tìm hiểu về Johnny Bepp, người đã vũ đạo cho Masquerade. Kể từ đó, cô đi theo anh ta khắp mọi nơi để yêu cầu được học. Ngày qua ngày, cô tiếp tục cầu xin, cho đến khi anh nhận cô vào. Đó là cách các buổi biểu diễn bí mật của cô bắt đầu và cô sử dụng cả năm đó để rèn luyện cho thế giới thần tượng. Ban đầu, Mizuki rất nghiêm túc, nhưng Johnny Bepp cũng thường xuyên dạy cô mỉm cười và thể hiện bản thân mình bằng toàn bộ cơ thể, không chỉ bằng khuôn mặt. Trong Những ký ức ở trong tương lai, tập cuối của phần 1, Mizuki rời Starlight Acedamy để làm cố vấn cho Dream Academy, một trường thần tượng đối thủ. Trong tập 63, cô tái hợp lại với Ichigo, Aoi và Ran. Ở đó, Mizuki tiết lộ những gì đã xảy ra với cô sau khi cô rời Starlight Acedamy. Kể từ tập 75, Mizuki đã trở lại thế giới thần tượng với thương hiệu mới của mình, Love Moonrise, và đã bắt đầu công ty riêng của mình được gọi là Moonlight Office. Mizuki cũng tiết lộ đã thành lập một nhóm nhạc tên gọi là WM với Natsuki Mikuru, một người làm vườn sở hữu phép màu của riêng mình. Mizuki là lý do chính khiến Ichigo đứng trên sân khấu của Aikatsu. Trong suốt câu chuyện, Ichigo luôn cố gắng ở bên Mizuki hoặc cao hơn cô, bắt đầu từ thành công thất bại của cô trong Buổi Live đặc biệt của Mizuki, đến Fresh Girls Cup, buổi tuyển chọn của Tristar, STAR ☆ ANIS, Starlight Queen Cup. Sau sự trở lại của Mizuki, cuộc đấu tranh của cô vẫn tiếp tục với Cúp đối tác, sau đó họ lại một lần nữa đứng trên cùng sân khấu giống trong Aikatsu8, và nửa đầu của đỉnh cao, Cúp những ngôi sao lấp lánh. Sau đó, phần thứ hai của đỉnh cao là Lễ hội Ichigo Starmiya vĩ đại, nơi mà Ichigo mời Mizuki tham gia vào buổi Live của cô, Mizuki từ chối và nói với cô rằng cuộc sống đã khiến cô trở thành thần tượng hàng đầu và cô quyết định nghỉ hưu từ Aikatsu kể từ khi cô đã hoàn thành mục tiêu của mình với tư cách là một thần tượng trong việc trở thành huyền thoại và vượt qua Masquerade. Tuy nhiên, điều này làm cho Ichigo cố gắng hết sức để Mizuki nhìn thấy buổi Live của cô, và cảm xúc của cô dành cho Mizuki đã được biên soạn thành bài hát đặc biệt của cô ấy, Etude of Radiance. Ngoại hình Mizuki có đôi mắt màu nho và mái tóc dài tới đùi cô được tạo kiểu theo kiểu mặc định - được buộc lên bằng một một dải băng sọc màu xanh và trắng. Cô được mô tả là cực kỳ xinh đẹp. Trong mùa 1, cô ấy thường mặc bộ đồng phục của Starlight Acedamy. Trong nửa đầu của mùa 2, cô thường được mô tả trong bộ đồ váy đen. Khi cô trở thành một thần tượng đang hoạt động trong nửa thứ hai của mùa giải, Mizuki thường thấy mặc bộ French Moon Coord. Tính cách Mizuki bình tĩnh, thanh lịch và tự tin, diễn xuất chuyên nghiệp, và làm việc chăm chỉ trong Aikatsu. Trong Mùa hè kỳ diệu ☆, đã chỉ ra rằng Mizuki có thể rụt rè trong những tình huống nhất định và được xem như là một sự tương phản từ tính cách bình thường của cô. Tính đến nửa cuối của mùa thứ hai, Mizuki tỏ ra vui vẻ và thoải mái hơn trong mùa giải trước, do gặp Mikuru. Giải nghĩa tên Kanzaki (神 崎): Kan (神) nghĩa là Thượng đế. Đây có thể là một ám chỉ đến cô là thần tượng hàng đầu và huyền thoại . Zaki (崎) có nghĩa là \\\\\\\"bán đảo nhỏ\\\\\\\" hoặc \\\\\\\"tiền vệ\\\\\\\". Mizuki (美 月): Mi (美) có nghĩa là cái đẹp. Đây có thể là một ám chỉ đến cô ấy như thần tượng, vì nhiều người nói rằng cô ấy rất dễ thương và / hoặc xinh đẹp. Zuki (月 tsuki) có nghĩa là mặt trăng. Mặt trăng là biểu tượng của Mizuki. Nó đại diện cho cách cô ấy lúc nào cũng tỏa sáng rực rỡ, nhưng lại ở cao trên bầu trời, nơi mà bất cứ ai vẫn chưa đạt tới và vượt qua ánh sáng của cô ấy. Mối quan hệ Hoshimiya Ichigo Mizuki là đàn chị của Ichigo. Cô nhìn thấy tiềm năng to lớn của Ichigo và hướng dẫn cho cô. Mizuki thường lấy cảm hứng từ Ichigo và bạn bè của cô vì họ hỗ trợ lẫn nhau và thậm chí sau khi đoàn tụ với họ trong tập 63, trong một thời gian ngắn, cô tiếp tục hướng dẫn họ. Mizuki cung cấp lời khuyên cho cô trong suốt thời gian của mình với tư cách là một sinh viên tại Starlight Acedamy và vẫn đưa ra một số lời khuyên nhỏ sau khi cô trở lại liên quan đến Ōzora Akari và làm thế nào Ichigo có thể là một người thầy như cô ấy. Tsukikage Honoka Quản lý của Mizuki. Mizuki tỏ ra tôn trọng người quản lý của mình khi cô trở lại với Mizuki trước khi cô trở lại và là người quản lý cho WM. Đã có nhiều lần chứng tỏ mối quan hệ của họ là sự kết hợp giữa mối quan hệ chuyên nghiệp và tình bạn, rõ ràng khi Mizuki tặng sô cô la Honoka Valentine như cách nói lời cảm ơn vì là người quản lý của cô trong tập 18. Ở tập 45, Honoka kéo Mizuki ra khỏi công việc của mình nhằm quảng bá Tristar để cô ấy có thể thư giãn với các thành viên của STAR ☆ ANIS vào ngày nghỉ của cô ấy. Yumesaki Tiara Mizuki đã từng làm việc cho cô ấy tại Dream Acedamy. Là cố vấn của cô, Mizuki nói với Tiara những cách tốt nhất để quản lý trường học với sự giúp đỡ của công nghệ mới nhất. Natsuki Mikuru Mikuru là đối tác của Mizuki trong nhóm nhạc WM. Khi Mikuru gặp Mizuki lần đầu tiên, cô đã thắp sáng Mizuki . Cô ngạc nhiên bởi Mizuki và khả năng mỉm cười với rất nhiều người cùng một lúc và lần đầu tiên do dự với đề xuất của Mizuki để tạo ra WM nhưng cô chấp nhận lời đề nghị. Cả hai đều tương thích cao với điểm chia sẻ hào quang, và chúng mang lại sự tốt nhất cho nhau. Trong một khoảng thời gian ngắn, cả hai đã trở thành những người bạn thân thiết nhất, mỗi người là đối tác hoàn hảo cho người kia. Otoshiro Seira SỬA ĐỔI BÌNH LUẬN (1) CHIA SẺ Photokatsu 0039 Photokatsu 0040 \\\\\\\" Nếu bạn đang \\\\\\\'làm\\\\\\\' thì tôi \\\\\\\'tái\\\\\\\'. Nếu bạn \\\\\\\'tái\\\\\\\' thì tôi \\\\\\\'mi\\\\\\\'. Tôi sẽ luôn luôn đi trước một bước của bạn! \\\\\\\" - Khẩu hiệu chính của Seira. Seira Otoshiro ( 音城セイラOtoshiro Seira ) là một trong những nhân vật chính ra mắt tại các dữ liệu Carddass Aikatsu! 2014 series và Season 2 của thích ứng hoạt hình liên quan, đại diện cho giấc mơ Academy . Cô là một nhân vật rock-thể loại và mát-loại Aikatsu thần tượng . Thương hiệu thẻ chính của cô là Swing rock . Mục lục[hiện] Xuất hiện Seira có mái tóc màu hồng, mà đạt đến vòng eo của mình và được gắn lên thành kiểu đuôi ngựa. Đôi mắt cô là màu cam và cô thể thao một dải ruy băng màu tím trên mái tóc đuôi ngựa.Trước khi ra mắt, cô có mái tóc của mình xuống cho đến khi Ki gắn nó lên. Tính cách Seira là một loại lãnh đạo những người yêu nhạc rock. Cô đi tắt như tự tin và táo bạo, nhưng cô thực sự khá nhút nhát và rất khiêm tốn. Cô thường thấy cho Kii Brain Sấm khi cô đang nghiên cứu và / hoặc thu thập dữ liệu. Cô ấy yêu mèo và đôi khi thấy chơi guitar của mình. Bối cảnh Trong quá khứ, Seira chơi nhạc cụ cổ điển nhưng chuyển sang đá khi cô lần đầu tiên chơi đàn guitar. Tương tự như Ichigo, gia đình cô sở hữu một quán cà phê: Cafe Vivo . Cô ấy là một phần của một nhóm nhạc rock trước khi trở thành một thần tượng. Chị gái của cô, Noel , được xem một chương trình Soleil khi Seira đến từ chơi với ban nhạc của mình, cô đã được lấy cảm hứng từ thần tượng đã có thể tạo ra những nụ cười trong đám đông và quyết định cố gắng để vào Starlight Academy, tuy nhiên cô đã bị từ chối như các thẩm phán nghĩ rằng cô trang bị nhiều hơn là một ca sĩ nhạc rock hơn là một thần tượng. Sau khi kết quả đáng thất vọng, cô đã xem qua những tin tức Giấc mơ Học viện trên một tạp chí và yêu cầu cho một cơ hội vào cửa tại cửa của họ. Tiara Yumesaki thấy Seira\\\\\\\'s niềm đam mê cho âm nhạc và các hoạt động thần tượng của cô bắt đầu như là một sinh viên của học viện mới được mở ra. Ước mơ của cô là tạo ra âm nhạc tuyệt vời mà sẽ làm cho mọi người cười, cũng như làm cho em gái cô hạnh phúc từ tận đáy lòng mình. Niên đại The Rocker girl và sự trở lại của Strawberry sửa Mùa đông, năm mới, và Aurora chúa sửa Freshmen xuân sửa Xuất hiện khác Tamagotchi Sua Seira xuất hiện trong Tamagotchi P dưới tên nhân vật của mình, Seira-chan-tchi. Mối quan hệ Tiara Yumesaki Ki Saegusa Ki là người bạn và sản xuất tốt nhất Seira của. Khi hai người gặp nhau lần đầu tiên, họ nhanh chóng ngoại quan và trở thành bạn nhanh chóng. Cả hai đều hỗ trợ lẫn nhau và khuyến khích Seira Ki tham gia vào cácPon-Pon Crepe ảnh girl thử giọng sau khi nghe bao nhiêu cô gái yêu thích thương hiệu Ichigo Hoshimiya Seira và Ichigo là đối tác cho các đơn vị Cup và Twinkle Star Cup . Hai trong số họ hình thành các đơn vị2wingS mà đứng thứ hai trong Twinkle Star Cup để WM , nhưng chiến thắng chống lại chúng sau này trong Twinkle Star Cup. Là đối thủ ban đầu, hai cô gái thường tinh nghịch đã chiến đấu và đẩy nhau để làm tốt nhất của họ trong hoạt động thần tượng của họ. Từ nguyên Otoshiro ( 音城 ) : Oto ( 音 ) có nghĩa là âm thanh. Shiro ( 城 ) có nghĩa là lâu đài. Đây có thể là một tham chiếu đến tình yêu âm nhạc và có sân hoàn hảo của cô. Seira ( セイラ ) có nghĩa là Thánh hay tốt. Arisugawa Otome SỬA ĐỔI BÌNH LUẬN CHIA SẺ Photokatsu 0021 Photokatsu 0022 Arisugawa Otome ( Arisugawa tiên Arisugawa Otome ) Là Một Sinh Trong Starlight Academy . Cô là một Pop loại thần tượng, và thương hiệu yêu thích của cô là hạnh phúc Cầu vồng . Ichigo Hoshimiya Mizuki Kanzaki Powapowa-Puririn Mục lục[hiện] Xuất hiện Otome có mái tóc gừng và đôi mắt đỏ son. Tóc của cô được gắn vào hai bánh (búi tóc), trong đó có sự xuất hiện tương tự như máy khoan. Cô chỉ được mô tả mặc một bộ đồng phục Starlight Academy. Tính cách Otome có một cá tính sôi nổi. Cô ấy nói trong người thứ nhất và thường sử dụng kính ngữ \\\\\\\"-tan\\\\\\\" (ví dụ: Ran-tan, Sakura-tan) khi đề cập đến bạn bè của cô. Giống như Ichigo, cô ấy rất vô tư và có một tình yêu bao la cho những thứ dễ thương như mèo con và cầu vồng và là khí đứng đầu. Otome là một nhân viên rất khó, và cô sẽ đào tạo ít nhất một năm trước. Trong tập 11 , người ta nghĩ rằng cô đã phải lòng Suzukawa , nhưng nó là chiếc vòng cổ của mình, cô đã yêu. Mặc dù Otome là hơi vụng về như Ichigo, cô sợ rằng cô ấy sẽ làm cho một sai lầm trong quá thật. Otome luôn thực hiện với tất cả trái tim mình. Bối cảnh Otome là nhân vật linh vật của thương hiệu bỏng ngô Pop\\\\\\\'n Popcorn . Cô sống và lớn lên tại một trường mẫu giáo mà mẹ và cha của cô mở ra và đã giúp ra sau khi tốt nghiệp trường tiểu học. Niên đại Lưu ý: Phần này được dựa từ loạt phim hoạt hình . The Rainbow-Colored Maiden sửa Lấy bối cảnh trong các tập phim thứ mười , Otome đầu tiên xuất hiện khi Ichigo, Aoi, và Ran đi cùng nhau đến trường, họ thấy Otome trong một đài phun nước cố gắng để bắt một cầu vồng. Cô tự giới thiệu mình và Aoi nhanh chóng nhận ra cô. Khi thực hiện theo cách của họ để hành lang của trường, họ phát hiện ra Ichigo sẽ được đôi co với Otome cho live đặc biệt Giáng sinh, và sau đó Ichigo quản lý để giành chiến thắng, và Otome cho biết cô rất vui và đã vui vẻ mặc dù như thế nào, cô đã khóc, chỉ để nghe Johnny bố một Revenge Live cho những người bị mất những cuộc đấu tay đôi. Một ngày trước khi Revenge Live, Otome cố gắng leo lên một cây để cứu một con mèo đen, nhưng cô bị rơi.Suzukawa , người làm vườn của nhà trường đã cứu cô, sau đó Otome hét lên \\\\\\\"Love You!\\\\\\\" và giữ nhìn chằm chằm vào anh từ đó, làm cho Ichigo và hai cảm thấy một cái gì đó đáng ngờ, và vì vậy họ đã cố gắng để chăm sóc cuộc sống của Suzukawa ra khỏi trường. Ngày hôm sau, Otome tiết lộ rằng những gì cô yêu của Suzukawa là vòng cổ con mèo của mình. Sau đó Otome quản lý để giành chiến thắng trong Revenge Live. Nó gần như là đêm Giáng sinh, và Ichigo mời bạn bè và bạn học của mình để có một bữa tiệc Giáng sinh. Họ bắt đầu bằng việc nấu ăn và trang trí, và sau đó Ichigo tìm thấy một cô gái được gọi là Yuna Nakayama , người không phải là thổi phồng cho đảng. Sau đó, Ichigo đã quyết định làm cô vui lên bằng cách cắt giảm một cây khổng lồ cùng với bạn bè của cô và đặt nó gần ký túc xá của trường. Chỉ khi Ichigo muốn trang trí nó, Ran và những người khác chú ý nếu họ sẽ bị trễ cho một đào tạo mới nhất cho Giáng sinh đặc biệt. Bạn cùng lớp của họ xuất hiện và hỏi xem họ có thể trang trí cho họ, và do đó Ichigo, Otome, Aoi và Ran vội vã đến sân khấu. Sau màn trình diễn, bốn kiểm tra và thấy Yuna đã bước vào cây họ cắt và đáp cha mẹ cô, khiến tiếng kêu Otome. Sau năm mới, Otome và Ran đã trao đổi những câu chuyện về kỳ nghỉ của họ. Otome cho thấy một linh vật cô phát hiện trong chuyến đi của mình, và chỉ sau khi Ichigo bước vào hiện trường, cô thấy thế nào \\\\\\\"dễ thương\\\\\\\", cô nhìn, gấp đôi cái nhìn ngạc nhiên của Ran. Otome xuất hiện sau đó, đào tạo trong việc theo dõi, và do đó Ichigo chạy vượt qua cô. Vài ngày sau, Otome xuất hiện trở lại ăn Pop\\\\\\\'n Popcorn trên ghế của quan sát trong khi Ichigo đẩy tốt nhất của mình trên đường đua. Sau buổi thử giọng của \\\\\\\" nghịch ngợm thám tử 3\\\\\\\" công bố, Otome tham gia như là một chiến sĩ, nhưng cô đã thất bại.Shibuki Ran (紫吹 蘭) là một trong những nhân vật chính của bộ phim Aikatsu! Cô là học viên của Starlight Academy. Ở mùa 1 Anime, cô được mệnh danh là \\\\\\\"Thanh gươm Tuyệt sắc\\\\\\\". Cô là một Sexy Idol, và là người mẫu độc quyền cho thương hiệu Spicy Ageha. Cô là bạn cùng lớp với Ichigo và Aoi. Ba người sau đó cùng nhau lập thành nhóm nhạc mang tên Soleil. Khả năng của một người mẫu là thế mạnh của cô. Mục lục[hiện] Lý lịch Xuất thân Ran là một thần tượng kỳ cựu đã từng làm việc trong ngành giải trí từ khi cô còn trẻ. Cô nổi tiếng với kỹ năng người mẫu và phong cách của mình thậm chí còn đi xa để thách thức câu nói \\\\\\\"các người mẫu trẻ không thể đẹp\\\\\\\" và thông qua đó đã tiếp tục đánh bóng vẻ đẹp tinh tế của cô. Ran có biệt danh là \\\\\\\"Lưỡi hái xinh đẹp\\\\\\\" (美 し き 刃 Utsukushiki Yaiba), với thái độ và vẻ đẹp chuyên nghiệp của cô. Thương hiệu yêu thích và chính của cô là Spicy Ageha. Một thời gian trước khi chuyển đến Ichigo và Aoi, Ran làm việc cùng với bạn của cô và bạn cùng phòng, Mako, ở Starlight Acedemy. Cả hai cùng hợp tác để theo đuổi ước mơ của họ để trở thành thần tượng vĩ đại. Tuy nhiên, Ran tiến xa hơn Mako đã làm, khiến Mako mất niềm tin vào bản thân như một thần tượng. Mặc dù Ran không đổ lỗi cho cô, Mako không thể tiếp tục và rời bỏ học viện, lo lắng rằng cô sẽ làm Ran thất vọng và giữ lại cô bằng những