Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Lẽ ghét thương là đoạn trích từ câu 473 đến câu 504 của Truyện Lục Vân Tiên, kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng nho sinh (Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng uống rượu, làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.
ð Đáp án cần chọn là: A
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của văn bản được biểu đạt qua các luận điểm:
- Tình thế buộc ta phải kháng chiến. Ta đã nhân nhượng nhưng thực dân Pháp càng lần tới vì chúng có ý đồ cướp nước ta
- Tinh thần quyết tâm chiến đấu để giữ nước: bất kì người Việt Nam nào với bất kì phương tiện gì cũng có thể dùng làm vũ khí đều phải đứng lên (đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, vũ khí, súng, gươm, cuốc, thuổng, gậy gộc...)
- Niềm tin vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc
MB: Bác bỏ quan niệm sống “Thanh niên, học sinh thời nay phải biết nhuộm tóc, uống rượu, hút thuốc, vào vũ trường, thế mới là sống sành điệu
TB: Nêu tình trạng của quan niệm sống thanh niên, học sinh phải biết nhuộm tóc, hút thuốc, vào vũ trường mới là sành điệu ...
- Chỉ ra nguyên nhân của lối sống này
- Vấn đề cần bác bỏ: bản chất của quan niệm sống ấy thực ra là lười biếng, muốn thụ hưởng, sống vô trách nhiệm
- Cách bác bỏ: nêu ra lý lẽ, trích dẫn thực tế
- Nêu ra quan niệm sống đúng đắn, khoa học
KB: Phê phán lối sống, quan niệm sống sai trái
TỔ 2
Bài tập 1 SGK/120
Đoạn văn có sử dụng kết hợp thao tác lập luận phân tích, so sánh để bàn về vẻ đẹp bài thơ Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương.
Thơ hay là thơ phải có nội dung sâu sắc, phải có hình thức diễn đạt phù hợp, thơ hay là thơ khiến cho người đọc, đọc xong có ấn tượng sâu sắc. Họ cảm nhận đó như là tâm trạng của mình. Cái thú vị, cái hay của bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương thể hiện ở chỗ, cách dùng từ ngừ của Hồ Xuân Hương hết sức giàn dị, giàu sức biểu cảm, táo bạo nhưng lại rất tinh tế. Đó là những từ ngữ như "trơ cái hồng nhan, đâm toạc chân mây, mảnh tình san sẻ". Với tài nghệ sứ dụng từ ngữ, Hồ Xuân Hương đã tạo cho bài thơ nhiều giọng điệu với đầy đủ các sắc thái tình cảm: tủi hổ, phiền muộn, bực dọc, phản kháng và cuối cùng là chua chát, chán chường. Nhà thơ còn dùng phép tiều đối: lấy “cái hồng nhan" đem đối với “nước non” thật đắt và táo bạo nhưng lại rất phù hợp nên dã làm nổi bật được tâm trạng cô đơn, chán chường của mình. Đặc biệt, nghệ thuật tăng tiến ờ câu cuối: Mảnh tình - san sẻ - tí - con - con, đã làm nổi bật tâm trạng chua chát, buồn tủi của chủ thế trữ tình trước tình duyên lận đận. Với nghệ thuật dặc sắc đó, Hồ Xuân Hương đã góp vào kho tàng thơ Nôm Việt Nam một tiếng thơ táo bạo mà chân thành, mới lạ nhưng lại hết sức gần gũi. Bài thơ mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Với việc giài bày nỗi cô đơn, buồn tủi cúa mình, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã nói lên được tình cảnh chua chát cùa muôn vàn phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là xã hội bất công đã làm cho bao nhiêu thân phận “hồng nhan” bị lỡ làng và đau khổ. Buồn tủi với tình cảnh hiện tại, nữ sĩ luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc, một tình yêu lứa đôi trọn vẹn. Khát vọng của Hồ Xuân Hương về hạnh phúc lứa đôi cũng chính là khát vọng của người phụ nữ trong xă hội lúc bấy giờ. Đó là một khát vọng chính dáng và đầy tính nhân văn.
Câu hỏi:
- Xác định luận điểm cần làm sáng tỏ trong đoạn văn:
+ Bài thơ "Tự tình II" thể hiện tài năng độc đáo của "Bà chúa thơ Nôm" trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
+ Bài thơ "Tự tình II" thể hiện nghệ thuật xây dựng hình ảnh điêu luyện của Hồ Xuân Hương.