kỹ năng thiếu kinh nghiệm của mình. Ran không nói nên lời sau khi nghe điều này và thấy cô rời đi. Như là kết quả của sự ra đi của Mako, Ran tràn đầy cảm giác mất mát và cô đơn, cuối cùng khiến cô trở nên rất nghiêm túc, chống lại xã hội và rất độc lập. Khi Ran tiếp tục như một thần tượng, sau đó cô gặp Ichigo và Aoi, hai người bạn tốt nhất vừa mới đăng ký học tại Starlight Academy. Ran đã trở nên rất hoài nghi về tình bạn của họ và nói rằng họ sẽ không thể đứng lên hàng đầu cùng nhau và một ngày nào đó họ cuối cùng sẽ chia tay. Mặc dù vậy, Ran cuối cùng đã trở thành bạn với Ichigo và Aoi và mặc dù Ran có phần hơi miễn cưỡng với quyết định của mình lúc đầu, sau đó cô lại gần gũi hơn với họ và thấy khả năng tin tưởng một lần nữa của mình. Xuất hiện Ran có mái tóc dài đến đầu gối và đôi mắt màu tím. Là một học sinh của Starlight Academy, cô thường mặc đồng phục của trường. Bên ngoài trường học, màu chủ đạo của cô là màu tím. Là một thần tượng, thương hiệu ưa thích của Ran là Spicy Ageha, một thương hiệu thuộc loại sexy. Coord cơ bản của cô là Purple Stage Coord với phần áo màu hoa cà, tay áo bó vai và một chiếc nơ đỏ để khoe đường cong của cô. Phía dưới là một chiếc váy màu tím sẫm có màu hoa cà và các sọc màu hồng với nhiều đường kẻ. Cô cũng đi giày cao gót màu tím, với ren, tất màu hồng nhạt. Trong mùa 2, Ran có được một bộ đồng phục thần tượng mới mang tên Purple Torte Coord. Nó là sự kết hợp giữa cami đầu màu tím ống và ống tay, găng tay màu trắng với cổ tay tím, váy kẻ sọc màu tím, và ủng cao màu tím với tất cao đến đầu gối màu trắng. Trong mùa 3, Ran có được một bộ đồng phục cơ bản mới gọi là High Purple Parade Coord. Tính cách Ran là một cô gái trầm tính, độc lập với một vẻ chuyên nghiệp. Cô ấy rất đa tài và trưởng thành nhưng cô ấy không thích bị quấy rầy. Mặc dù vậy, Ran là một người tử tế. Cô luôn khiêm tốn về cô ấy là ai với tư cách là một người và thần tượng, mặc dù cô rất nổi tiếng. Cô không thích biệt danh \\\\\\\"Ran-chan\\\\\\\" (蘭 ち ゃ ん) và thích được gọi là \\\\\\\"Ran\\\\\\\". Cô ấy không ăn đồ ngọt vì lo ngại rằng nó sẽ làm hỏng hình ảnh của cô ấy. Giải nghĩa tên Shibuki (紫 吹) Shi (紫) có nghĩa là màu tím, đề cập đến màu chủ đề của cô và Buki (吹) có nghĩa là thổi hoặc phun. Ran (蘭) có nghĩa là hoa phong lan. \\\\\\\"Ran\\\\\\\" cũng là một tham chiếu đến \\\\\\\"đường băng\\\\\\\", như \\\\\\\"chạy\\\\\\\"(run) trên đường băng và \\\\\\\"chạy\\\\\\\"(ran) được phát âm giống nhau trong tiếng Nhật. trong: Starlight Idol, Diễn viên, Nhân vật, và thêm 5 nữa Kiriya Aoi SỬA ĐỔI BÌNH LUẬN (9) CHIA SẺ Kiriya Aoi Đồng phụcMùa 1Mùa 2Phim điện ảnh 1 Aoipro Tên Kanji 霧矢 あおい Tên Romanji Kiriya Aoi Thông tin Tuổi 13-14 (Mùa 1) 15-16 (Mùa 2) 16-17 (Mùa 3) Giới tính Nữ Công việc/ Nghề nghiệp Idol Diễn viên Học sinh Nơi làm việc Starlight Academy Soleil STAR☆ANIS (Mùa 1) Aikatsu8 (DCD, Mùa 3) Dream Star (mùa 2) Ngày sinh 31 tháng 1 Nhóm máu A Debut Data Carddass Game Bộ sưu tập 2013, Phần 1 Anime Tập 1 Diễn viên/Ca sĩ lồng tiếng Diễn viên lồng tiếng Tadokoro Azusa Ca sĩ lồng tiếng Fuuri từ STAR☆ANIS \\\\\\\"Tôi chắc chắn sẽ khiến mọi người nở hoa như tôi\\\\\\\" – Kiriya Aoi Kiriya Aoi (霧矢 あおい) là một trong những nhân vật chính của series Aikatsu! Cô là học viên của Starlight Academy. Điềm tĩnh, thông minh, năng động nhưng luôn nghĩ cho người khác chính là những ấn tượng về cô. Là một Idol loại Cool, cô chọn Futuring Girls là thương hiệu đồng hành với mình. Cô là bạn rất thân của Ichigo . Cùng với Shibuki Ran và Hoshimya Ichigo họ đã lập thành một nhóm nhạc mang tên Soleil. Aoi được biết đến với tài năng quản lí (Produce) và diễn xuất của mình.Ngoài ra cô cũng là một thạc sĩ thần tượng. Mục lục[hiện] Tiểu sử Aoi và Ichigo đã là bạn thân từ nhỏ. Cả hai gặp nhau lần đầu ở một lễ hội nhảy của cho Guppy, một idol. Cô ấy rất trí thức, về thần tượng cũng như mọi lĩnh vực khác, trước đó cô cũng đã học violin, cưỡi ngựa, piano,... Chính vì thế, cô được gọi là \\\\\\\"Giáo sư Idol\\\\\\\" hay Aoi-sensei. Sau khi tham gia Starlight Academy, cô đạt điểm cao nhất trong khoảng 1000 người trong bài kiểm tra về thần tượng, trả lời các câu hỏi một cách chính xác. Vào cuối tập 2, cô đã trở thành quản lí tạm thời của Kanzaki Mizuki bằng cách chiến thắng Ichigo trong cuộc thi thử giọng. Ngoại hình Aoi có một làn da trắng trẻo với đôi mắt xanh cobalt. Mái tóc lượn sóng màu xanh theo kiểu đuôi ngựa ở đằng sau bằng một dây buộc màu lam. Tóc cô hơi dài với vai khi thả. Cô thường xuất hiện với đồng phục của Starlight Academy. Tính cách Aoi là một cô gái bình tĩnh và tươi sáng. Cô ấy rất thông minh, sở hữu kiến ​​thức bách khoa và kỹ năng phân tích tuyệt vời. Cô rất quyết tâm hướng tới mục tiêu của mình và tiếp cận họ rất nghiêm túc. Aoi luôn lên kế hoạch trước và nghiên cứu nhiều nhất có thể cho một tình huống. Cô ấy rất chăm chỉ và làm việc có chút vất vả. Khi còn là một đứa trẻ, Aoi nhanh chóng trở nên quan tâm đến thần tượng sau khi khám phá ra sự tự do và phấn khích của nó, đó là một sự tương phản chặt chẽ với nghệ thuật truyền thống mà cô tham gia. Kể từ đó, cô đã cống hiến mình cho thần tượng và đã nghiên cứu thần tượng từ đó. Cô ấy có vẻ khá may mắn khi được gặp gỡ với một số thần tượng mà cô ấy là fan hâm mộ trong suốt bộ phim Cô được biết đến là trưởng thành hơn Ichigo và có xu hướng giữ cô đi đúng hướng, nhưng có những lúc cô có thể rất vui mừng. Trong khi bình thường cô ấy có vẻ tự tin và tinh thần tốt, sâu thẳm Aoi sợ rằng cô ấy biết rằng có thể cô ấy và Ichigo sẽ không cùng nhau trở thành ngôi sao nổi tiếng như kế hoạch.Ichinose Kaede (一ノ瀬かえで Ichinose Kaede) là nhân vật cuối cùng của tám nhân vật chính cho cả Data Carddass Aikatsu! và bộ phim chuyển thể anime (phần một) đại diện cho cộng đồng Starlight Acedamy. Nhãn hiệu chính mà Kaede sử dụng là Magical Toy. Mục lục[hiện] Lý lịch Xuất hiện ở tập 33 của anime, Kaede chuyển vào Starlight Acedamy để thử giọng trở thành bạn đồng hành của Mizuki trong Tristar. Cô được mệnh danh là \\\\\\\"siêu thần tượng\\\\\\\", cô ấy học cùng năm với Ichigo. Kaede đến từ Mỹ, nơi cô đã xuất hiện trong nhiều quảng cáo cho chuỗi sushi cao cấp của cha cô, \\\\\\\"Kaede Sushi\\\\\\\" và là một phần của một chương trình thần tượng nổi tiếng được gọi là \\\\\\\"Kids\\\\\\\' Club\\\\\\\". Ngoại hình Kaede có mái tóc cắt ngắn, đỏ xoăn và đôi mắt màu hồng. Trên tóc của cô ấy là một chiếc ghim màu bạc với một viên kim cương vàng, và cô ấy đeo một chiếc vòng cổ màu nâu với một viên kim cương khác, và một chiếc vòng tay màu trắng. Trang phục thần tượng cơ bản của cô bao gồm một chiếc áo màu hồng nhạt với các nút áo và tay áo sọc màu cam. Váy của cô có sọc kẻ rô màu cam, với chiếc váy trong màu hồng. Đối với đôi giày, cô đi giày cao gót màu nâu với cổ và khóa có màu tối. Tính cách Đến từ Mỹ, Kaede sử dụng rất nhiều cụm từ tiếng Anh và có thói quen hôn những người cô gặp trên má. Cô ấy thân thiện và có một niềm đam mê với ảo thuật. Cô thích thực hiện các thủ thuật khác nhau và đảm bảo rằng người hâm mộ của cô đang có thời gian vui vẻ. Kaede đôi khi làm những việc có quy mô lớn như nhảy dù, ví dụ như trong cuộc thử giọng của Tristar.\\\\\\\" Tôi là một hậu duệ của ma cà rồng có chung máu của bá tước Dracula lớn ... bạn có thực sự muốn có Yurika-sama hút máu của bạn? \\\\\\\" - Khẩu hiệu của Yurika Photokatsu 0025 Photokatsu 0026 Yurika Todo ( 藤堂ユリカTodo Yurika ) là một trong những nhân vật chính của Aikatsu! loạt trò chơi arcade và thích ứng hoạt hình liên quan. Cô ra mắt trong Episode 19 , đại diện cho Starlight Academy cộng đồng. Cô là một mát kiểu thần tượng sử dụng Loli Gothic là thương hiệu thẻ chính mình. Mục lục[hiện] Bio Yurika là một cô gái bình thường những người yêu thương và ngưỡng mộ manga ma cà rồng cũ, tạo cảm hứng cá ma cà rồng của mình và sử dụng Loli Gothic . Đôi khi trước khi các sự kiện của Episode 20 các phương tiện truyền thông đã ảnh xuất hiện thực Yurika khi cô đã đến thăm các bệnh viện để điều trị cảm lạnh của cô cùng với Ichigo người đi cùng cô. Kết quả là, nó gần như trở thành một scandal. Với sự giúp đỡ của Ichigo và sự ủng hộ của người hâm mộ, cô đã vượt qua sự kiện này và thu được \\\\\\\'Goth ma thuật Coord , hiếm coord cao cấp Loli Gothic của. Trong tập 37 , khi Ran bỏ Tristar tham gia Soleil , Mizuki đã chọn Yurika mất vị trí của mình như là thành viên cuối cùng của Tristar. Tính cách Yurika thường yên tĩnh và mềm nói. Cô đã tạo ra nhân vật ma cà rồng của mình, dựa trên một manga ma cà rồng lãng mạn cũ, để nổi bật tại Starlight Academy. Khi nhân vật cô tự tin và tự hào, tuy nhiên có những khoảnh khắc khi cô lỡ tiết nhân vật của mình. Khi điều này xảy ra cá tính của cô là một tsundere. Cô thích mì tỏi hương vị, một thực tế, chỉ Ichigo và bạn bè của mình biết về, và có nó được gửi đến cô. nhân vật ma cà rồng của cô là rất phổ biến cả trong giới học thuật và công chúng bên ngoài. Xuất hiện Yurika có làn da nhợt nhạt và đôi mắt màu mòng két màu. Trong trò chơi, tóc bạch kim-vàng của cô theo kiểu thành hai bím tóc Ringlet, nhưng trong anime, tóc của cô có một màu xanh nhạt, để nó và cô được hiển thị mặc nó xuống tại các điểm khác nhau với một cặp kính. Các mối quan hệ Ran Shibuki Yurika và Ran cả tranh luận về việc đào tạo rất nhiều. Tuy nhiên, mặc dù đôi khi Ran thấy Yurika một nỗi đau, cô thực sự quan tâm đến cô. Trong Chocopop thám thử giọng, Ran nói với Yurika rằng cô sẽ trông dễ thương trong trang phục thám tử. Điều này gây ra Yurika đỏ mặt vì xấu hổ, và cố gắng để khen Ran trong trở lại. Yurika ban đầu muốn ghép nối với Ran cho Cup của đối tác , và rất buồn mà Sora và Ran đã được ghép nối với nhau. Kaede Ichinose Kaede và Yurika đã là bạn tốt vì họ Tristar ngày. Mặc dù là gần đối lập, họ nhận được cùng. Mặc dù có một cuộc tranh cãi ngắn gọn về hợp tác cùng nhau trong Cup của đối tác, họ tạo nên cuối cùng. Ichigo Hoshimiya Mizuki Kanzaki Mizuki chọn Yurika để thay thế Ran là thành viên cuối cùng của Tristar sau khi thấy cô làm việc chăm chỉ để duy trì tính cách của cô, mặc dù không ai bị xung quanh. Yurika trông lên đến và ngưỡng mộ thái độ chăm chỉ của Mizuki. Sumire Hikami Yurika tôn trọng tình yêu Sumire cho Loli Gothic và phê duyệt của mình mặc cao cấp mới nhất. Giải nghĩa tên Todo ( 藤堂 ) có nghĩa là \\\\\\\"Wisteria Tòa án \\\\\\\'. Nó là một tên gia đình lịch sử Nhật Bản. Yurika ( ユリカ ) , các katakana là một cái tên liên quan tới \\\\\\\"lily\\\\\\\". Trong chữ Hán, \\\\\\\"カ\\\\\\\" có thể chỉ ra \\\\\\\"hương thơm\\\\\\\" (香) hoặc \\\\\\\"hoa\\\\\\\" (華).Tôi sẽ làm cho bạn tỏa sáng, và đổi lại, tôi muốn bạn để làm cho tôi cũng tỏa sáng. Hikami Sumire - Xét đề nghị chính thức Sumire của Rin là cô đối tác đơn vị . Hikami Sumire ( băng tím Hikami Sumire ) Là Một Of The tiểu nhân vật chính Đối với dữ liệu Carddass Aikatsu! \\\\\\\'S 2015 Dòng Và thứ ba và thứ tư Seasons Of The Anime. Cô là một mát-Type thần tượng và hiệu tiểu học của cô là Loli Gothic . Cung hoàng đạo của cô là Thiên bình Mục lục[hiện] Xuất hiện Sumire có mái tóc cây dừa cạn dài theo kiểu trong một cắt hime mà đạt đến nửa chừng lại và đôi mắt mờ dần từ màu xanh-tím đến tím sống động của cô. Cô mặc một cây cung màu chàm ở phía bên phải của đầu cô trên tai cô. Làn da của cô cũng khá nhạt. Tính cách Sumire là một cô gái rất xinh đẹp với một bố trí bình tĩnh và tốt bụng, ăn nói nhỏ nhẹ, lịch sự. Cô luôn thích được một mình, nhưng điều này bắt đầu thay đổi khi Akari trở thành bạn cùng phòng của cô. Cô ấy yêu Loli Gothic và bói và được xem thường mang nhiều lá bài với cô ấy. Từ nguyên Hikami ( 氷上 ) Hi ( 氷Kouri ) có nghĩa là băng và kết hợp vớiKami ( 上jou ) có nghĩa là hàng đầu, Hikami nghĩa trên băng. Sumire ( スミレ ) là từ Nhật Bản cho tím hoa. Điều này, cùng với tên cuối cùng của mình, có thể là một tham chiếu đến biệt danh của cô. Bối cảnh Sumire trở thành một thần tượng trong đề nghị của chị gái cô, những người nghĩ rằng cô ấy sẽ phù hợp cho idolhood. Nhờ em gái của cô, Sumire đã được giới thiệu đến Starlight như không chỉ là một cách để cô ấy đi theo con đường của một thần tượng, mà là một cách để làm cho bạn bè nhiều hơn như cô đã luôn thích được một mình. Tuy nhiên, khi vào Starlight, cô nghĩ về tất cả mọi người là đối thủ như đối với mỗi thần tượng những người thành công, khác phải thất bại, lại lưu ý cách khốc liệt thế giới thần tượng có thể được và vì lý do đó những suy nghĩ, cô bắt đầu tập luyện và làm việc một mình.\\\\\\\"Cộng hưởng ! BPM trong trái tim tôi! \\\\\\\" - Câu khẩu hiệu của Rin Rin Kurosawa ( 沢 Kurosawa Rin ) là một trong những nhân vật chính xuất hiện lần đầu trong Data Carddass Aikatsu! 2015 Series và phần 3 của anime . Cô ấy là một thần tượng tuyệt vời sử dụng Dance Fusion làm thương hiệu chính của mình. Nội dung [ hiển thị ] Tiểu sử Một thần tượng tân binh được nhận vào trường Starlight vào tháng Tư. Rin ban đầu là một vũ công đường phố với điệu nhảy tuyệt vời khiến cô được biết đến với cái tên \\\\\\\"The Dancing Lightning\\\\\\\". Cô ấy là một fan hâm mộ lớn của Johnny Bepp và Sunny . Xuất hiện Rin có mái tóc màu xám dài giữa với một vệt đỏ ở chóp. Nó được đeo một cách lộn xộn với một chiếc băng đô màu xanh có nơ màu xanh ở bên cạnh. Đôi mắt cô là một màu hổ phách nhạt, và cô có lông mày dày đáng chú ý. Nhân cách Rin có một bản tính năng động với tính cách lạnh lùng và điềm tĩnh. Cô đam mê nhảy múa và luôn nhớ để vui chơi. Cô dễ dàng bối rối khi bị người khác trêu chọc hoặc bổ sung. Từ nguyên Kurosawa ( ) Kuro ( 黒 ) có nghĩa là màu đen và Sawa ( 沢 ) có nghĩa là đầm lầy. Rin ( 凛 ) có nghĩa là trang nghiêm, nghiêm túc, lạnh lùng. Lý lịch Niên đại Vũ điệu Bolt Rin được giới thiệu lần đầu tiên trong Tập 127 với tư cách là một thần tượng mới, người gần đây đã được chấp nhận tham gia Starlight , nơi cô được Hinaki YAMō nhận ra từ các video nhảy múa mà cô tải lên trực tuyến. Rin sớm biết rằng Akari zora đã được chỉ định làm người cố vấn của mình, điều khiến cô phấn khích, khi cô xem Ozora Weather mỗi sáng. Rin được giới thiệu với bạn bè của Akari cũng như người cố vấn của Sumire Hikami , Madoka Amahane . Trong buổi lễ khai giảng, Naoto Suzukawa được tiết lộ là giáo viên chủ nhiệm của Rin, nhưng bản thân Rin lại hào hứng hơn nhiều khi gặp Johnny Bepp , người nhận xét về việc anh và Rin có cùng bước sóng. Trong cuộc gặp gỡ của Rin với Nữ hiệu trưởng Orihime , cô được trao chứng minh thư, Aikatsu Phone và Điều phối diễu hành hải quân của mình. Rin và Madoka kết thúc với tư cách là bạn cùng phòng, và hai người bắt đầu gọi nhau bằng tên. Trong lớp, họ đã nhận được thông tin từ Naoto trong buổi thử giọng sắp tới cho các sinh viên mới để trở thành người mẫu cho Danh bạ sinh viên mới của Starlight. Vì những người tham gia phải nộp đơn theo cặp, Rin nói rằng cô muốn Madoka là đối tác của mình. Trong quá trình luyện tập vũ đạo của Rin và Madoka, Madoka hỏi Rin khi cô bắt đầu nhảy, và Rin tiết lộ rằng cô đã học thể dục khi còn nhỏ trước khi say mê với điệu nhảy đường phố sau khi xem một buổi biểu diễn. Rin tuyên bố rằng mặc dù cô và Madoka thuộc các nhóm kỹ năng khác nhau, cô đã học được rằng điều quan trọng nhất về khiêu vũ là vui chơi. Trong ngày diễn ra buổi thử giọng, Rin và Madoka được tiết lộ là đã chiến thắng sau khi biểu diễn Let Aikatsu! cùng với nhau. Lịch chiếu của tôi Trong tập 128 , Rin được đề nghị biểu diễn tại một sự kiện được gọi là Super Dance World. Rin tuyên bố rằng cô muốn mặc đồ phối hợp Premium Rare từ thương hiệu mới Dance Fusion , người có nhà thiết kế hàng đầu là đối tác cũ của Johnny, Sunny . Rin tiết lộ với Akari rằng Sunny & Johnny là đơn vị khiêu vũ đầu tiên cô từng thấy biểu diễn sau khi cô có hứng thú với nhảy đường phố, và nhờ họ mà cô yêu thích nhảy rất nhiều. Rin thể hiện sự ghen tị với Shun Yotsuba , người tiết lộ rằng anh ta đã học bài nhảy từ Sunny & Johnny khi anh ta còn là một thần tượng. Cô và Akari tìm Johnny để hỏi anh về Sunny, nơi Rin tuyên bố rằng cô quyết tâm trở thành một thần tượng phù hợp để mặc quần áo của Sunny. Rin và Akari đến phòng thiết kế của Dance Fusion, nơi họ gặp Sunny, người vẫn có thể nhảy khá tốt mặc dù đã tăng cân một chút kể từ khi anh từ bỏ việc nhảy chuyên nghiệp. Rin cố gắng giành được sự chấp thuận của Sunny và nhận được Soul Marionette Tọa độ sau khi cho anh ta xem cô ấy nhảy, nhưng thất vọng khi biết rằng Sunny không có kế hoạch nhảy với Johnny một lần nữa. Trong bài học khiêu vũ tiếp theo của họ, Johnny giải thích với Rin rằng mặc dù bây giờ anh và Sunny đang đi theo những con đường khác nhau, họ vẫn là một đội. Rin lầm bầm những lời của Johnny cho đến khi cô bắt gặp Akari, Sumire, Hinaki và Juri Kurebayashi . Cô hiểu được những gì Johnny nói sau khi chứng kiến ​​người đàn anh lớp trên của mình hỗ trợ lẫn nhau mặc dù họ có những hoạt động riêng. Sau khi gặp lại Sunny một lần nữa và thông báo cho anh về những giấc mơ của cô, ngày diễn ra sự kiện Super Dance World và Rin thực hiện MY SHOW TIME! trong chiếc váy mới của cô. Phép thuật của một đơn vị Trong tập 130 , Rin được Sumire tiếp cận, người yêu cầu Rin lập một đơn vị với cô. Sumire tin rằng đĩa đơn của họ phù hợp với Rin nhảy hoàn hảo, và sau khi xem qua tờ lyric, Rin đồng ý hợp tác với Sumire. Madoka giáo dục Rin về các đơn vị thần tượng trong quá khứ, nói rằng điều quan trọng đối với các đơn vị là thể hiện mặt tốt nhất của mỗi thành viên. Rin và Sumire bắt đầu tập luyện cùng nhau, nhưng Rin cố gắng hết sức để sống theo mong đợi của Sumire và bị bong gân mắt cá chân, khiến Johnny cấm cô nhảy. Cảm thấy tội lỗi vì đã gây nguy hiểm cho lần ra mắt đơn vị sắp tới của họ, Rin đề nghị Sumire chọn một đối tác mới. Tuy nhiên, Sumire từ chối từ bỏ Rin, và thay vào đó, cô lên kế hoạch tiếp tục sống với Rin với tư cách là huấn luyện viên khiêu vũ của mình. Rin chấp nhận và trong quá trình luyện tập vũ đạo, Sumire tiết lộ với Rin rằng cô quyết tâm làm cho đơn vị của họ thành công vì cô có thể cảm nhận được số phận từ trong bài hát của họ. Vào ngày diễn ra buổi hòa nhạc, Sumire tiết lộ bài hát đơn vị của họ, Tutu Ballerina . Sau buổi biểu diễn, cô tuyên bố rằng buổi hòa nhạc này ban đầu có nghĩa là một buổi hòa nhạc đơn vị, và toàn bộ tiềm năng của bài hát không thể đạt được chỉ với cô. Sumire giới thiệu Rin là đối tác của mình, với tuyên bố rằng cô sẽ khiến Rin tỏa sáng, và Rin sẽ khiến cô tỏa sáng trở lại. Trong cuộc gặp gỡ với Orihime và Johnny, Rin và Sumire tiết lộ tên đơn vị của họ - Dancing Diva - với \\\\\\\"điệu nhảy\\\\\\\" đại diện cho tình yêu dành cho khiêu vũ của Rin và \\\\\\\"diva\\\\\\\" thể hiện tình yêu ca hát của Sumire. Orihime tiết lộ rằng cùng một công ty muốn Sumire làm cô gái hình ảnh của họ cho một loại dầu gội mới đã liên lạc với cô và bày tỏ mong muốn có được Tutu ・ Ballerina làm tiếng vang cho quảng cáo của họ. Sau đó, đơn vị được đưa ra lịch trình của họ, và Rin bị sốc vì sự bận rộn của nó. Bắt đầu với việc thu âm bài hát, Dancing Diva bắt đầu một cuộc họp trước khi thu âm, sự lo lắng của Rin gần như giữ lấy cô. Rin trở nên lạc lõng với những gì cô và Sumire dự định sẽ làm trong cuộc họp, và Sumire giải thích với cô rằng họ sẽ thảo luận cụ thể về quảng cáo. Sumire cho Rin lời khuyên liên quan đến giọng nói của cô để chuẩn bị cho ngày hôm sau, và đổi lại, Rin giúp Sumire nới lỏng trong quá trình ghi âm. Vài ngày sau, Rin thể hiện bản thân trong một khoảnh khắc không thể tin được khi cô và Sumire xem xét đĩa CD Tutu ・ Ballerina đang được bán. Sau một buổi ký tặng, Rin và Sumire thảo luận về nhận xét của Orihime về việc ma thuật của đơn vị họ chỉ còn nửa chừng. Sumire tin rằng nửa đầu đã tìm thấy nhau như một đối tác và họ quyết định rằng để lấp đầy ma thuật của mình, họ cần phải tỏa sáng cùng nhau và cặp đôi ngủ cùng nhau khi nghe Tutu Ballerina. Trong buổi ra mắt trực tiếp, Dancing Diva trình diễn trong trang phục đơn vị mới do Sunny thực hiện - với Dancing Night Phối hợp cho Rin - tỏa sáng hơn bao giờ hết . Gracias, nói cách khác, tôi rất vui khi trở thành bạn với tất cả các bạn. \\\\\\\" - Juri to Akari, Sumire và Hinaki trong tập 110 Juri Kurebayashi Hồ sơ hồ | diễu hành Mới nhất (1) Tên tiếng nhật 紅 林 珠 璃( く れ ば や し じ ゅ り ) Tên La Mã Kurebayashi Juri Tên tiêng Anh Juri Kurebayashi Số liệu thống kê Tuổi tác 13-14 (S3) Giới tính Giống cái Liên kết Trường học ánh sáng Đam mê✮Jalapeño Ớt vani Nghề nghiệp Thần tượng Sinh viên Nữ diễn viên Sinh nhật Ngày 31 tháng 7 Nhóm máu Ôi Sự xuất hiện đầu tiên Trò chơi Carddass dữ liệu Sê-ri 2015 - Phần 2 Anime Tập 109 Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Aya Saitou Giọng hát Miho từ AIKATSU ☆ SAO! Juri Kurebayashi ( 紅 林 珠 Kurebayashi Juri ) là một trong những nhân vật chính của Data Carddass Aikatsu! 2015 Series và phần 3 của anime . Cô là một thần tượng kiểu gợi cảm sử dụng Sangria Rosa làm thương hiệu chính của mình. Nội dung [ hiển thị ] Tiểu sử Juri là một thần tượng mới đang khuấy động một cơn gió đam mê tại học viện trong nỗ lực trở thành một nữ diễn viên tuyệt vời. Xuất hiện Juri có đôi mắt màu tím và mái tóc đỏ dài, lượn sóng màu đỏ được buộc thành đuôi ngựa cao, hơi lệch sang một bên. Cô cũng đeo một phụ kiện tóc hoa xù màu vàng với một viên đá quý nhỏ màu tím treo trên dây chuyền vàng trên tóc đuôi ngựa. Nhân cách Juri được mô tả là \\\\\\\"nóng\\\\\\\" bởi Akari và nhiều người khác. Cô ấy rất đam mê trở thành một nữ diễn viên và nói chung là rất đam mê. Cô ấy cũng rất chăm chỉ và có mục tiêu trở thành một nữ diễn viên của riêng mình. Từ nguyên Kurebayashi ( ) Kure ( Kurenai ) có nghĩa là màu đỏ thẫm có thể liên quan đến màu sắc chủ đề của cô và Bayashi ( hayashi ) có nghĩa là rừng, rừng hoặc rừng. Juri ( 珠 ) Ju ( 珠 tama ) có nghĩa là ngọc trai và Ri ( ) có nghĩa là thủy tinh hoặc thủy tinh. Đây có thể là một tài liệu tham khảo Câu chuyện lãng mạn của cô ấy, Cinderella . Lý lịch Juri là con gái của nữ diễn viên nổi tiếng, Karen Kurebayashi , và đầu bếp nổi tiếng người Tây Ban Nha, Serio Kamino . Cô ấy thường nhận công việc khi còn trẻ, và đôi khi họ ở cùng với Hinaki , người đã mô tả cô ấy là một linh hồn dịu dàng hồi đó. Juri đã luôn muốn trở thành một nữ diễn viên và không nhận ra rằng mọi người đang giao việc cho cô chỉ vì cô là con gái của Karen, điều đó thật tồi tệ cho đến một ngày cô thấy mẹ mình làm việc chăm chỉ như thế nào. Nhận ra mình cần phải thay đổi, cô ngừng nhận việc và luyện tập gần như không mệt mỏi cho đến khi cô cảm thấy đủ tự tin vào khả năng diễn xuất của chính mình. Khi cảm thấy mình đã sẵn sàng, cô ấy đã tham gia kỳ thi chuyển nhượng Starlight và vượt qua, dự định tự mình trở thành một nữ diễn viên. Niên đại Gió nóng của Aikatsu Đam mê của một thương hiệu Ba màu khác nhau Juri, Madoka và Rin quyết định tham gia Lễ hội trường học Great Starlight và quyết định thành lập một đơn vị có tên Vanilla Chili Pepper , dựa trên các loại thực phẩm yêu thích phù hợp nhất với hình ảnh của họ. Trang phục gợi cảm sử dụng màu sắc đặc biệt để tỏa sáng rực rỡ là Chili Gold Tọa độ (Juri), Vanilla Gold Tọa độ (Madoka\\\\\\\'s) và Pepper Gold Tọa độ (Rin\\\\\\\'s). Đam mê của nữ hoàng Juri đã chuẩn bị màn trình diễn của mình cho Starlight Queen Cup, và đã có được thứ hạng hiếm thứ hai của mình, Señorita Scheherazade Tọa độ. Các mối quan hệ Akari Ōzora Khi mới gặp nhau, Akari đã nhiều lần chỉ ra rằng Juri rất \\\\\\\"nóng\\\\\\\". Khi Juri nói với mọi người rằng cô không có kế hoạch cho năm mới, Akari đề nghị Juri ở lại với cô. Juri ngưỡng mộ Akari và quyết tâm của cô ấy và cũng muốn được như vậy. Hikami Sumire Hinaki YAMō Juri và Hinaki là bạn thời thơ ấu khi họ còn nhỏ. Họ thường làm việc cùng nhau và được chứng minh là rất hợp nhau. Khi hai người gặp lại nhau trong tương lai, Hinaki ngạc nhiên trước sức nóng mới của Juri, tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với cô gái dịu dàng mà cô từng biết. Điều đó cho thấy rằng Juri vẫn còn nhớ tình bạn của cô với Hinaki, thậm chí dừng lại giữa lúc đang tập luyện khi nhìn thấy cô. Sau khi hai người sửa đổi với cách Juri đã thay đổi, họ được chứng minh là vẫn giữ được tình bạn mà họ có. Cuối cùng, họ tạo thành một bộ đôi được gọi là Passionate✮Jalapeño sau khi ra mắt Dancing Diva .Madoka Amahane ( ま ど Amahane Madoka ) là một trong những nhân vật chính xuất hiện lần đầu trong Data Carddass Aikatsu! 2015 Series và phần 3 của anime . Cô là một thần tượng dễ thương và là cháu gái của nhà thiết kế hàng đầu của Angely Sugar , Asuka Amahane . Thương hiệu ưa thích của cô là Angely Sugar . Nội dung [ hiển thị ] Tiểu sử Một thần tượng tân binh nổi tiếng với nụ cười dịu dàng, dễ thương đã được nhận vào trường Starlight vào tháng Tư. Cô ấy luôn yêu thích những chiếc váy mà bà của cô ấy làm từ khi còn rất nhỏ. Xuất hiện Madoka có mái tóc dài màu hồng, lượn sóng, màu hồng trung tính được buộc thành hai bím tóc. Mỗi chiếc cà vạt có một nửa cánh thiên thần ở phía tương ứng. Đôi mắt của cô ấy màu xanh cerulean, và cô ấy được tuyên bố là rất dễ thương. Nhân cách Cô ấy là một cô gái ngọt ngào, nhưng bất ngờ, chắc chắn, là người trêu chọc bạn bè. Madoka thực sự thiếu tự tin về cách cô ấy biểu diễn, như trong buổi ra mắt trực tiếp cho Skips hoặc khi cô ấy hỏi bà của mình một chiếc váy hiếm cao cấp. Một đặc điểm đáng chú ý của cô ấy là cô ấy rất trung thực, thường được bạn bè chú ý. Từ nguyên Amahane ( 天羽 ) Ama ( 天 ) có nghĩa là bầu trời và Hane ( ) có nghĩa là lông vũ. Madoka ( ま ど ) , khi được viết bằng hiragana, không có ý nghĩa thực sự. Tuy nhiên, nó có thể được viết bằng kanji là \\\\\\\"\\\\\\\" (vòng tròn), \\\\\\\"花\\\\\\\" (vòng tròn, hoa), \\\\\\\"香\\\\\\\" (cửa sổ, hương thơm) hoặc \\\\\\\"花\\\\\\\" (cửa sổ, hoa). Lý lịch Madoka có hứng thú với thần tượng, sau khi nhìn thấy một trong những chiếc váy của bà cô. Ý nghĩ duy nhất xuất hiện trong đầu Madoka là cách cô ấy muốn mặc nó khi lớn lên. Sau khi nói với bà của mình rằng cô ấy muốn mặc một chiếc váy như vậy, Asuka nói với cô ấy rằng cô ấy làm váy cho thần tượng. Madoka tò mò không biết thần tượng là gì khi cô trả lời rằng thần tượng là người cô mặc váy cho mình, vì vậy Madoka háo hức quyết định trở thành thần tượng khi cô lớn lên. Ước mơ trở thành thần tượng của Madoka hoàn toàn tự nhiên nhưng cô và bà của cô đã nhận ra điều đó và vui lòng khuyến khích cô. Sau khi dành nhiều thời gian hơn với cô ấy tại nơi làm việc tại Angely Sugar , cô ấy đã nhìn thấy một khía cạnh mới của bà ngoại. Đó là một khía cạnh chỉ cố gắng cho sự hoàn hảo trong những chiếc váy, vì cô ấy rất nghiêm khắc về sự hoàn hảo và sau khi thấy nỗ lực đó, Madoka đã ngừng nói về mong muốn mặc váy của mình nhưng vẫn theo đuổi mục tiêu trở thành thần tượng. Cuối cùng, cô được nhận vào Starlight .\\\\\\\" Những gì tôi đã mất hồi đó là một phong cách của riêng tôi! Từ giờ trở đi, không còn bắt chước nữa. Tôi sẽ làm cho mỗi ngày bùng nổ với thời trang của chính Hinaki YAMō! \\\\\\\" - Hinaki trong tập 113 Hinaki YAMō ( 新 条 ひ Shinj, YAMō Hinaki ) là một nhân vật chính cho Data Carddass Aikatsu! Sê-ri 2015 và mùa thứ ba của anime . Cô ấy là một thần tượng kiểu pop và thương hiệu chính của cô ấy là Vivid Kiss . Nội dung [ hiển thị ] Xuất hiện Hinaki có mái tóc vàng, xoăn ngắn màu vàng hoe trong một chiếc áo lông vũ. Cô ấy có một bím tóc đi qua phía bên phải trán và kẹp với một ngôi sao màu cam. Đôi mắt cô là một màu xanh lá cây xuyên thấu. Nhân cách Hinaki là một cô gái tràn đầy năng lượng với cách cư xử không chính thức về cô ấy cho phép cô ấy hòa hợp với những người khác. Cô ấy đã kinh doanh trong ngành giải trí từ nhỏ và do đó có nhiều kiến ​​thức và kinh nghiệm hơn so với hầu hết các thần tượng ở độ tuổi của cô ấy. Bởi vì điều này, đôi khi cô ấy sẽ cảm thấy không an toàn vì không có gì cô ấy nói nghe có vẻ tươi. Cô ấy là một cô gái rất thời trang và thích được như vậy. Cô ấy thích mặc quần áo và cảm thấy rằng có những bộ quần áo phù hợp với tất cả mọi người. Từ nguyên YAMō ( ) có nghĩa là tình cảm hoặc vật phẩm của đức tin. Hinaki ( ひ な ) được viết bằng hiragana nên ý nghĩa thực sự là không rõ; tuy nhiên, \\\\\\\"ki\\\\\\\" có thể được viết bằng nhiều chữ Hán khác nhau, trong khi \\\\\\\"hina\\\\\\\" thường được viết là \\\\\\\"\\\\\\\", có nghĩa là \\\\\\\"gà con\\\\\\\". Lý lịch Hinaki là con gái của cha mẹ làm việc cho một tạp chí thời trang. Khi còn trẻ, cô quyết định muốn tham gia kinh doanh show và với sự giúp đỡ của bố mẹ, cô đã có thể ra mắt. Hinaki đã xuất hiện rất nhiều vào thời điểm đó và đôi khi nhận công việc với Juri Kurebayashi . Tại một thời điểm, trong một lần xuất hiện trực tiếp vào một ngày mưa, cô bị trượt chân và ngã trên sân khấu khiến cô bất tỉnh. Cô được đưa đến bệnh viện và mặc dù điều đó không có gì nghiêm trọng, nhưng các nhân viên đã trở nên rất bảo vệ cô từ thời điểm đó. Do đó, Hinaki, không muốn người khác lo lắng về mình, bắt đầu làm mọi việc và đưa ra những lựa chọn mà cô biết sẽ mang lại sự dễ dàng cho người khác. Ngay cả khi phải trả giá cho những ý tưởng của riêng mình và những gì cô ấy nghĩ về bản thân. Điều này tiếp tục cho đến khi cô bắt gặp Akari , người tươi rói thắp lên trong cô. Ringo Hoshimiya Mẹ Tên tiếng nhật 宮 り ん Tên La Mã Hoshimiya Ringo Tên tiêng Anh Ringo Hoshimiya Số liệu thống kê Tuổi tác không xác định Giới tính Giống cái Liên kết Giả trang (trước đây) Bento Nandemo Nghề nghiệp Chủ cửa hàng Bento Cựu thần tượng hàng đầu Sự xuất hiện đầu tiên Trò chơi Carddass dữ liệu Bộ sưu tập thứ 6 (nhân vật khách cho chiến dịch) Anime Tôi có thể trở thành một thần tượng? Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Mamiko Noto (tiếng Nhật) Srilan Wulan (người Indonesia) Giọng hát Eimi Ringo Hoshimiya ( 星 宮 り Hoshimiya Ringo ) là một nhân vật phụ được thấy trong bộ phim hoạt hình của Data Carddass Aikatsu! . Cô là vợ của Taichi Hoshimiya và mẹ của Ichigo Hoshimiya và Raichi Hoshimiya . Nội dung [ hiển thị ] Sinh học Ringo điều hành một cửa hàng Bento tên là Nandemo Bento và cô là một trong những người ủng hộ chính của Ichigo khi cô đi trên con đường của một thần tượng. Cô đã từng lo lắng rằng giấc mơ của chính mình bị ảnh hưởng đến con gái và muốn cô làm những gì cô muốn. Khi Raichi nói với cô rằng Ichigo muốn trở thành một thần tượng, Ringo biết rằng cô đang theo đuổi giấc mơ của mình và bảo Ichigo làm những gì cô thực sự mong muốn. Nhiều lần được gợi ý trong loạt phim rằng Ringo có thể là \\\\\\\" Miya \\\\\\\", nửa kia của đơn vị thần tượng huyền thoại, Superman . Tuy nhiên, giả định này chưa bao giờ được xác nhận cho đến Tập 47 , khi cô tháo mặt nạ trước mặt Ichigo. Xuất hiện Ringo có mái tóc nâu đỏ lượn sóng / xoăn thường được giữ ở đuôi ngựa thấp vắt qua vai phải và đôi mắt màu hổ phách. Khi cô ấy tái hợp với Orihime Mitsuishi trong vai Miya, mái tóc của cô ấy được tạo kiểu theo kiểu đuôi ngựa cao. Nhân cách Ringo là một người phụ nữ rất tốt bụng, chu đáo và dễ tính đối với gia đình. Cô cũng được Seira Otoshiro mô tả là có sự rung cảm \\\\\\\"la la la\\\\\\\" về cô.Orihime Mitsuishi ( 光 石 織 ) là hiệu trưởng của trường Starlight . Trong Aikatsu Carddass dữ liệu! Trò chơi, cô là người hướng dẫn cho người chơi cùng với Johnny Bepp . Nội dung [ hiển thị ] Lý lịch Orihime đã từng là thành viên của đơn vị thần tượng huyền thoại Superman và được biết đến với cái tên \\\\\\\" Hime \\\\\\\" ( メ sáng Công chúa) . Ở đỉnh cao của sự nổi tiếng của Superman, cô và cộng sự của mình, Miya , đã giải tán với Hime tháo mặt nạ và Miya rời khỏi sân khấu mà không làm điều tương tự. Đến bây giờ, Orihime là hiệu trưởng hiện tại của Starlight School . Sinh học Xuất hiện Orihime là một phụ nữ trưởng thành với đôi mắt xanh thẫm và mái tóc nâu xoăn dài vừa phải. Cô có tông màu xanh dương và được miêu tả trong bộ đồ thời trang với chiếc khăn màu xanh bột quanh cổ. Nhân cách Orihime là một người phụ nữ tốt bụng nhưng nghiêm khắc. Đôi khi cô đóng vai trò là người hướng dẫn cho các thần tượng của Trường học Ánh sao và hiếm khi mất đi vẻ lạnh lùng. Cô được chứng minh là khá kiên nhẫn và có niềm tin cao độ vào các thần tượng của Starlight, đặc biệt là Ichigo và bạn bè của cô. Trong anime , Orihime luôn theo dõi hoạt động diễn ra với các thần tượng của mình và có xu hướng, như Johnny nói, \\\\\\\"tìm kiếm sự phấn khích\\\\\\\". Mặc dù thực tế rằng tuyên bố này đã được chứng minh nhiều lần trong loạt phim, nhưng Orihime không bao giờ thực sự phủ nhận nó. Từ nguyên Mitsuishi ( ) Mitsu ( 光 ) có nghĩa là ánh sáng, và Ishi ( 石 ) có nghĩa là đá. Orihime ( ) có nghĩa là công chúa dệt. Tên này cũng thuộc về công chúa dệt trong truyện dân gian nổi tiếng của \\\\\\\"Cô gái thợ dệt và người chăn bò\\\\\\\", và được tổ chức trong thời Tanabata . Orihime cũng là tên tiếng Nhật của ngôi sao Vega .Taichi Hoshimiya ( 星 宮 太 Hoshimiya Taichi ) là một nhân vật phụ trong Aikatsu! phim hoạt hình . Ông là chồng của Ringo Hoshimiya và là cha của Ichigo Hoshimiya và Raichi Hoshimiya . Nội dung [ hiển thị ] Lý lịch Taichi là một nhà thám hiểm đi khắp thế giới để tìm kiếm các loại thực phẩm mà thế giới chưa từng thấy trước đây và mang lại hạnh phúc cho những người đó. Anh ấy là một người trung thực, luôn giữ lời hứa và không bao giờ nói dối. Coi thường sự thật này, những câu chuyện anh kể cho Ichigo và Raichi về những chuyến đi của anh có xu hướng nghe hơi tanh, tuy nhiên hai người không bao giờ nghi ngờ rằng đó là sự thật. Giống như vợ mình, anh ta dường như có mối liên hệ với nữ hiệu trưởng của Học viện Starlight , Orihime Mitsuishi , từng nói rằng \\\\\\\"Hime-chan vẫn là người đẹp tuyệt vời mà cô ấy vẫn luôn như vậy\\\\\\\". Do đó, Ringo có thể đã gặp anh ấy trước khi thử giọng để trở thành thần tượng và có thể là lý do cô ấy chọn nghệ danh \\\\\\\"Miya\\\\\\\" khi cô ấy là thành viên của Superman . Xuất hiện Taichi là một người đàn ông có làn da màu ô liu với mái tóc vàng ngắn bẩn thỉu và đôi mắt đỏ. Ông thường được nhìn thấy mặc một bộ đồ màu sô cô la. Nhân cách Taichi là một người đàn ông tốt bụng, trung thực và đáng tin cậy, có vẻ khá mạnh mẽ và quyết đoán. Anh ấy là một người rất thân thiện và \\\\\\\"khá đàn ông\\\\\\\", theo Johnny Bepp hoặc Johnny Schwarz Jersey Tọa độ . Các mối quan hệ Ringo Hoshimiya Ringo là vợ của Taichi, người anh gặp khi cô đang hát một mình. Ichigo Hoshimiya Ichigo là con gái của Taichi. Mối quan hệ cha-con sâu đậm của họ có thể được thể hiện thông qua Taichi vội vã quay trở lại sau khi có được những tấm bia từ ngôi làng xa xôi để xem buổi thử giọng đặc biệt của Ichigo trong Tập 25 . Raichi Hoshimiya Raichi là con trai của Taichi. Bạn đã sẵn sàng để xem Phép lạ của Mikuru chưa? \\\\\\\" - Câu khẩu hiệu của Mikuru Mikuru Natsuki ( 夏 樹 み Nats Natsuki Mikuru ) là một trong những nhân vật chính mới nhất trong Phần 2 của Aikatsu! loạt. Cô hợp tác với Mizuki Kanzaki , thành lập bộ đôi WM hiện đã tan rã. Thương hiệu chính của cô là Vivid Kiss . Nội dung [ hiển thị ] Xuất hiện Mikuru là một cô gái có làn da trắng với đôi mắt hai màu đỏ và tím. Cô ấy có mái tóc vàng cát thường được tạo kiểu thành hai nửa bím tóc được giữ bằng một barrette trái tim màu vàng ở bên trái và barrette ngôi sao màu xanh ở bên phải. Đôi khi, tóc của cô ấy theo kiểu đuôi ngựa và được giữ bằng một chiếc kẹp tóc. Cô có những vệt màu hồng đáng chú ý trên mái tóc. Nhân cách Mikuru là một cô gái ngọt ngào, rất mạnh mẽ và có ý nghĩa. Cô ấy rất tươi sáng và yêu hoa, đến mức cô ấy thường xuyên so sánh chúng với những thứ khác. Cô ấy cũng có một tài năng với quần áo. Cô ấy khá tự do và thực hiện phép màu của mình, Phép màu của Mikuru, trên sân khấu và trong cuộc sống hàng ngày. Do chuyên môn của mình với hoa, cô ấy thích so sánh mọi thứ với chúng. Lý lịch Mikuru sinh ra ở Đan Mạch, nhưng đã chuyển đến Nhật Bản khi cô ba tuổi. Tại một số thời điểm, nhiều năm sau, cô và gia đình bắt đầu một cửa hàng làm vườn gần biển. Niên đại Cúp đối tác Aikatsu! - 78 21,15 Ngay trước Cup Mikuru xuất hiện ngay sau thông báo của chiếc cốc, ra mắt với tư cách là đối tác của Mizuki trong dự án mới của cô, đơn vị thần tượng WM . Điều này đã thu hút sự nổi tiếng của cô ngày càng lớn hơn, hiện đang cạnh tranh với sự nổi tiếng của băng đảng Ichigo Hoshimiya và Học viện giấc mơ của Seira Otoshiro và những người khác. Tập 79 - Vâng! Cộng sự tuyệt nhất Cuộc họp định mệnh Trong tập 81, Ichigo và Seira, tò mò về cách Mizuki và Mikuru gặp nhau và Mikuru đã \\\\\\\"bấm\\\\\\\" cho Mizuki như thế nào, quyết định đến Văn phòng Ánh trăng và hỏi. Sau phần giới thiệu ngắn gọn với Mikuru, đơn vị đang lên bắt đầu nói với họ mọi chuyện xảy ra như thế nào ... Mọi chuyện bắt đầu khi Mizuki vẫn còn là học sinh của Học viện Starlight . Cô đang chuẩn bị cho một buổi hòa nhạc, nhưng gặp khó khăn trong việc lựa chọn phối đồ cô nên mặc. Trong khi chiêm ngưỡng, Mikuru xuất hiện giao hoa. Sau khi cô chú ý đến những tấm thiệp, Mizuki giải thích với người làm vườn về cách các dây buộc phải làm cho cô tỏa sáng, nhưng chỉ có thể thể hiện những mặt của cô mà người hâm mộ của cô đã nhìn thấy. Mizuki sau đó nói rằng cô ấy muốn thay đổi nhưng không thể. Mikuru mỉm cười sau khi nghe thấy tình trạng khó khăn của thần tượng, và hỏi cô ấy nếu cô ấy muốn xem Phép lạ của Mikuru, sau đó tiến hành chuẩn bị một Phối hợp tốt cho cô ấy. Sau đó, Mikuru xem buổi hòa nhạc của Mizuki và ngạc nhiên về cách cô ấy có thể cười với rất nhiều người, điều này trái ngược với nụ cười một mất một còn của cô ấy với khách hàng tại cửa hàng của mình. Sau đó cô cảm thấy muốn làm điều tương tự. Mizuki giải thích làm thế nào Mikuru thắp một ngọn đèn trong cô, và Mikuru nói rằng cảm giác như mặt trăng tỏa sáng rực rỡ luôn ở bên cạnh cô. Từ nguyên Natsuki ( ) Natsu ( ) có nghĩa là \\\\\\\"mùa hè\\\\\\\" có thể là một tham chiếu đến thương hiệu của cô, Vivid Kiss, một bờ biển phía tây, thương hiệu lấy cảm hứng từ mùa hè. Ki ( 樹 ) có nghĩa là \\\\\\\"cây.\\\\\\\" Đây là một tham chiếu đến cô ấy là một người làm vườn. Mikuru ( み く ) là một cách chơi ban đầu của từ \\\\\\\"phép lạ\\\\\\\" ( ら く mirakuru ) khi được viết bằng hiragana. Đây là một tham chiếu đến \\\\\\\"Phép lạ của Mikuru.\\\\\\\" \\\\\\\"Mikuru\\\\\\\" cũng có thể được viết là \\\\\\\"\\\\\\\" hoặc \\\\\\\"\\\\\\\", nghĩa là \\\\\\\"tương lai\\\\\\\" hoặc \\\\\\\"thế giới sắp tới\\\\\\\". Điều này có thể ám chỉ Mizuki, đối tác của cô, người đang \\\\\\\"bắt đầu một Aikatsu mới.\\\\\\\"Asuka Amahane ( 天羽 あ す Amahane Asuka ) là nhà thiết kế hàng đầu của Angely Sugar . Nội dung [ hiển thị ] Sinh học Cô ấy là bạn của Ringo Hoshimiya và Orihime Mitsuishi . Ichigo Panic tiết lộ rằng cô là một người mẹ và ban đầu tạo ra Angely Bear cho các con của mình. Cô ấy thích nhờ Ichigo giúp cô ấy trong nhiều việc liên quan đến Angely Sugar. Cô cũng là bà của Madoka Amahane . Xuất hiện Asuka là một phụ nữ trung niên có làn da sáng màu với đôi mắt màu đỏ hồng đậm đeo sau cặp kính hồng. Cô có mái tóc hơi phồng, màu hồng nhạt và trang điểm nhẹ. Cô có một bộ trang phục màu hồng và đeo một chiếc vòng cổ ngọc trai lớn và hoa tai màu hồng. Nhân cách Cô là một phụ nữ trung niên có phong cách ôn hòa, có tính cách dễ thương. Từ nguyên Amahane ( 天羽 ) Ama ( 天 ) có nghĩa là bầu trời và Hane ( ) có nghĩa là lông vũ. Asuka ( す ) thường được viết là trong Kanji. Asu ( 明日 ) có nghĩa là ngày mai và Ka ( 香 ) có nghĩa là hương thơm.Để biểu diễn, những thẻ bài này là cuộc đời của thần tượng\\\" Mục lục[hiện] - Khẩu hiệu chính thức của bộ phim Aikatsu Thẻ Aikatsu được sử dụng bởi các sinh viên của các trường thần tượng như Starlight Acedamy và Dream Academy và các thần tượng khác để mặc. Ngoài ra còn có các thương hiệu,với các nhà thiết kế hàng đầu của riêng nó để thiết kế trang phục cho thẻ Aikatsu. Các thẻ cũng được phát hành trong cuộc sống thực với cái nhìn sửa đổi dưới Cardass và Bandai có tiêu đề \\\"Data Carddass Aikatsu!\\\". Các thẻ chứa quần áo số hóa được mặc bởi các thần tượng trong các buổi biểu diễn và thử giọng. Quần áo đến từ nhiều loại nhãn hiệu khác nhau và có mức độ hiếm khác nhau. Mặc dù hầu hết quần áo đều phối hợp cụ thể, người chơi cũng có thể trộn và kết hợp các thẻ khác nhau để tìm ra một sự kết hợp tốt. Chúng được chia thành bốn loại: Phần trên, Phần dưới, Giày và Phụ kiện, với một số loại thẻ, chẳng hạn như một bộ váy, loại bỏ sự cần thiết cho người khác. Hướng dẫn dùng thẻ Thể loại Ảnh Thể loại Ví dụ Icon-tycute Cute Snapshot Icon-tycool Cool 螢幕快照 2015-11-06 下午11.24.21 Icon-tysexy Sexy 螢幕快照 2015-10-29 下午06.00.20 Icon-typop Pop 螢幕快照 2015-11-26 下午10.19.17 Phần Ảnh Phần Ví dụ Icon-cttops Phần trên PRariesTOPS Icon-ctbottoms Phần dưới PRcapricornBOTTOMS Icon-ctshoes Giày PRlibraSHOES Icon-ctaccessory Phụ kiện PRtaurusAccess Icon-cttb Váy CPvirgoDRESS Độ hiếm Độ hiếm Mô tả Ví dụ ノ ー マ ル Bình thường Nhiều thẻ ngẫu nhiên mà thần tượng có thể tìm thấy ở bất kỳ đâu, hầu hết các thần tượng đều có một bộ thẻ bình thường, như trong tập 14. Thẻ thông thường có điểm hấp dẫn thấp và có ★★☆ hoặc ★★★ ngôi sao may mắn. Htrgfds レ ア Hiếm Như tên mô tả, thẻ hiếm là các loại thẻ giống phiên bản giới hạn, chủ yếu được cung cấp bởi các nhà cung cấp nhãn hiệu. Thẻ hiếm có điểm hấp dẫn trung bình và có ★☆☆ hoặc ★★☆ ngôi sao may mắn. OdileSwan full プ レ ミ ア ム レ ア Hiếm cao cấp Những coords được sản xuất duy nhất một lần, thẻ hiếm cao cấp được thiết kế bởi các nhà thiết kế hàng đầu theo yêu cầu, được thiết kế từ tận đáy trái tim của họ. Thẻ hiếm cao cấp có điểm hấp dẫn cao và có ☆☆☆ hoặc ★☆☆ ngôi sao may mắn OdetteSwan full キャンペーンレア Chiến dịch hiếm Thẻ chiến dịch hiếm giống như thẻ hiếm, nhưng chỉ có thể tìm thấy thẻ chiến dịch hiếm trong các chiến dịch. Các mẫu thiết kế chủ yếu là một thiết kế lại từ thẻ đã tồn tại được gọi là thiết kế lại mẫu gốc. MonsterCat fullShion Kamiya ( 谷 し Kamiya Sion ) là một học sinh của trường Starlight , người đã ra mắt trong tập 14 . Cô ấy là một nữ diễn viên hầu hết thời gian, và là một thần tượng kiểu lạnh lùng với thương hiệu ưa thích là Futuring Girl . Trong tập 38 , Shion thành lập và là thành viên của đơn vị Powapowa-Puririn , cùng với Otome Arisugawa và Sakura Kitaōji . Nội dung [ hiển thị ] Sinh học Shion là một nữ diễn viên tuổi teen ra mắt ở tuổi 10. Được biết đến là Nữ diễn viên của bảy khuôn mặt do khả năng thay đổi biểu cảm trên sân khấu hoàn toàn; đi từ nghiêm túc đến bất cứ tính cách nào cô ấy muốn. Do bản tính nghiêm túc của cô ấy luôn dành thời gian cho công việc, ban đầu cô ấy không có bạn bè. Trong tập 14, cô đã tham gia một buổi thử vai trong một bộ phim trinh thám có tên là thám tử nghịch ngợm và chọn vai