+ Bài thơ còn vận dụng rất linh hoạt các biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình.
+ Bài thơ có một giọng điệu và âm hưởng da diết, sắc sảo thể hiện rất thành công tâm trạng vừa đau buồn vừa phẫn uất của nhân vật trữ tình.
- Những luận cứ diễn giải cho luận điểm? Cần dùng những thao tác lập luận nào chính ( phân tích / so sánh ), vì sao?
* Những luận cứ diễn giải cho luận điểm:
- Ngôn từ bài thơ nôm na, dễ hiểu, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân nhưng lại rất chọn lọc, tinh tế, thể hiện một cách tài tình tâm trạng đau buồn, phẫn uất của người con gái trước duyên phận muộn mằn, gắng gượng vươn lên để đón đợi hạnh phúc mà vẫn rơi vào bi kịch.
- Ngôn từ bài thơ được chắt lọc tài tình, rất giàu giá trị tạo hình và biểu cảm, kết hợp từ ngữ một cách sáng tạo:
+ Toàn từ thuần Việt giàu giá trị tạo hình và biểu cảm như Văng vẳng, dồn, trơ, say lại tỉnh, xiên ngang, đâm toạc, từng đám, mấy hòn..
+ Hệ thống từ láy được sử dụng rất "đắt": văng vẳng, nước non, con con.
+ Kết hợp từ độc đáo: cái hồng nhan, Mảnh tình - san sẻ - tí - con con, khuyết chưa tròn.
+ Sử dụng từ đồng âm khác nghĩa: lại lại, xuân đi(tuổi xuân), xuân lại(mùa xuân).
* Cần dùng thao tác lập luận chính là phân tích. Vì như thế mới chỉ ra được những khía cạnh rất chi tiết trong nghệ thuật độc đáo về ngôn từ của bài thơ.
- Người viết kết hợp thao tác lập luận chính với thao tác lập luận hỗ trợ như thế nào để đoạn văn được trong sáng dễ hiểu?
- Thông thường các thao tác hỗ trợ tùy vào diễn biến của ý mà sử dụng ở phần nào cho hợp lí song người viết thường sử dụng ở phần sau của đoạn văn hoặc bài văn, hoặc xen kẽ giữa các ý để làm rõ vấn đề, giúp người đọc hiểu rõ hơn
- Không nên để thao tác bổ trợ lấn át thao tác chính, phải vận dụng một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn.
- Phân tích là căn cứ vào quan hệ nội bộ của đối tượng
- Phân tích theo các mối quan hệ nguyên nhân – kết quả, quan hệ giữa đối tượng với các đối tượng liên quan, phân tích dựa theo sự đánh giá chủ quan của người lập luận.
- Yêu cầu của một lập luận phân tích:
+ Xác định vấn đề phân tích.
+ Chia vấn đề thành những khía cạnh nhỏ.
+ Khái quát tổng hợp.
Tham khảo:
“Trung thực là “chương đầu tiên” trong cuốn sách về sự khôn ngoan” - Thomas Jefferson. Quả đúng như vậy, trung thực là một đức tính quý báu mà bất cứ ai trong cuộc đời cũng đều mong muốn có cho mình. Vậy trung thực là gì? Đó là lối sống ngay thẳng, không bao giờ nói sai sự thật, luôn đứng về lẽ phải, bảo vệ công bằng; trung thực là không dối trá, sống đúng lương tâm mình. Trung thực được thể hiện ở rất nhiều mặt của đời sống. Đó là lúc bạn sai lầm và mạnh dạn nhận lỗi về mình. Trong thi cử chấp nhận điểm kém còn hơn gian lận, quay cóp. Trung thực còn giúp cho chúng ta rất nhiều điều khác trong cuộc sống nữa. Nó giúp ta có được sự tin tưởng, tin yêu của người khác. Trong công việc làm ăn, nếu chúng ta làm ăn trung thực với nhau, không gian dối thì cả hai bên đều có lợi. Nếu mỗi con người là một tấm gương sáng về trung thực thì sẽ tạo nên một xã hội văn minh, công bằng, xã hội ổn định, phát triển. Ta cũng cần phê phán những kẻ gian dối, thiếu trung thực. Những kẻ không trung thực là những kẻ xấu, dễ gây mất niềm tin đối với người xung quanh, khiến ai cũng phải dè chừng. Trong cuộc sống hằng ngày, khi vi phạm lỗi lầm gì thì cố gắng kiếm cớ, nói dối sao cho mình thoát khỏi tội. Đó là những hành vi đê hèn của kẻ không trung thực. Người không trung thực là người không tốt. Vậy nên chúng ta cần đấu tranh loại bỏ thói xấu này ra khỏi xã hội. Tóm lại, trung thực là một đức tính tốt, cao quý rất đáng để cho chúng ta noi theo. Vì thế, ngay từ giờ phút này, hãy chung tay loại bỏ thói dối trá ra khỏi đời sống xã hội, hãy cùng nhau tạo nên một thế giới nơi con người tin tưởng và sống với nhau bình đẳng và bác ái.