nhân vật nam tính, kết thúc với Ichigo . Các cô gái học được cách Shion tận tâm với vai trò của mình và vượt qua buổi thử giọng, làm người bạn đầu tiên: Aoi . Nhân cách Shion nghiêm túc và kín đáo, hầu như không bao giờ mỉm cười hay nói lại trước khi cô kết bạn với bất kỳ ai. Mặc dù vậy, cô ấy không thực sự không thân thiện. Cô tin rằng diễn xuất là tất cả và niềm đam mê của cô dành cho nó không có giới hạn. Cô ấy sẽ làm những gì có thể để cảm thấy giống nhân vật mà cô ấy đang cố gắng thực hiện, ngay cả khi điều đó có nghĩa là cắt tóc. Tuy nhiên, sau khi cô ấy làm cho một số người bạn, Shion bắt đầu mỉm cười và cởi mở hơn rất nhiều, mặc dù vậy cô ấy vẫn khá nghiêm túc và giữ bình tĩnh lạnh lùng. Xuất hiện Shion có nước da trắng với đôi mắt màu xanh lá cây và mái tóc nâu sẫm. Ban đầu tóc cô đến giữa lưng, đeo ruy băng. Sau khi cắt nó, nó chạm đến cổ cô với những mẹo dính lên. Cô thường được tìm thấy trong bộ đồng phục của trường hoặc trang phục cho bất kỳ vai trò nào cô đang làm. Sự phát triển về nhân cách Shion bắt đầu là một cô gái nghiêm túc, rất tận tâm với diễn xuất, cố gắng chủ yếu cho các phần kiểu \"ngầu\". Khi câu chuyện tiếp tục, Shion mở ra nhiều hơn, cuối cùng có thể đóng vai Alice và nở một nụ cười rạng ngời. Từ nguyên Kamiya ( 神 ) Kami ( 神 ) có nghĩa là thần, có thể đề cập đến vai trò của cô là một nữ diễn viên thiên tài và Ya ( tani ) có nghĩa là thung lũng. Shion ( し お ) là từ tiếng Nhật của hoa aster . \"Shion\" cũng là một cái tên unisex có thể liên quan đến những vai nam tính, lạnh lùng mà cô thường thử.Sakura Kitaoji ( 北大路さくらKitaoji Sakura ) là một trong tám nhân vật chính trong các dữ liệu Sakura Kitaōji Carddass Aikatsu! trò chơi và thích ứng hoạt hình liên quan. Cô là một trong bốn cô gái lần đầu tiên được thể hiện trong việc mở đầu cho biết phim hoạt hình; Tuy nhiên, ra mắt chính thức của cô trong series chính là trong tập 26 . Các thương hiệu hàng đầu mà Sakura sử dụng là Aurora Ảo . Tính Episode 38 của anime, cô là thành viên của Powapowa-Puririn , một đơn vị độc lập thần tượng gồm mình, Otome , vàShion . Mục lục[hiện] Bối cảnh Sakura đến từ một gia đình nhà hát đoàn kịch kabuki nổi tiếng và kết quả là đã học được rất nhiều nghệ thuật cổ xưa của Nhật Bản kể từ thời thơ ấu của mình. Cũng giống như các thành viên khác trong gia đình của mình, cô có thói quen di truyền đột nhập vào sân khấu và khi trải qua những cảm xúc mạnh mẽ được gọi là \" Nhà hát Kitaoji \". Bio Tính cách Sakura là một cô gái rất bình tĩnh, lịch sự, và nói nhỏ nhẹ. Cô ấy rất thân thiện và một nhân viên chăm chỉ, như Ichigo. Khi đến cô tại Starlight, Ichigo đã được gán cho là senpai của mình. Kể từ đó, cô và bạn bè của cô đã giúp Sakura được sự tự tin vào bản thân, và phát triển tình bạn và companionships trong mỗi khác và phần còn lại của cộng đồng Starlight . Bởi mùa hai, Sakura đã trở nên tự tin và quyết đoán hơn, mặc dù cô vẫn giữ lại một số tính chất giọng nói nhẹ nhàng của cô. Xuất hiện sửa Sakura đã Peridot đôi mắt xanh và mái tóc màu hồng ngắn mà đi vào gáy cô. Tóc của cô được phong cách trong một lớp bob và được trang trí với một clip hoa tóc. một mùa đồng phục thần tượng cơ bản của cô bao gồm một đầu màu vàng đeo dưới một chiếc khăn choàng màu xanh lá cây chanh, phù hợp với váy xù, mắt cá chân và giày nâu với file đính kèm hoa màu đỏ trên cổ tay. Các trang phục được trang bị một chiếc vòng tay phù hợp hoa. Niên đại Ra mắt Như An thần tượng Sakura làm cho đầu tay của cô trong tập 26 như một thần tượng mới. Cô gặp với Ichigo, một trong những người được giao nhiệm vụ giúp đỡ cô ấy. Tuy nhiên, anh trai cô, Sakon Kitaoji , vẫn là chống lại ý tưởng của cô là một thần tượng. Họ lập luận trong một thời gian cho đến khi anh bão tắt. Sakura và Ichigo trò chuyện một lúc về những điều cơ bản của hệ thống trường học trước khi họ chia tay. Ngày hôm sau, Sakura và Ichigo bắt đầu các buổi đào tạo của họ và Sakura tiết lộ rằng cô đã tập luyện hàng ngày kể từ khi cô áp dụng cho các học viện. Cô gây ấn tượng Ichigo với sức chịu đựng của mình và đề cập đến mong muốn của mình để trở thành một thần tượng. Cô cũng tiết lộ một tài năng kỳ lạ của cô, Nhà hát Kitaoji. Sau ngày hôm đó, Sakura là buồn bởi thực tế rằng cô ấy dường như một mình ở một nơi xa lạ. Tinh thần của cô sớm được nâng lên bởi những lời khuyến khích của Ichigo và cô nhìn thấy một màn hình chạm của cô sâu sắc. Vào ngày thực hiện, cô biểu diễn Hạnh phúc trên cùng một trái đất mặc Lime Stage Coord cho Lễ Entrance. Mặc dù cô đã không giành chiến thắng, Sakura đã vui vẻ trên sân khấu. Trước sự ngạc nhiên của cô, anh trai cô đã ở đó để xem là tốt. Vui mừng ông đã đến xem, Sakura nói về cách cô ấy không thực sự một mình trên sân khấu vì cô đã hỗ trợ của Ichigo. Thu cao cấp ăn mặc của cô Vài tuần sau khi năm học mới, Johnny thông báo một buổi thử giọng đặc biệt mới. Trong khi Ichigo và bạn bè năm thứ hai đang thảo luận bài hát cho buổi thử giọng, Sakura tiếp cận họ chúc họ may mắn nói rằng cô đang cổ vũ từ băng ghế dự bị. Các cô gái rất ngạc nhiên khi cô không được vào, Sakura nói rằng cô ấy chưa sẵn sàng trong khi Ichigo trả lời nói rằng sinh viên năm đầu tiên được phép tham gia. Ichigo mời cô tham gia vào nhóm của cô, nhưng Sakura kịp thời từ chối đề nghị của cô nói rằng không có cách nào cô có thể xâm nhập vào một nhóm upperclassmen, nói rằng cô thiếu đào tạo để phù hợp với họ và không có một bộ váy cao cấp như mọi người khác. Sakura vẫn cảm thấy tội lỗi, nhưng tất cả mọi người là hạnh phúc hơn để có cô tham gia vào nhóm của họ. Họ sau đó tất cả các quyết định đó là thời gian để chọn ra một thương hiệu cho Sakura, với tất cả mọi người giới thiệu các thương hiệu yêu thích của mình cho cô ấy để sử dụng. Aoi sau đó kéo ra một tạp chí với một cuộc phỏng vấn với Sakura, nơi cô khẳng định thương hiệu yêu thích của cô, cô đã yêu từ khi học tiểu học là Aurora Fantasy. Sakura đã yêu thương các thương hiệu kể từ khi cô là một đứa trẻ bởi vì các nhà thiết kế hàng đầu, Green Grass từng là tác giả của cuốn sách ảnh yêu thích của Sakura. Ichigo đề nghị nói chuyện với Hiệu trưởng và Johnny để được tư vấn, nhưng Sakura nhấn mạnh niềm tin của mình mà váy Aurora Fantasy không phù hợp với mình và sẽ bị từ chối một Premium. Cô nói rằng thậm chí nếu điều này là trường hợp, Sakura từ chối ý nghĩ mặc trang phục bất kỳ thương hiệu khác và đó là lý do tại sao cô ấy không thể tham gia vào các buổi thử giọng với 5 người họ. Cô mong muốn họ là tốt nhất trong buổi thử giọng và lá. Sau đó trong ký túc xá của mình, Sakura nhận được một cuộc gọi từ anh trai của cô và cô thảo luận với anh ta như thế nào cô cảm thấy khủng khiếp đối với việc cô đã thiếu tôn trọng với bối của mình, trong khi anh trai cô khuyên Sakura phải trung thực hơn với họ. Ngày hôm sau, Ichigo gặp với Sakura và cô đã kịp xin lỗi vì hành động của cô ngày hôm trước. Ichigo nói với cô không phải lo lắng hỏi tại sao Sakura tin rằng cô ấy sẽ không phù hợp với trang phục Aurora Fantasy. Sakura giải thích rằng cô sử dụng để đọc sách Green Grass \'thường xuyên, gửi thư cho cô không bao giờ nhận được một câu trả lời duy nhất mà khiến cô tin rằng cô ấy sẽ không phù hợp với thương hiệu. Ichigo nói với cô không từ bỏ mà không cần cố gắng và làm thế nào tất cả mọi người đã chuẩn bị cho các buổi thử giọng. Aoi chạy tới chỗ họ nói rằng cô tìm thấy một câu trả lời nói rằng hạnh phúc Cầu vồng nhà thiết kế hàng đầu của, Makoto là bạn bè với các nhà thiết kế hàng đầu. Ichigo gọi lên Otome và cung cấp cho điện thoại để Sakura, Otome nói với cô cô từ chối để mất tình yêu của Sakura cho Aurora Ảo vì vậy cô đã thể hiện tình yêu của Happy cầu vồng của mình để các nhà thiết kế hàng đầu và nhận được dress hiếm mới cao cấp. Sakura sau đó hỏi Otome hỏi các nhà thiết kế về Green Grass. Ichigo và Sakura đến lối vào nơi Green Grass sống. Sakura nói rằng cô phải đi một mình và những gì cô nhìn thấy là vẫn còn là một bí mật. Cuối cùng cô gặp Green Grass, người sẽ xảy ra là hai chị em sinh đôi giống hệt nhau. Họ nói với cô rằng họ đã luôn luôn muốn gặp cô ấy và làm thế nào họ thưởng thức hình ảnh vẽ nhưng không giỏi viết thư. Thay vì chuẩn bị một bài trả lời, họ đã thực hiện một Aurora Ảo cao cấp ăn mặc cho Sakura để sử dụng, rất đáng ngạc nhiên của cô. Sakura nhận ra họ đã luôn ở bên cô và họ ôm. Sakura chạy ra ngoài để lộ Coord Blooming bà ta để Ichigo. Họ trở về Starlight để có những Audition đặc biệt và tất cả 6 của họ vượt qua. Season 2 Một năm đã trôi qua kể từ Ichigo đã để lại Starlight Academy, Powapowa-Puririn đã trở thành đơn vị hàng đầu Starlight thậm chí còn đạt được một chương trình truyền hình tập trung xung quanh họ. Họ đã tăng đến đỉnh vì là đơn vị thoải mái nhất tại Nhật Bản, với sự nổi tiếng của họ tăng lên thông qua truyền miệng. Sakura cũng đã thay đổi rất nhiều khi một sinh viên năm thứ hai, trở thành quyết đoán hơn và ít rụt rè hơn khi cô là một sinh viên năm đầu tiên. Trong số các học viện, Sakura được xem như là học sinh đứng đầu trong năm thứ hai. Vào cuối năm thứ hai của cô, Sakura dẫn bài phát biểu năm thứ hai để gửi ra cao niên của mình, gần như phá vỡ trong nước mắt ở giữa bài phát biểu. Cô thực hiện như là đại diện của giai cấp quay trở lại với người đại diện của lớp tốt nghiệp, Otome. Season 3 Trong Season 3, Sakura đang ồ ạt ngưỡng mộ bởi underclassmen cô. Nhiều người tin rằng cô là ứng cử viên hàng đầu để trở thành Nữ hoàng Starlight tiếp theo, kể từ khi cô là một trong những thần tượng hàng đầu Starlight của. Cô được xem là vẫn còn là một thành viên tích cực trong Powapowa-Puririn , nhưng vẫn duy trì tập trung vào công việc riêng của mình. Đối với một sinh viên trao đổi, Miyabi Fujiwara buổi hòa nhạc cuối cùng \'s tại Starlight, cô thách thức Sakura đến một buổi hòa mặt xuống. Sakura thắng concert bằng lãi đáng kể, và có sự tôn trọng dành cho cô. Nó được thể hiện Sakura là một chung kết trong Starlight Queen Cup, chiến thắng trong vòng chung kết và trở thành nữ hoàng. trong: Dream Idol Kazesawa Sora SỬA ĐỔI BÌNH LUẬN (2) CHIA SẺ \"Bohemian Sky, thương hiệu của tôi. Với nó, tôi sẽ sử dụng phép thuật của mình trên sân khấu!\" Kazesawa Sora Mùa 2Đồng phục Tvtokyo s2 chara06 sp Tên Kanji 風沢そら Tên Romanji Kazesawa Sora Thông tin Tuổi 15-16 (Mùa 2) 16-17 (Mùa 3) Giới tính Nữ Công việc/ Nghề nghiệp Sinh viên Idol Nhà thiết kế trang phục Nơi làm việc Dream Academy Aikatsu8 (Mùa 2,3) Dream Star (Mùa 2) Ngày sinh 02/10 Nhóm máu B Debut Data Carddass Game Bộ sưu tập 2014, Phần 1(chỉ là phụ) Bộ sưu tập 2014, Phần 2(chính thức ra mắt) Anime Tập 51 (chỉ là phụ) Tập 61 (chính thức ra mắt) Diễn viên/Ca sĩ lồng tiếng Diễn viên lồng tiếng Minami Takahashi Ca sĩ lồng tiếng Eric từ STAR ☆ Anis (hiện tại) Sunao Yoshikawa (trước đây) - Sora Kazesawa trong tập 61, khi cô bước vào phòng thử đồ. Sora Kazesawa (風 沢 そ ら Sora Kazesawa) là một trong những nhân vật chính được giới thiệu trong làn sóng thứ hai của năm 2014 bộ sưu tập các dữ liệu CarddassAikatsu! và Season 2 trong anime. Cô được chính thức giới thiệu là cô gái chính thứ ba đại diện cho giấc mơ Academy sau Seira và Ki. Trọng tâm chính của Sora đượcthiết kế quần áo cùng với việc một thần tượng. Sora đã ra mắt chính thức của cô trong tập 61 của chuyển thể anime. Tại thời điểm đó,cô giới thiệu thương hiệu thiết lập thẻ chính mình (Bohemian Sky) mà cô tạo ra, để cộng đồng Giấc mơ Academy và phần còn lại của Aikatsu! thế giới. Mục lục[hiện] Lý Lịch Sora là một sinh viên của Dream Academy. Cô ấy là một thần tượng và một mô hình có tham dự khoá học được thiết kế riêng. Theo đề nghị của Tiara Yumesaki, Sora tạo ra thương hiệu riêng của mình, Bohemian Sky. Ngoại hình Sora có màu xanh-to-tím tóc ombre, và đôi mắt màu hồng nhạt. Cô có một bím tóc duy nhất trong mái tóc của mình đó là được giữ bằng một bông hoa màu hồng, được trao cho cô bởi Mimi. Sora cũng có làn da nhợt nhạt, và một dấu vẻ đẹp gần cằm. Polotok Tính cách Sora là một nhà thiết kế tài năng mà bình tĩnh và dễ dãi với các bạn đồng nghiệp của cô. Cô ấy ngây thơ của các nền văn hóa Bohemian, (vì thế nền tảng của thương hiệu của mình,) và yêu thiên nhiên và động vật - đặc biệt là vẹt mào cưng của mình, Palm. Sự Kiện Sora đã ban đầu sống ở nước ngoài tại Morroco khi cô còn nhỏ. Khi Sora đã đi cùng mẹ tới thị trường và phát hiện cô Mimi bán phụ kiện. Cô đã được lấy cảm hứng từ Mimi và nói với cô ấy như vậy, gây Mimi để cho vay Sora công cụ thiết kế của mình để làm phụ kiện với. Từ đó về sau, Sora đi hàng ngày để thấy Mimi thiết kế riêng củamình. Nhưng một ngày kia, khi cô đã đi đến thị trường, Mimi không có ở đó. Cô đã đi đến nhà của Mimi, nhưng Mimi đã không có. Sora nhìn thấy một phụ kiện hoa trong một bảng bên cạnh một lưu ý từ Mimi với Sora. Sora nói rằng lý do khiến cô trở thànhmột nhà thiết kế là vì cô thấy khó khăn thế nào Mimi đã làm cho các phụ kiện để cô nghĩ rằng cô đã được đúc một vần. Giải Nghĩa Tên Kazesawa (風 沢) Kaze (風) có nghĩa là gió và Sawa (沢) có nghĩa là đầm lầy. Sora (そ ら) có nghĩa là bầu trời. Có thể là một tham chiếu đến \"bầu trời của riêng mình\" mà phục vụ như là một nửa của nền tảng để thương hiệu của mình, Bohemian Sky. Thông Tin chòm sao chiếu mệnh là Thiên Bình. Cô là nhân vật thứ hai để có một nhãn hiệu làm đẹp, việc đầu tiên là Orihime Mitsuishi (mặc dù dấu vẻ đẹp của cô đôi khi không hiển thị). Cô là một trong hai nhân vật chính có một để làm đẹp, kia là Nono Daichi. Cô tham dự cả hai quá trình thiết kế và quá trình thần tượng tại Dream Academy, như đã đề cập bởi Aoi trong Episode 51. Cô là thần tượng thứ hai để có thương hiệu riêng của mình, Bohemian Sky, sau Mizuki Kanzaki có thương hiệu là Tình yêu Queen. Mặc dù vậy, Sora là thần tượng đầu tiên là một nhà thiết kế (như đã nói bởi Kii). Cô chia sẻ giọng hát của mình với Ran Shibuki. Sau khi tốt nghiệp Sunao từ STAR ☆ Anis, bây giờ cô ấy chia sẻ giọng hát của cô với Maria Himesato và Sakura Kitaoji, và sau đó Kokone Kurisu. Cô là nhân vật thứ tư không phải mặc trang phục trường học của cô trong mắt cô và thứ ba để mặc váy hiếm cao cấp của mình cho đầu tay của cô. Trong mở tập 51, tóc của Sora đang thiếu màu tím. Sora là thần tượng thứ hai để có nhiều hơn một vai khách mời đầu tiên (không nói), trước bởi Ran, người không giống như cô ấy, có vai trò nói trong cả hai vai diễn khách mời, và tiếp theo là Maria Himesato, người có một không nói và một nói. Tuy nhiên cô ấy, là người đầu tiên có hai khách mời không nói, tiếp theo là Mikuru Natsuki là người thần tượng thứ tư tổng thể để có nhiều hơn một vai khách mời đầu tiên, và thứ hai để có cả hai là vai trò không nói. Cô là thần tượng thứ hai để có sự thay đổi nữ diễn viên giọng hát của cô, sau Yurika Todo. Cô là thần tượng thứ hai được biết đến để sở hữu một con vật cưng và các thần tượng chính đầu tiên sở hữu một.Himesato Maria SỬA ĐỔI BÌNH LUẬN CHIA SẺ Maria Himesato (姫 里 マ リ ア Himesato Maria) là một trong những nhân vật chính trong mùa giải thứ hai của Aikatsu! (Cả trong trò chơi arcade (2014 series) và thích ứng anime). Cô được chính thức giới thiệu là cô gái chính thứ tư đại diện cho cộng đồng Giấc mơ Academy sẽ ra mắt chính thức của cô trong tập 68 của chuyển Himesato Maria Mùa 2Đồng phục Aikatsu! - mariahimesato Tên Kanji 姫里マリア Tên Romanji Himesato Maria Thông tin Tuổi 15-16 (Mùa 2) 16-17 (Mùa 3) Giới tính Nữ Công việc/ Nghề nghiệp Idol Học sinh Nơi làm việc Dream Academy Aikatsu8 (Mùa 2,3) Dream Star (Mùa 2) Ngày sinh 18/4 Nhóm máu O Debut Data Carddass Game Bộ sưu tập 2014, Phần 1 Anime Tập 51 (chỉ là phụ) Tập 68 (ra mắt chính thức) Diễn viên/Ca sĩ lồng tiếng Diễn viên lồng tiếng Misako Tomioka Ca sĩ lồng tiếng Eri từ STAR☆ANIS thểanime. Cùng với Sakura Kitaoji (của cộng đồng Starlight Academy), thương hiệu thẻ chính bộ đó Maria sử dụng là Aurora Fantasy . Mục lục[hiện] Lý Lịch Maria là một sinh viên của Dream Academy người dường như là những người bạn tốtvới Sora Kazesawa, vì chúng tôi thường gặp nhau kể từ khi ra mắt chính thức của mình, và ngay cả trong mắt khách mời của cô. Cô là một người dễ thương kiểu thần tượng và một trong những mô hình giấc mơ của Học viện. Có vẻ như cô - cùng vớiSora - đã trở nên phổ biến như cả hai người đều nhìn thấy trên bìa một tạp chí. Nó đã được tiết lộ trong tập phim đầu tay của cô rằng cô là con gái của một gia đình giàu có người sở hữu một trang trại ở vùng núi. Ngoại hình Maria có mái tóc màu caramel được kiểu vào mái tóc quăn với một phần được tổ chứcvới một ban nhạc hoa tóc. Cô có đôi mắt màu tím sẫm và làn da trắng. Tính cách Maria là một người tốt, nhẹ nhàng và giọng nói nhẹ nhàng cô gái. Cô rất ân cần, như thể hiện trong tập 69, khi bà mất vào tài khoản thích của mọi người cho bên nhà cô. Maria rất ngọt ngào và tốt với mọi người. Giải Nghĩa Tên Hime (姫) có nghĩa là công chúa, tham khảo với cô là một \"Ojo-sama\" và Sato (里) có nghĩa là làng; rất có thể đề cập đến nhà của cô ở núi mà nằm gần một ngôi làng. Maria (マ リ ア) có nhiều bản dịch. Trong tiếng Latin nó có thể có nghĩa là \"muốn cho con\" hay \"ngôi sao của biển\". Mặc dù có nguồn gốc không phải người Nhật của tên, nóđã phổ biến khá là tên của một cô gái ở Nhật Bản.Saegusa Kī SỬA ĐỔI BÌNH LUẬN (1) CHIA SẺ Kī Saegusa Mùa 2Đồng phục Tvtokyo s2 chara05 sp Tên Kanji 冴草さえぐさ きい Tên Romanji Saegusa Kī Thông tin Tuổi 14-15 (S2) 16 (S3) Giới tính Nữ Công việc/ Nghề nghiệp Sinh viên Idol Nhà sản xuất Nơi làm việc Dream Academy Dream Star (S2) Ngày sinh 03/12 Nhóm máu O Debut Data Carddass Game Bộ sưu tập 2014 - Phần 1 Anime Rocking Girl đó là Giấc mơ ☆ Cô gái Diễn viên/Ca sĩ lồng tiếng Diễn viên lồng tiếng Chuna Kim Hyeon-ji (Hàn Quốc) Ca sĩ lồng tiếng Yuna từ STAR☆ANIS Kim Hyeon-ji (Hàn Quốc) \"Ok-ok-okay!\" - Câu nói chính của Kī .Saegusa Kī (冴 草 き い Saegusa Kī) là một trong những nhân vật chính mới được giới thiệu vào năm 2014 của Data Carddass Aikatsu! game và anime hoạt hình liên quan cùng với Otoshiro.Seira Giống như Seira, Kī là một trong những cô gái chính đại diện cho Dream Academy. Cô ấy là một thần tượng nhạc pop có thương hiệu chính là Magical Toy. Mục lục[hiện] Ngoại hình Kī có mái tóc vàng rực rỡ và phùng ra giống như quả bong bóng, mỗi been đều được buộc với một dải băng màu xanh lá cây. Khi không biểu diễn, cô thường đeo kính màu đỏ. Tính cách Là một thần tượng thuộc thể loại pop, Kī rất vui vẻ và tràn đầy sức sống. Cô ấy có thói quen nói một số từ hai lần hoặc thậm chí ba lần trước khi kết thúc một câu. Điều này được tiết lộ là do ảnh hưởng từ mẹ cô, người đã làm như vậy. Kī nói rằng mẹ cô là \"nhà sản xuất của cô\", đã trở thành thuyền trưởng chính của cô trong việc hỗ trợ và tin tưởng vào thời thơ ấu của cô. Sự kiện Kī lần đầu tiên xuất hiện trong buổi ra mắt của Seira, nói với Seira rằng không nói với Kiriya Aoi về toàn bộ bối cảnh của cô mà cô đã nói trong quá trình này. Trong thời thơ ấu của mình, Kī là một cô gái rất nhút nhát không có bạn bè. Cô ấy nói rằng cô ấy ghen tị với tất cả các cô gái khác trong lớp, bởi vì họ rất dễ thương, và cô ấy không. Mẹ của Kīi nhận thấy tình trạng tiến thoái lưỡng nan của mình và sau đó đã \"đánh vần\" con gái mình để cho cô ấy tự tin để cô ấy có thể dễ thương. Vì lý do này, Kī đã có thể tự tin hơn trong bản thân mình, và cuối cùng vào Dream Academy nơi cô được giới thiệu với Seira; trở thành nhà sản xuất và sau đó là một thần tượng. Giải nghĩa tên Saegusa (冴 草): Sae (冴) có nghĩa là phải thành thạo, có thể nói về tài năng của mình như là một nhà sản xuất và Gusa (草 kusa) có nghĩa là cỏ. Kī (き い) không có ý nghĩa cụ thể và có thể được giải thích bằng nhiều cách. Nó thường được kết hợp với nữ diễn viên người Nhật Kī Kitano (北 乃 き い). Thông tin Kī có thể là một nửa nước ngoài, cho cô xuất hiện và nơi sinh. Nước giải khát yêu thích của Kī là Brain Thunder và món ăn yêu thích của cô ấy là Pon Pon Crepes, và loại cà ri cay nhất mà cô ấy yêu thích nhất. Dấu hiệu hoàng đạo của cô ấy là Kim ngưu. Cô ấy là thần tượng thứ tư không mặc đồng phục cơ bản của mình cho lần ra mắt của cô. Năng lượng của cô bao gồm một con bạch kim đồ chơi duy nhất đeo vòng cổ ngọc trai, bong bóng đầy những đồ vật kỳ quái, và bong bóng nhỏ hơn. Con chim mỏ cồn trong hào quang của Kī cho thấy sự tương đồng với Opal của Jewel Pet. Cô chia sẻ giọng hát và thương hiệu của cô với Kaede Ichinose. Điều này khiến cô trở thành thần tượng thứ hai chia sẻ ca sĩ với một nhân vật khác. Cô và Kaede sau đó chia sẻ giọng hát của họ với Ran Shibuki và Shion Kamiya. Cô ấy là thần tượng thứ ba đeo kính. Cô và mẹ cô đã sử dụng tên các phụ kiện mà họ đã thực hiện, nhưng bây giờ họ đề cập đến chúng theo số. Điểm yếu của Kī là nói nhỏ. Cô có được váy hiếm cao cấp đầu tiên - Bộ thẻ Kì lân kim ngưu - trong tập 66. Cô là thần tượng đầu tiên được biết đến để thực hiện yêu cầu đặc biệt của Pop Flash. Theo tập 91, Kii là nhân vật chính duy nhất không ở trong một đơn vị chính thức. Do đó, cô ấy là nhân vật chính duy nhất trong thế hệ đầu tiên không bao giờ biểu diễn cùng với Mizuki. Nó được tiết lộ trong Tập 95 rằng Kī đã đi qua Aikatsu! Boot Camp. Kī là thần tượng duy nhất từ ​​Dream Academy không ra mắt trong váy hiếm cao cấp của mình. Cô cũng là thần tượng thứ hai không biểu diễn trong tập đầu tiên của cô. Cô ấy là nhân vật chính của Season 2 duy nhất chưa từng hát SHINING LINE *. Kĩ cao 153 cmHinaki YAMō XEM NGUỒN NHẬN XÉT (99) CHIA SẺ Hinaki YAMō Hồ sơ hồ | diễu hành Hinaki Tên tiếng nhật 条 ひ な Tên La Mã Tosou Hinaki Tên tiêng Anh Hinaki YAMō Số liệu thống kê Tuổi tác 13-14 (S3) Giới tính Giống cái Liên kết Trường học ánh sáng Đam mê✮Jalapeño Đèn led Nghề nghiệp Thần tượng Sinh viên Mô hình Sinh nhật 11 tháng 6 Nhóm máu B Sự xuất hiện đầu tiên Trò chơi Carddass dữ liệu Sê-ri 2015 - Phần 1 Anime Tập 104 Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Yui Giọng hát Miki từ AIKATSU ☆ SAO! \" Những gì tôi đã mất hồi đó là một phong cách của riêng tôi! Từ giờ trở đi, không còn bắt chước nữa. Tôi sẽ làm cho mỗi ngày bùng nổ với thời trang của chính Hinaki YAMō! \" - Hinaki trong tập 113 Hinaki YAMō ( 新 条 ひ Shinj, YAMō Hinaki ) là một nhân vật chính cho Data Carddass Aikatsu! Sê-ri 2015 và mùa thứ ba của anime . Cô ấy là một thần tượng kiểu pop và thương hiệu chính của cô ấy là Vivid Kiss . Nội dung [ hiển thị ] Xuất hiện Hinaki có mái tóc vàng, xoăn ngắn màu vàng hoe trong một chiếc áo lông vũ. Cô ấy có một bím tóc đi qua phía bên phải trán và kẹp với một ngôi sao màu cam. Đôi mắt cô là một màu xanh lá cây xuyên thấu. Nhân cách Hinaki là một cô gái tràn đầy năng lượng với cách cư xử không chính thức về cô ấy cho phép cô ấy hòa hợp với những người khác. Cô ấy đã kinh doanh trong ngành giải trí từ nhỏ và do đó có nhiều kiến ​​thức và kinh nghiệm hơn so với hầu hết các thần tượng ở độ tuổi của cô ấy. Bởi vì điều này, đôi khi cô ấy sẽ cảm thấy không an toàn vì không có gì cô ấy nói nghe có vẻ tươi. Cô ấy là một cô gái rất thời trang và thích được như vậy. Cô ấy thích mặc quần áo và cảm thấy rằng có những bộ quần áo phù hợp với tất cả mọi người. Từ nguyên YAMō ( ) có nghĩa là tình cảm hoặc vật phẩm của đức tin. Hinaki ( ひ な ) được viết bằng hiragana nên ý nghĩa thực sự là không rõ; tuy nhiên, \"ki\" có thể được viết bằng nhiều chữ Hán khác nhau, trong khi \"hina\" thường được viết là \"\", có nghĩa là \"gà con\". Lý lịch Hinaki là con gái của cha mẹ làm việc cho một tạp chí thời trang. Khi còn trẻ, cô quyết định muốn tham gia kinh doanh show và với sự giúp đỡ của bố mẹ, cô đã có thể ra mắt. Hinaki đã xuất hiện rất nhiều vào thời điểm đó và đôi khi nhận công việc với Juri Kurebayashi . Tại một thời điểm, trong một lần xuất hiện trực tiếp vào một ngày mưa, cô bị trượt chân và ngã trên sân khấu khiến cô bất tỉnh. Cô được đưa đến bệnh viện và mặc dù điều đó không có gì nghiêm trọng, nhưng các nhân viên đã trở nên rất bảo vệ cô từ thời điểm đó. Do đó, Hinaki, không muốn người khác lo lắng về mình, bắt đầu làm mọi việc và đưa ra những lựa chọn mà cô biết sẽ mang lại sự dễ dàng cho người khác. Ngay cả khi phải trả giá cho những ý tưởng của riêng mình và những gì cô ấy nghĩ về bản thân. Điều này tiếp tục cho đến khi cô bắt gặp Akari , người tươi rói thắp lên trong cô. Niên đại Aikatsu Dash! Một tia sáng bùng nổ Tiệc Giáng sinh.Raichi Hoshimiya CHỈNH SỬA NHẬN XÉT (33) CHIA SẺ Raichi Hoshimiya 87 xem trước3 Tên tiếng nhật 宮 ら い Tên La Mã Hoshimiya Raichi Tên tiêng Anh Raichi Hoshimiya Số liệu thống kê Tuổi tác 9-10 (S1), 11-12 (S2), 13-14 (S3) Giới tính Nam giới Nghề nghiệp Sinh viên Sự xuất hiện đầu tiên Anime Tôi có thể trở thành một thần tượng? Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Asami Seto (tiếng Nhật) Leni M Tarra (tiếng Indonesia) Raichi Hoshimiya ( 宮 ら Hoshimiya Raichi ) là em trai của Ichigo Hoshimiya . Anh ấy là một fan hâm mộ lớn của Mizuki Kanzaki , ảnh hưởng đến Ichigo để trở thành một người hâm mộ. Raichi có một bộ sưu tập các bức ảnh của Mizuki, bị Ichigo vô tình làm hỏng. Anh ấy giúp mẹ điều hành một cửa hàng bento và rất ngưỡng mộ Aoi Kiriya . Nội dung [ hiển thị ] Nhân cách Raichi là một người hâm mộ thần tượng lớn, đến mức Aoi đã đưa anh ta dưới cánh của cô ấy trong fandom thần tượng. Mối quan hệ của anh ta với Ichigo là mối quan hệ kiểu anh chị em điển hình; họ có những điểm khác biệt, nhưng anh vẫn ngước nhìn cô theo nghĩa cô là chị gái của anh. Điều này thường được thể hiện trong suốt bộ truyện, một trong những điều nổi bật nhất khi anh cố gắng ngăn cô nhìn thấy những bức ảnh của Mizuki anh chụp và khi Ichigo trả lời câu hỏi của anh trên radio. Ban đầu Raichi không có nhiều niềm tin vào việc Ichigo trở thành thần tượng, nhưng khi thời gian trôi qua, anh dần bắt đầu thấy tài năng của cô và trở nên ấn tượng bởi vai trò là một thần tượng. Xuất hiện Raichi có mái tóc và đôi mắt màu rỉ sét, và thường được miêu tả trong bộ trang phục màu xanh và màu vàng.Nono Daichi XEM NGUỒN NHẬN XÉT (57) CHIA SẺ Nono Daichi Đồng phục | Audition Phối hợp Audition Hồ sơ nono Tên tiếng nhật の の Tên La Mã Daichi Nono Tên tiêng Anh Nono Daichi Số liệu thống kê Tuổi tác 13-14 (S4) Giới tính Giống cái Liên kết Trường học ánh sáng Nghề nghiệp Thần tượng Sinh viên Sinh nhật Ngày 10 tháng 1 Nhóm máu Ôi Sự xuất hiện đầu tiên Trò chơi Carddass dữ liệu Sê-ri 2016 - Phần 1 Anime Aikatsu! Giải thưởng âm nhạc (cameo) Hãy bay, hãy nhìn ra thế giới rộng lớn! (ra mắt) Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Kotori Koiwai Giọng hát Miho từ AIKATSU ☆ SAO! Nono Daichi ( の Daichi Nono ) là một nhân vật chính đã ra mắt trong Series DCD 2016 - Phần 1 và Tập 153 của anime. Cô là một thần tượng gợi cảm đến từ Hokkaido và thương hiệu chính của cô là Dolly Devil . Nội dung [ hiển thị ] Tiểu sử Nono là một học sinh năm hai trung học đến từ Hokkaido. Cô là con gái của nông dân và yêu thích biểu diễn từ khi còn là một cô bé. Xuất hiện Nono có mái tóc dài, lượn sóng, màu vàng cát được buộc trong bím tóc đôi với những lọn tóc màu hồng, đôi mắt hai màu hồng và tím, và một dấu ấn sắc đẹp bên dưới mắt phải của cô. Nhân cách Một cô gái trẻ đến từ đất nước với phong thái vô tư, tính cách của Nono hoàn toàn trái ngược với tất cả các thần tượng thuộc thể loại gợi cảm chính trước đây với vẻ ngoài giống với nhạc pop hoặc dễ thương. So với Lisa là người điềm tĩnh và trưởng thành, Nono năng động và non nớt và thậm chí có thể bị coi là trẻ con ở một số khía cạnh. Cô ấy không suy nghĩ trước khi nói hoặc hành động và là một nhân vật rất dễ bị kích động. Nono rất dễ vui mừng - đặc biệt là khi đối mặt với một thần tượng và ngoài năng lực của mình, cô ấy cũng rất khích lệ và có niềm tin hoàn toàn vào những người mà cô ấy tin tưởng và quan tâm. Từ nguyên Daichi ( 大地 ) Dai ( 大 ) có nghĩa là lớn và kết hợp với Chi ( 地 ) , có nghĩa là trái đất, Daichi có nghĩa là trái đất lớn hoặc lớn. Nó đề cập đến vùng đất tuyệt vời của Hokkaido. Nono ( の ) ban đầu là một tên Latin có nghĩa là \"đứa con thứ chín\" hoặc \"đứa trẻ thứ chín\" và là một tên chủ yếu là nam giới. Tuy nhiên, trong tiếng Nhật, nó chỉ ra hạt sở hữu của Nhật Bản \"của\" hoặc \"của\". Lý lịch Niên đại Luminas Nhật Bản Khi Luminas tới Hokkaido trong điểm dừng chân đầu tiên của tour diễn, Nono và Lisa trở nên phấn khích khi họ thấy chuyến xe buýt du lịch Luminas gần trang trại gia đình của Nono. Sau khi thực hiện điệp khúc của họ, Nono và Lisa đạp xe đến địa điểm nơi Luminas sẽ tổ chức một buổi hòa nhạc, và cuối cùng họ gặp chính Luminas. Sau khi bắt tay hai cô gái, Luminas cho thấy khía cạnh Nono và Lisa trong Aikatsu hàng ngày của họ như phòng thay đồ và thẻ Aikatsu của họ. Nono trở nên phấn khích khi cô nhìn thấy các thẻ ghi chú rằng loại thẻ duy nhất cô có là dành cho thư viện, nhưng Lisa lưu ý rằng họ có thẻ cho cửa hàng thuyết phục. Sau khi xem buổi hòa nhạc của Luminas, Lisa có tham vọng trở thành thần tượng, với Nono cũng quyết định tham gia cùng cô. Kiểm tra tuyển sinh Thử giọng Tokimeki Karat Tìm kiếm một chiếc váy hiếm cao cấp Aikatsu cho ngày tết Đường đến Starlight Queen Cup.