tham khảo:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
Hai câu thơ trên đã thể hiện quan điểm sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu - “Ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc” (theo cách nói của Phạm Văn Đồng). Một trong những mạch ngầm xuyên suốt trong tư tưởng về “đạo” của Nguyễn Đình Chiểu chính là “yêu nước thương dân”. Điều này đã được thể hiện qua rất nhiều tác phẩm, tiêu biểu là “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Bằng niềm xúc động mạnh mẽ trước sự hi sinh của những người nông dân, tác giả đã xây dựng thành công bức tượng đài bi tráng, chân thực, hào hùng tinh thần yêu nước mãnh liệt cùng quyết tâm chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.
Mở đầu tác phẩm, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện bối cảnh thời đại lúc bấy giờ qua những câu văn giàu cảm xúc: “Súng giặc đất rền/ Lòng dân trời tỏ”. Đó là bối cảnh gắn liền với tiếng súng cùng bước chân xâm lược của thực dân Pháp đối với dân tộc ta, nhưng cũng chính trong thời đại căng thẳng, sục sôi và quyết liệt đó, hình tượng những người nông dân nghĩa sĩ vụt sáng với tư thế hiên ngang, lẫm liệt. Trước đây, họ chỉ là những con người quẩn quanh lối sống bình dị qua sự vất vả, tần tảo sớm hôm cùng ruộng đồng, nương bãi:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn,
Toan lo nghèo đói”
Bằng những câu thơ ngắn, ngôn ngữ thơ bình dị, tác giả đã tái hiện thành công bức chân dung người nông dân trong cuộc sống thường nhật: “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ” và hoàn toàn xa lạ với việc binh đao. Họ chưa từng trải qua sự rèn luyện nơi “cung ngựa”, “trường nhung” và hoàn toàn lạ lẫm đối với những công việc như tập súng, tập khiên. Thông qua phần Lung khởi, tác giả đã hồi tưởng lại hình tượng người nông dân nghĩa sĩ với những phẩm chất cần cù, lam lũ, đặc biệt là tinh thần căm thù giặc sâu sắc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Những câu văn gợi liên tưởng đến những tinh thần sục sôi chiến đấu của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trong tác phẩm “Hịch tướng sĩ”: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Như vậy, qua những động từ mạnh như “ăn gan”, “cắn cổ”, chúng ta có thể thấy được tinh thần căm thù giặc sâu sắc của người nông dân khi chứng kiến giặc ngoại xâm xâm chiếm bờ cõi.
Xuất phát từ ý chí đánh đuổi giặc ngoại xâm đó, họ tự giác đứng lên chiến đấu vì nghĩa lớn: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Người nông dân tự nguyện sẵn sàng xả thân, hi sinh để bảo vệ đất nước. Bởi vậy, trong trận nghĩa đánh Tây, họ xuất hiện với tư thế kiên cường, bất khuất và hành động quả cảm, mạnh mẽ: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”; “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có…”. Sự quyết liệt được tô đậm hơn nữa thông qua biện pháp liệt kê: “Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Bởi vậy, dù trang bị, vũ khí hết sức thô sơ: “manh áo vải”, “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”,... nhưng họ vẫn bước ra chiến trường với tư thế dũng mãnh của người làm chủ: “cũng chém rớt đầu quan hai họ”.
Tác phẩm kết thúc bằng lời khẳng định về sự hi sinh cao đẹp của người nông dân - nghĩa sĩ qua câu văn ngắn gọn tám chữ: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”. Từ ngữ “nghìn năm” đã gợi mở phạm trù thời gian vĩnh hằng để ngợi ca linh hồn bất tử của người nông dân.