\" Thế giới mà tôi đang chờ đợi chỉ nằm trước một bước. \" - Miyabi trong tập 119 . Miyabi Fujiwara Đồng phục | Himezakura Đồng phục Himezakura Hồ sơ SS của Miyabi Tên tiếng nhật み や Tên La Mã Fujiwara Miyabi Tên tiêng Anh Miyabi Fujiwara Số liệu thống kê Tuổi tác 13-14 Giới tính Giống cái Liên kết Học viện nữ tư nhân Himezakura Trường học ánh sáng Ngọt ngào và mềm mại Nghề nghiệp Sinh viên Sinh nhật 14 tháng 9 Nhóm máu B Sự xuất hiện đầu tiên Trò chơi Carddass dữ liệu Koh-haku Aikatsu Gassen (Sự kiện DCD) (với tư cách thí sinh) Sê-ri 2015 - Phần 3 Anime Tập 118 Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Akira Sekine Giọng hát Remi từ STAR ☆ ANIS Miyabi Fujiwara ( み や Fuji Fujiwara Miyabi ) là một nhân vật lần đầu tiên ra mắt trong Data Carddass Aikatsu! 2015 Series và phần 3 của anime . Cô là một thần tượng kiểu gợi cảm sử dụng Sakurairo Kaden làm thương hiệu chính của mình. Cô và Yū Hattori cũng là những nhân vật linh vật cho cửa hàng chính thức của Aikatsu. Nội dung [ hiển thị ] Tiểu sử Xuất hiện Miyabi có mái tóc nâu dài, lượn sóng với phần tóc mái được búi lại. Cô ấy có đôi mắt xanh sâu thẳm và đeo hai bông hoa kanzashi màu đỏ trên tóc. Nhân cách Miyabi là một cô gái nghiêm túc và điềm tĩnh. Cô ấy duyên dáng, thanh lịch và chăm chỉ. Cô ấy đôi khi có xu hướng bối rối khi cô ấy làm điều gì đó khác thường hoặc khi ai đó gọi cô ấy dễ thương. Niên đại Một Aikatsu thanh lịch Miyabi được nhìn thấy lần đầu tiên trong Tập 118 , chào tạm biệt hiệu trưởng Nagaoka của Himezakura khi cô rời trường Starlight như một phần của chương trình trao đổi sinh viên. Nagaoka khuyên cô nên có một cái nhìn tốt về các thần tượng của Starlight, với ý định rằng Miyabi sẽ khám phá ra tiềm năng thực sự của cô như một thần tượng. Miyabi, sau khi trao đổi với Yū Hattori , thấy mình trong lớp của Johnny Bepp với Akari Ozora và Juri Kurebayashi . Miyabi ngạc nhiên về sự khác biệt của các thần tượng ở Starlight so với Himezakura, và thất vọng khi không phải tìm một cô gái duy nhất giống mình. Akari và những người bạn của cô Sumire Hikami và Hinaki YAMō tình cờ gặp phải tình huống của Miyabi khi họ bắt gặp cô nàng bắt chước lớp trên Otome Arisugawa một cách riêng tư. Miyabi giải thích rằng vì tính cách \"cứng nhắc\" của mình, cô không cảm thấy mình phù hợp để trở thành một thần tượng. Miyabi sau đó được cho biết rằng cô sẽ biểu diễn tại một buổi hòa nhạc đặc biệt kỷ niệm chương trình trao đổi. Akari và những người khác quyết định giúp cô chuẩn bị - với Sumire giúp Miyabi học hát, Akari giúp cô hoàn thiện điệu nhảy và Hinaki quảng bá buổi hòa nhạc trên Kirakiratter . Tối hôm đó, Miyabi được tìm thấy bởi Akari đang luyện tập với naginata của mình, nơi Miyabi thông báo với cô rằng cô ấy xuất thân từ một dòng samurai. Điều này khiến Akari bình luận về lý do tại sao Miyabi nói quá cứng nhắc, và Miyabi được nhắc nhở về việc cô ấy không giống thần tượng lắm. Akari thuyết phục cô rằng sự độc đáo là một điều tốt, vì nó khiến cô trở thành một thần tượng có một không hai. Vào ngày diễn ra buổi hòa nhạc, Miyabi suy nghĩ rằng cuối cùng cô cũng đã tìm thấy Aikatsu của riêng mình và thể hiện bài hát Light Pink Day Tripper mặc trang phục Premium Rare của Sakurairo Kaden - Phối hợp công chúa Hagoromo . Sau màn trình diễn của mình, Miyabi yêu cầu Akari, Sumire và Hinaki gọi cô bằng tên chứ không phải là \"Fujiwara-san.\" Họ hỏi cô tại sao cô không mặc đồng phục của Starlight, mà Miyabi, tự giác, trả lời rằng váy quá ngắn. Những người khác sau đó cho rằng Miyabi dễ thương, làm cô xấu hổ hơn nữa. Một thế giới chỉ cần một bước đi trước Trong tập 119 , Miyabi đang viết bức thư hàng ngày của mình cho Nagaoka, thông báo với anh rằng cuối cùng cô cũng nhận ra lý do tại sao anh chọn gửi cô đến Starlight. Hinaki hỏi tại sao cô ấy không chỉ gửi email cho anh ấy, và Miyabi tiết lộ rằng cô ấy không giỏi đánh máy. Sau khi thể hiện các kỹ năng naginata của mình, Miyabi đi đến một võ đường để thực hành thói quen của mình, nhưng thấy mình bị theo dõi bởi một cô gái tên Tomoyo. Tomoyo giải thích rằng cô ấy là một fan hâm mộ lớn của Miyabi và rất ấn tượng về cách cô ấy có thể vừa mát mẻ vừa dễ thương cùng một lúc. Tomoyo tiết lộ về cách cô ấy muốn mặc quần áo dễ thương hơn, nhưng lại sợ bản thân mình. Tomoyo hỏi Miyabi làm thế nào để dễ thương, nhưng thần tượng không chắc chắn về cách trả lời. Miyabi gặp Akari và những người khác, bày tỏ sự hối hận khi không thể trả lời Tomoyo. Cả nhóm quyết định thực hiện một số nghiên cứu để tìm câu trả lời, nhưng bị gián đoạn khi học sinh lớp trên Sakura Kitaōji hộ tống Miyabi đến văn phòng của Orihime , người thông báo cho Miyabi rằng cô và Sakura sẽ tham gia vào một lễ hội Yamato nadeshiko sắp tới. Nhờ một số từ lựa chọn từ Sakura, người đã nói với Miyabi về cách cô trở thành thần tượng và bài phát biểu của Akari, người được chúc mừng kỷ niệm một tháng làm người dẫn chương trình cho \"Ozora Weather\" ( 空 お 天 気 zora Otenki ) , Miyabi quản lý để đưa ra câu trả lời cho Tomoyo và gửi nó ra bằng cách sử dụng Kirakiratter với hy vọng Tomoyo sẽ nhìn thấy nó. Sau khi biểu diễn tại nadeshiko fes, Miyabi được chào đón ở hậu trường bởi Tomoyo, người làm cô ngạc nhiên khi mặc một bộ trang phục dễ thương. Miyabi nói rằng một thần tượng có thể mang đến cho người khác lòng can đảm thật đáng kinh ngạc, và cô ấy rất vui khi được trở thành một thần tượng. Lời hứa cho tương lai Trong tập 121 , Miyabi có thêm ba ngày nữa ở Starlight trước khi cô phải quay lại Kyoto. Trong hồi tưởng của những cô gái khác hồi tưởng lại thời gian của họ với Miyabi, điều đó cho thấy Juri đã dạy flamenco của cô để đổi lấy những bài học về điệu nhảy truyền thống Nhật Bản. Sau đó, Orihime và Johnny thông báo cho Miyabi về một buổi hòa nhạc đặc biệt kỷ niệm ngày cuối cùng của cô tại Starlight, và nói rằng cô có thể tự do mang theo bất cứ ai cô muốn biểu diễn cùng với sân khấu. Miyabi quyết định biến buổi hòa nhạc thành một cuộc cạnh tranh giữa cô và Sakura, người mà cô cho là một người rất tuyệt vời. Trong một đoạn hồi tưởng khác, tiết lộ rằng Miyabi cũng đã dạy Akari cách làm những chú thỏ origami. Miyabi và Sakura tham gia vào một trận đấu tập với naginatas của họ. Vào ngày trực tiếp đặc biệt, Miyabi làm mọi người ngạc nhiên khi mặc đồng phục Starlight, mặc dù cô vẫn còn khá xấu hổ về chiếc váy ngắn. Sau khi trực tiếp, Sakura được tiết lộ là người chiến thắng, và cô và Miyabi hứa sẽ có một ngày đứng trên cùng một sân khấu. Trong bữa tiệc tiễn đưa cô, Miyabi có bài phát biểu về cách cô sẽ trân trọng những ký ức về Ánh sáng của cô và cách đi đến đó đã dạy cô rất nhiều điều. Akari và những người khác tiễn cô ra, với Akari tặng cô một bông hoa giấy và nói rằng họ sẽ gặp lại nhau vào một ngày nào đó. Vài ngày sau, Miyabi, giờ trở lại tại Himezakura, xem báo cáo thời tiết Ozora trong khi cầm origami mà Akari đưa cho cô.Kokone Kurisu XEM NGUỒN NHẬN XÉT (193) CHIA SẺ Kokone Kurisu Đồng phục | diễu hành Hồ sơ SS Kokone Tên tiếng nhật 栖 こ こ Tên La Mã Kurisu Kokone Tên tiêng Anh Kokone Kurisu Số liệu thống kê Tuổi tác 14 Giới tính Giống cái Liên kết Học viện Étoile Trường học ánh sáng Ngọt ngào và mềm mại Aikatsu8 (DCD) Nghề nghiệp Sinh viên Sinh nhật 21 tháng Tám Nhóm máu Một Sự xuất hiện đầu tiên Trò chơi Carddass dữ liệu Sê-ri 2015 - Phần 5 Anime Trung tâm của thế giới là Kokone! Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Kanae Itou Giọng hát Eri từ STAR ☆ ANIS \" Bất cứ con đường nào tôi chọn, thế giới đều tập trung quanh Kokone! \" - Câu khẩu hiệu của Kokone, lần đầu tiên được nghe trong tập đầu tiên của anime . Kokone Kurisu ( 栖 こ Kurisu Kokone ) là một nhân vật đã ra mắt trong Data Carddass Aikatsu! Series 2015 - Phần 5 và phần 3 của anime . Cô là một thần tượng nhạc pop và là sinh viên trao đổi từ Học viện Étoile , sử dụng Retro Cỏ ba lá làm thương hiệu chính của mình. Nội dung [ hiển thị ] Tiểu sử Xuất hiện Kokone có đôi mắt tròn, vàng và mái tóc đuôi ngựa cuộn màu quýt được buộc bằng một chiếc nơ màu xanh lá cây. Lông mi của cô được miêu tả là cong đáng kinh ngạc. Cô thường được thể hiện trong bộ đồng phục của Học viện Étoile, mặc một chiếc áo cộc tay màu nâu với lớp lót màu trắng, cà vạt màu xanh lá cây và váy kẻ sọc màu xanh lá cây. Nhân cách Kokone giữ một tình yêu lớn cho đồ ngọt. Cô ấy có thể hơi khó tính hoặc bướng bỉnh với những cách của mình nhưng khi cô ấy tập trung vào một thứ gì đó để thực hiện nó với niềm đam mê và cống hiến hết mình. Cô ấy thích được chú ý và trở nên khó tính nếu ai đó không biết cô ấy. Từ nguyên Kurisu ( 栗 ) - Kuri ( 栗 ) có nghĩa là hạt dẻ và Su ( sei ) có nghĩa là (của một con chim) cá rô hoặc gà trống. Kokone ( こ こ ) - Cái tên không có ý nghĩa thực sự, tuy nhiên nó xuất hiện cách chơi chữ của cụm từ \"Đây\" ( こ Koko ne ) . Chữ Hán gần nhất có thể được viết là \".\" trong: Nhân vật , Học viện giấc mơ , Thần tượng , và 3 nữa Noeru Otoshiro XEM NGUỒN NHẬN XÉT (101) CHIA SẺ Noeru Otoshiro Phần 2 (nửa đầu) | Phần 2 (nửa sau) và Phần 3 53 25 Tên tiếng nhật 音 城 と し エ ル Tên La Mã Otoshiro Noeru Số liệu thống kê Tuổi tác 14 Giới tính Giống cái Liên kết Học viện mơ ước Cafe Vivo Nghề nghiệp Sinh viên Thần tượng Nhân viên quán cà phê Sinh nhật 25 tháng 12 Sự xuất hiện đầu tiên Anime Cô gái rocking đó là cô gái mơ ước (được đề cập) Lalala ☆ ★ Rival (ra mắt chính thức) Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Kanako Miyamoto Ai Kakuma (Ep.71 - Ep.178) Noel Otoshiro ( 音 城 ノ Otoshiro Noeru ) là em gái của Seira Otoshiro . Cô được K Saegusa nhắc đến trong That Rocking Girl là Dream ☆ Girl và xuất hiện lần đầu thực tế trong Lalala ☆ ★ Rival . Được tiết lộ rằng trong Tập 172 , Noel đã thử giọng và được nhận vào Học viện giấc mơ , theo con đường trở thành thần tượng của em gái mình. Nội dung [ hiển thị ] Sinh học Noel là một học sinh từ lớp hàng xóm của Raichi Hoshimiya . Sinh nhật của cô là 25 tháng 12, ngày Giáng sinh, ngày lễ mà Noel được đặt tên. Xuất hiện Noel có mái tóc dài màu hồng đào và đôi mắt màu cam lớn. Trong nửa đầu của phần 2, cô ấy đã xõa tóc xuống với bím tóc được giữ bởi nơ hồng và tóc mái ngắn nhọn đóng khung khuôn mặt. Nhưng trong phần còn lại của bộ truyện, cô ấy đã mọc tóc mái và ngừng bím tóc, bây giờ mặc lớp tóc trên cùng được kéo ra sau và giữ tại chỗ bằng một dải ruy băng màu hồng. Nhân cách Noel là một cô gái tốt bụng đôi khi ngại ngùng khi lần đầu gặp gỡ mọi người. Cô ấy nhìn lên và hòa hợp với Seira, nhưng đôi khi cảm thấy cô đơn vì cô ấy không gặp cô ấy thường xuyên. Cô là bạn thân với Raichi và cố gắng giữ cho anh ta có cơ sở với những tưởng tượng của mình.Rin Kurosawa XEM NGUỒN NHẬN XÉT (155) CHIA SẺ Rin Kurosawa Hồ sơ hiện tại Hồ sơ | diễu hành | cũ Hồ sơ cũ Rin đồng phục hồ sơ 2 Tên tiếng nhật 沢 凛 Tên La Mã Kurosawa Rin Tên tiêng Anh Rin Kurosawa Số liệu thống kê Tuổi tác 13 (S3) 14 (S4) Giới tính Giống cái Liên kết Trường học ánh sáng Nhảy múa Diva Ớt vani Aikatsu8 (DCD) Nghề nghiệp Sinh viên Sinh nhật Ngày 1 tháng 1 Nhóm máu AB Sự xuất hiện đầu tiên Trò chơi Carddass dữ liệu Sê-ri 2015 - Phần 4 Anime Lối vào của bầu trời sáng Star ☆ Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Yūki Takada Giọng hát Nanase từ AIKATSU ☆ SAO! \"Cộng hưởng ! BPM trong trái tim tôi! \" - Câu khẩu hiệu của Rin Rin Kurosawa ( 沢 Kurosawa Rin ) là một trong những nhân vật chính xuất hiện lần đầu trong Data Carddass Aikatsu! 2015 Series và phần 3 của anime . Cô ấy là một thần tượng tuyệt vời sử dụng Dance Fusion làm thương hiệu chính của mình. Nội dung [ hiển thị ] Tiểu sử Một thần tượng tân binh được nhận vào trường Starlight vào tháng Tư. Rin ban đầu là một vũ công đường phố với điệu nhảy tuyệt vời khiến cô được biết đến với cái tên \"The Dancing Lightning\". Cô ấy là một fan hâm mộ lớn của Johnny Bepp và Sunny . Xuất hiện Rin có mái tóc màu xám dài giữa với một vệt đỏ ở chóp. Nó được đeo một cách lộn xộn với một chiếc băng đô màu xanh có nơ màu xanh ở bên cạnh. Đôi mắt cô là một màu hổ phách nhạt, và cô có lông mày dày đáng chú ý. Nhân cách Rin có một bản tính năng động với tính cách lạnh lùng và điềm tĩnh. Cô đam mê nhảy múa và luôn nhớ để vui chơi. Cô dễ dàng bối rối khi bị người khác trêu chọc hoặc bổ sung. Từ nguyên Kurosawa ( ) Kuro ( 黒 ) có nghĩa là màu đen và Sawa ( 沢 ) có nghĩa là đầm lầy. Rin ( 凛 ) có nghĩa là trang nghiêm, nghiêm túc, lạnh lùng. Lý lịch Niên đại Vũ điệu Bolt Rin được giới thiệu lần đầu tiên trong Tập 127 với tư cách là một thần tượng mới, người gần đây đã được chấp nhận tham gia Starlight , nơi cô được Hinaki YAMō nhận ra từ các video nhảy múa mà cô tải lên trực tuyến. Rin sớm biết rằng Akari zora đã được chỉ định làm người cố vấn của mình, điều khiến cô phấn khích, khi cô xem Ozora Weather mỗi sáng. Rin được giới thiệu với bạn bè của Akari cũng như người cố vấn của Sumire Hikami , Madoka Amahane . Trong buổi lễ khai giảng, Naoto Suzukawa được tiết lộ là giáo viên chủ nhiệm của Rin, nhưng bản thân Rin lại hào hứng hơn nhiều khi gặp Johnny Bepp , người nhận xét về việc anh và Rin có cùng bước sóng. Trong cuộc gặp gỡ của Rin với Nữ hiệu trưởng Orihime , cô được trao chứng minh thư, Aikatsu Phone và Điều phối diễu hành hải quân của mình. Rin và Madoka kết thúc với tư cách là bạn cùng phòng, và hai người bắt đầu gọi nhau bằng tên. Trong lớp, họ đã nhận được thông tin từ Naoto trong buổi thử giọng sắp tới cho các sinh viên mới để trở thành người mẫu cho Danh bạ sinh viên mới của Starlight. Vì những người tham gia phải nộp đơn theo cặp, Rin nói rằng cô muốn Madoka là đối tác của mình. Trong quá trình luyện tập vũ đạo của Rin và Madoka, Madoka hỏi Rin khi cô bắt đầu nhảy, và Rin tiết lộ rằng cô đã học thể dục khi còn nhỏ trước khi say mê với điệu nhảy đường phố sau khi xem một buổi biểu diễn. Rin tuyên bố rằng mặc dù cô và Madoka thuộc các nhóm kỹ năng khác nhau, cô đã học được rằng điều quan trọng nhất về khiêu vũ là vui chơi. Trong ngày diễn ra buổi thử giọng, Rin và Madoka được tiết lộ là đã chiến thắng sau khi biểu diễn Let Aikatsu! cùng với nhau. Lịch chiếu của tôi Trong tập 128 , Rin được đề nghị biểu diễn tại một sự kiện được gọi là Super Dance World. Rin tuyên bố rằng cô muốn mặc đồ phối hợp Premium Rare từ thương hiệu mới Dance Fusion , người có nhà thiết kế hàng đầu là đối tác cũ của Johnny, Sunny . Rin tiết lộ với Akari rằng Sunny & Johnny là đơn vị khiêu vũ đầu tiên cô từng thấy biểu diễn sau khi cô có hứng thú với nhảy đường phố, và nhờ họ mà cô yêu thích nhảy rất nhiều. Rin thể hiện sự ghen tị với Shun Yotsuba , người tiết lộ rằng anh ta đã học bài nhảy từ Sunny & Johnny khi anh ta còn là một thần tượng. Cô và Akari tìm Johnny để hỏi anh về Sunny, nơi Rin tuyên bố rằng cô quyết tâm trở thành một thần tượng phù hợp để mặc quần áo của Sunny. Rin và Akari đến phòng thiết kế của Dance Fusion, nơi họ gặp Sunny, người vẫn có thể nhảy khá tốt mặc dù đã tăng cân một chút kể từ khi anh từ bỏ việc nhảy chuyên nghiệp. Rin cố gắng giành được sự chấp thuận của Sunny và nhận được Soul Marionette Tọa độ sau khi cho anh ta xem cô ấy nhảy, nhưng thất vọng khi biết rằng Sunny không có kế hoạch nhảy với Johnny một lần nữa. Trong bài học khiêu vũ tiếp theo của họ, Johnny giải thích với Rin rằng mặc dù bây giờ anh và Sunny đang đi theo những con đường khác nhau, họ vẫn là một đội. Rin lầm bầm những lời của Johnny cho đến khi cô bắt gặp Akari, Sumire, Hinaki và Juri Kurebayashi . Cô hiểu được những gì Johnny nói sau khi chứng kiến ​​người đàn anh lớp trên của mình hỗ trợ lẫn nhau mặc dù họ có những hoạt động riêng. Sau khi gặp lại Sunny một lần nữa và thông báo cho anh về những giấc mơ của cô, ngày diễn ra sự kiện Super Dance World và Rin thực hiện MY SHOW TIME! trong chiếc váy mới của cô. Phép thuật của một đơn vị Trong tập 130 , Rin được Sumire tiếp cận, người yêu cầu Rin lập một đơn vị với cô. Sumire tin rằng đĩa đơn của họ phù hợp với Rin nhảy hoàn hảo, và sau khi xem qua tờ lyric, Rin đồng ý hợp tác với Sumire. Madoka giáo dục Rin về các đơn vị thần tượng trong quá khứ, nói rằng điều quan trọng đối với các đơn vị là thể hiện mặt tốt nhất của mỗi thành viên. Rin và Sumire bắt đầu tập luyện cùng nhau, nhưng Rin cố gắng hết sức để sống theo mong đợi của Sumire và bị bong gân mắt cá chân, khiến Johnny cấm cô nhảy. Cảm thấy tội lỗi vì đã gây nguy hiểm cho lần ra mắt đơn vị sắp tới của họ, Rin đề nghị Sumire chọn một đối tác mới. Tuy nhiên, Sumire từ chối từ bỏ Rin, và thay vào đó, cô lên kế hoạch tiếp tục sống với Rin với tư cách là huấn luyện viên khiêu vũ của mình. Rin chấp nhận và trong quá trình luyện tập vũ đạo, Sumire tiết lộ với Rin rằng cô quyết tâm làm cho đơn vị của họ thành công vì cô có thể cảm nhận được số phận từ trong bài hát của họ. Vào ngày diễn ra buổi hòa nhạc, Sumire tiết lộ bài hát đơn vị của họ, Tutu Ballerina . Sau buổi biểu diễn, cô tuyên bố rằng buổi hòa nhạc này ban đầu có nghĩa là một buổi hòa nhạc đơn vị, và toàn bộ tiềm năng của bài hát không thể đạt được chỉ với cô. Sumire giới thiệu Rin là đối tác của mình, với tuyên bố rằng cô sẽ khiến Rin tỏa sáng, và Rin sẽ khiến cô tỏa sáng trở lại. Trong cuộc gặp gỡ với Orihime và Johnny, Rin và Sumire tiết lộ tên đơn vị của họ - Dancing Diva - với \"điệu nhảy\" đại diện cho tình yêu dành cho khiêu vũ của Rin và \"diva\" thể hiện tình yêu ca hát của Sumire. Orihime tiết lộ rằng cùng một công ty muốn Sumire làm cô gái hình ảnh của họ cho một loại dầu gội mới đã liên lạc với cô và bày tỏ mong muốn có được Tutu ・ Ballerina làm tiếng vang cho quảng cáo của họ. Sau đó, đơn vị được đưa ra lịch trình của họ, và Rin bị sốc vì sự bận rộn của nó. Bắt đầu với việc thu âm bài hát, Dancing Diva bắt đầu một cuộc họp trước khi thu âm, sự lo lắng của Rin gần như giữ lấy cô. Rin trở nên lạc lõng với những gì cô và Sumire dự định sẽ làm trong cuộc họp, và Sumire giải thích với cô rằng họ sẽ thảo luận cụ thể về quảng cáo. Sumire cho Rin lời khuyên liên quan đến giọng nói của cô để chuẩn bị cho ngày hôm sau, và đổi lại, Rin giúp Sumire nới lỏng trong quá trình ghi âm. Vài ngày sau, Rin thể hiện bản thân trong một khoảnh khắc không thể tin được khi cô và Sumire xem xét đĩa CD Tutu ・ Ballerina đang được bán. Sau một buổi ký tặng, Rin và Sumire thảo luận về nhận xét của Orihime về việc ma thuật của đơn vị họ chỉ còn nửa chừng. Sumire tin rằng nửa đầu đã tìm thấy nhau như một đối tác và họ quyết định rằng để lấp đầy ma thuật của mình, họ cần phải tỏa sáng cùng nhau và cặp đôi ngủ cùng nhau khi nghe Tutu Ballerina. Trong buổi ra mắt trực tiếp, Dancing Diva trình diễn trong trang phục đơn vị mới do Sunny thực hiện - với Dancing Night Phối hợp cho Rin - tỏa sáng hơn bao giờ hết .Galaxy! Tuyệt vời! Đó là SHOWTIME! \" - Câu khẩu hiệu chính của Johnny Bepp Johnny Bepp ( ジ ョ ニ Beppu Johnny Beppu ) là một trong những nhân vật trong Aikatsu! loạt phim hoạt hình và nhiều dữ liệu Carddass Aikatsu! đặc biệt nơi anh ấy phục vụ như người giám sát của người chơi cùng với Orihime Mitsuishi . Ông là cựu giáo viên chủ nhiệm của Ichigo , Aoi , và Ran và cựu huấn luyện viên và cố vấn cho Mizuki và Superman . Ông hiện là giáo viên chủ nhiệm của Akari zora , Juri Kurebayashi và Yū Hattori . Nội dung [ hiển thị ] Xuất hiện Johnny có mái tóc nâu lượn sóng dài ngang vai và đôi mắt màu xanh lá cây. Anh ta có làn da rám nắng, ria mép và râu dê, và thường thấy trong bộ đồ thể thao màu xanh lá cây đặc trưng với dây đeo treo trên thắt lưng. Sau cuộc gặp gỡ với Sunny trong Tập 128, sau đó anh thay bộ đồ thể thao màu xanh lá cây của mình thành một tùy chỉnh màu đỏ do người cũ thực hiện. Nhân cách Johnny là một người sôi nổi với một chút tinh tế cho những bộ phim truyền hình thường làm cho các sinh viên và mọi người xung quanh bối rối. Anh ta thường sử dụng các từ và cụm từ tiếng Anh mặc dù chúng dường như khó hiểu vì ngay cả Kaede cũng không thể hiểu anh ta. Anh ta ngớ ngẩn và vui vẻ và đôi khi cố gắng trở thành một Casanova, nhưng hiếm khi thành công. Bất chấp năng lực của mình, Johnny được chứng minh là một người khiêm tốn, khôn ngoan và sâu sắc, có thể nghiêm túc khi cần thiết. Lý lịch Johnny là một thiên tài nhảy múa, người cũng được cho là một trong những huấn luyện viên giỏi nhất thế giới. Khi còn trẻ, anh là biên đạo múa cho Superman và từ đó đến nay vẫn là bạn tốt với Orihime Mitsuishi. Anh cũng là một phần của một đơn vị khiêu vũ huyền thoại được gọi là Sunny & Johnny . Được tiết lộ rằng trong tập 139 , Johnny có một em gái tên Elisa Bepp . Johnny yêu em gái mình một cách thân thương như có thể thấy từ việc anh ấy quan tâm đến đám cưới của em gái mình đến mức nào, và anh ấy không muốn buông tay bao nhiêu. trong: Nam , Nhân vật , Nhân vật phụ , và 2 nữa Naoto Suzukawa XEM NGUỒN NHẬN XÉT (121) CHIA SẺ Naoto Suzukawa Phần 1, 2 và 3 (nửa đầu) | Phần 3 (nửa sau) Aikatsu suzukawa profilepic Tên tiếng nhật 川 直 Tên La Mã Suzukawa Naoto Tên tiêng Anh Naoto Suzukawa Số liệu thống kê Tuổi tác 16-17 (Phần 1) 18-19 (Phần 2) 19-20 (Mùa 3) Giới tính Nam giới Liên kết Trường học ánh sáng Hơn cả sự thật Nghề nghiệp Thành viên Ban nhạc Groundkeeper (cũ) Giáo viên (hiện tại) Sinh nhật Ngày 7 tháng 11 Sự xuất hiện đầu tiên Anime Tôi muốn biết nhiều hơn về bạn Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Toshiyuki Toyonaga (Nhật Bản) Adith Siddiq Permana (tiếng Indonesia) Giọng hát Kenta Harada (trước đây) Toshiyuki Toyonaga Naoto Suzukawa ( 川 直 Suz Suzukawa Naoto ) là cựu thủ lĩnh của Starlight School và là giọng ca kiêm trưởng nhóm của ban nhạc rock indie More Than True . Anh cũng là em trai của Tiara Yumeaki . Kể từ tập 127 , Naoto là một giáo viên mới tại Starlight và là giáo viên chủ nhiệm của Rin Kurosawa và Madoka Amahane . Nội dung [ hiển thị ] Nhân cách Mặc dù ban đầu Naoto trở thành một người khá thờ ơ và lãnh đạm, anh ấy quan tâm đến bạn bè và Starlight School. Anh ta tỏ ra chín chắn và khôn ngoan khi anh ta thường đưa ra lời khuyên cho Ichigo và bạn bè của cô. Anh ấy tốt bụng, đồng cảm, nhạy cảm và thực tế, nhưng có thể có lúc nóng nảy như trong tập 44 . Anh ta tuyên bố không quan tâm đến bất kỳ học sinh nào tại Trường Starlight do họ là những đứa trẻ đối với anh ta. Anh ấy cũng rất thẳng thắn và thẳng thắn và không ngần ngại nói ra suy nghĩ của mình; ngay cả khi không có ai xung quanh để nghe họ. Anh ấy cũng rất nhạy cảm và rất giỏi trong việc làm sáng tỏ cảm xúc và tình huống của người khác. Xuất hiện Naoto có mái tóc đen rối bù ngắn với phần tóc mái che mắt phải. Anh ta có đôi mắt vàng và thường thấy nhất trong bộ đồng phục chủ sân. Khi anh ấy biểu diễn, anh ấy tạo kiểu tóc theo cách vẫn che được một mắt. Bắt đầu tập 127 , giờ anh mặc một chiếc áo màu xanh bụi bặm và cà vạt màu hồng mặc dưới chiếc áo cộc tay màu tím sẫm với cổ tay màu xanh nhạt và một ngôi sao vàng duy nhất trên ve áo bên trái, kết hợp với thắt lưng nâu và quần đen. Anh ta cũng bắt đầu đeo kính, nhưng không biết liệu chúng chỉ nhằm mục đích thẩm mỹ hay bây giờ anh ta thực sự bị khiếm thị. Từ nguyên Suzukawa ( ) Suzu ( ryō ) có nghĩa là mát mẻ hoặc sảng khoái và Kawa ( 川 ) có nghĩa là dòng sông. Naoto ( ) có nghĩa là người trung thực. Có thể là một tham chiếu đến ban nhạc anh ấy là một phần của More Than True và anh ấy thẳng thắn như thế nào.Tiara Yumeaki XEM NGUỒN NHẬN XÉT (10) CHIA SẺ Tiara Yumeaki Wmplayer 2013-10-03 19-47-51-29 Tên tiếng nhật 咲 テ ィ Tên La Mã Yumeaki Tiara Tên tiêng Anh Tiara Yumeaki Số liệu thống kê Tuổi tác Đầu giữa 30 Giới tính Giống cái Liên kết Học viện mơ ước Nghề nghiệp Hiệu trưởng Cựu chủ tịch công ty IT Sự xuất hiện đầu tiên Anime Cô gái rocking đó là cô gái mơ ước Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Aya Endo Tiara Yumeaki ( 夢 咲 テ Yumeaki Tiara ) là một nhân vật xuất hiện trong phần hai của Aikatsu! thích nghi anime . Cô là hiệu trưởng của Học viện giấc mơ và là bạn với Mizuki Kanzaki . Cô là chị gái của Naoto Suzukawa . Nội dung [ hiển thị ] Sinh học Xuất hiện Tiara có mái tóc ngắn màu nâu lượn sóng và đôi mắt màu tím sẫm. Cô có làn da trắng và mặc son đỏ. Nhân cách Tiara được thể hiện là một người vui vẻ, may mắn, vui vẻ, tích cực với thái độ thẳng thắn. Cô ấy cũng được chứng minh là khá tích cực. Từ nguyên Yumeaki ( ) Yume ( 夢 ) có nghĩa là giấc mơ, đề cập đến Học viện giấc mơ và giấc mơ của Tiara bắt đầu trường thần tượng của riêng mình và Saki ( ) có nghĩa là nở hoa. Tiara ( テ ィ ア ) là một loại vương miện. Âm mưu Lý lịch Quay lại khi Tiara còn học đại học, cô làm nhân viên của nhân viên hóa trang và được biết đến với tên thật là Tiara Suzukawa ( 川 ィ ア Suzukawa Tiara ) . Cô đã rất ngạc nhiên bởi bộ đôi thần tượng như nhiều người khác, nhưng thường tình cờ nghe thấy các cô gái nói rằng họ muốn trở thành thần tượng nhưng sẽ không làm điều đó. Điều này đã tạo ra một hợp âm ở Tiara và khiến cô tự hỏi tại sao các cô gái sẽ bỏ cuộc trước khi họ thử. Một thời gian sau khi Superman tan rã và Orihime ổn định với tư cách là nữ hiệu trưởng mới của Starlight, Tiara đã đến thăm cô. Cô ấy lưu ý tất cả những người nộp đơn và Orihime đã nói trong khi có rất nhiều, chỉ một vài người sẽ vào được. Tiara, cảm thấy tồi tệ khi những cô gái không thể từ bỏ ước mơ của mình, quyết định sẽ tạo ra cô ấy trường thần tượng sẽ cung cấp con đường thay thế. Cô mất chưa đến 10 năm để tạo ra Học viện giấc mơ. Chính sách của cô nói rằng \"Nếu bạn có niềm đam mê, bất kỳ ai cũng có thể là thần tượng\", khiến Dream Academy trở nên cởi mở hơn để tiếp nhận sinh viên hơn hầu hết các học viện thần tượng.Lisa Shirakaba XEM NGUỒN NHẬN XÉT (90) CHIA SẺ Lisa Shirakaba Đồng phục | Audition Phối hợp Audition Hồ sơ Lisa Tên tiếng nhật リ サ Tên La Mã Shirakaba Risa Tên tiêng Anh Lisa Shirakaba Số liệu thống kê Tuổi tác 13-14 (S4) Giới tính Giống cái Liên kết Trường học ánh sáng Nghề nghiệp Thần tượng Sinh viên Sinh nhật 14 tháng 12 Nhóm máu Một Sự xuất hiện đầu tiên Trò chơi Carddass dữ liệu Sê-ri 2016 - Phần 1 Anime Aikatsu! Giải thưởng âm nhạc (cameo) Hãy bay, hãy nhìn ra thế giới rộng lớn! (ra mắt) Diễn viên lồng tiếng / diễn viên Seiyū Sanae Giọng hát Nanase từ AIKATSU ☆ SAO! Lisa Shirakaba ( リ Shira Shirakaba Risa ) (chính thức là Risa Shirakaba ) là một nhân vật chính đã ra mắt trong Series DCD 2016 - Phần 1 và Tập 153 của anime. Cô là một thần tượng gợi cảm đến từ Hokkaido và thương hiệu chính của cô là Dolly Devil . Nội dung [ hiển thị ] Tiểu sử Lisa đến từ Hokkaido và là người bạn tốt nhất của Nono Daichi . Cô ấy là người luôn dõi theo cô ấy và rất say mê Aikatsu. Xuất hiện Lisa có mái tóc đen dài và thẳng và đôi mắt màu oải hương. Phần tóc mái của cô ấy hơi gợn sóng ở phần chóp. Cô ấy đeo một dải ruy băng màu tím trên tóc. Nhân cách Lisa là một người an toàn, rất thoải mái trong làn da của mình. Cô ấy điềm tĩnh, thu thập, và rất lãnh đạo và lý trí. Cô ấy trưởng thành hơn nhiều so với Nono và nhìn vào mọi thứ sâu sắc hơn cô ấy. Mặc dù có phong thái giống người lớn, cô ấy tỏ ra dễ xấu hổ khi một điều gì đó được đề cập đến những người mà cô ấy vừa gặp có thể bị coi là trẻ con hoặc tầm thường trong mắt cô ấy. Mẹ và Nono đã lưu ý rằng Lisa hiếm khi đam mê bất cứ điều gì. Tuy nhiên, khi cô ấy, niềm đam mê trong mắt cô ấy trở nên rõ ràng và cô ấy quyết tâm thành công trong việc thắp lên ngọn lửa trong cô ấy như thể hiện với cảm giác của cô ấy về Aikatsu. Từ nguyên Shirakaba ( ) Shira ( shiro ) có nghĩa là màu trắng và kết hợp với Kaba ( ) , có nghĩa là bạch dương, Shirakaba có nghĩa là bạch dương . Nó đề cập đến rừng bạch dương trắng ở Hokkaido. Lisa ( Risa ) là tên của nguồn gốc Do Thái có nghĩa là \"hiến dâng cho Thiên Chúa\" Còn gì thắc mắc thì cứ hỏi mình

18
24 tháng 8 2019

cs ai đủ kiên trì để đọc hết bài lưu bút này ko

25 tháng 8 2019

tôi....không:>