Để khắc họa thành công hình tượng người nông dân, nghĩa sĩ, tác giả đã sử dụng bút pháp hiện thực. Đây là một trong những đóng góp mới mẻ trong nền văn học trung đại - giai đoạn chủ yếu sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng. Nhờ vậy, hình tượng người nông dân đã hiện lên chân thực qua nhiều nét vẽ, từ dáng vẻ bề ngoài đến cuộc sống lao động cùng những tâm tư, suy nghĩ và hành động. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều biện pháp tu từ nghệ thuật để tăng sức gợi hình, gợi cảm như so sánh (“trông tin quan như thời hạn trông mưa, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”), đối lập, đặc tả,...
Như vậy, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã tái hiện thành công bức chân dung người nông dân, nổi bật là tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm chống lại giặc ngoại xâm. Đó là những phẩm chất chung của nhân dân ta qua mọi thời đại, làm nên giá trị truyền thống cốt lõi của dân tộc. Tuy nhiên, qua việc sử dụng bút pháp hiện thực, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng người nông dân với những nét mới mẻ của sự bi tráng trong thời đại văn học trung đại Việt Nam.
Đoạn trích này nam ở hồi thứ 21 của Tam quốc diễn nghĩa. Nội dung kể về bữa rượu Tào Tháo đãi Lưu Bị trong thời gian ba anh em Lưu – Quan – Trương tạm thời nương náu trên đất Ngụy để chờ thời cơ ra đi mưu nghiệp lớn. Đề tài của hai người trong bữa rượu là bàn luận về anh hùng và mục đích của Tào Tháo là thăm dò và thử thách Lưu Bị. Hiểu rõ ý đồ đó nên Lưu Bị đã khôn khéo đánh lạc hướng, khiến Tào Tháo không còn nghi ngờ gì nữa. Qua đoạn trích, người đọc có thể hiểu phần nào quan niệm về người anh hùng của Tào Tháo và sự sáng suốt cùng tính cách khôn ngoan, thận trọng của Lưu Bị.
La Quán Trung đã vẽ chân dung nhân vật bằng những lời lẽ, cử chí tiêu biểu nhất, chọn lọc nhất, ở đoạn trích này, ta thấy Tào Tháo và Lưu Bị hoàn toàn tương phản về mặt tính cách nhưng đặt cạnh nhau thì tính cách của mỗi nhân vật lại càng thêm nổi bật.
Vị trí của đoạn trích này nằm sau đoạn kể về việc ba anh em Lưu – Quan – Trương phải tạm náu mình dưới trướng Tào Tháo. Lúc này, Tào Tháo đang ở thế rất mạnh, còn Lưu Bị, tuy cũng ấp ủ chí anh hùng tạo dựng sự nghiệp lớn lao nhưng thế lực còn quá yếu. Tình thế hiểm nghèo chẳng khác nào cá nằm trên thớt. Tào Tháo vốn đa nghi và gian hiểm. Nếu Lưu Bị sơ hở để lộ tung tích thì cầm chắc cái chết. Vì thế mà Lưu Bị hết sức cẩn thận: Huyền Đức bấy giờ sợ Tháo nghi mình có mưu đồ gì, bèn làm một vườn rau ở sau nhà, ngày ngày vun xới, tưới tắm để làm cho Tháo khỏi ngờ. Thế nhưng chuyện ấy Tào Tháo cũng biết.
Việc Tào Tháo sai Hứa Chử và Trương Liêu là hai dũng tướng thân cận của hắn đến mời tạo ra một tình huống bất ngờ và bất lợi cho Lưu Bị. Trong lúc Quan Vũ và Trương Phi đi vắng, không biết Tào Tháo mời mình đến dinh Thừa tướng để làm gì? Lưu Bị đã giật mình hỏi: Việc gì khẩn cấp thế, hai ông? Từ chối không đi hoặc nấn ná trì hoãn đều bất ổn, Lưu Bị buộc phải theo Hứa Chử, Trương Liêu đến yết kiến Tào Tháo.
Lưu Bị đến phủ Thừa tướng, Tào Tháo thay cho lời chào bằng câu: Huyền Đức độ này ở nhà làm một việc lớn lao đấy nhỉ! khiến cho Lưu Bị sợ tái mặt. Rồi Tào Tháo dắt Lưu Bị ra sau vườn, nói tiếp: Huyền Đức học làm vườn, chắc không phải là một việc dễ dàng? Lúc bấy giờ, Lưu Bị mới vững dạ đáp một cách tự nhiên rằng: Không có việc gì, làm để tiêu khiển đó thôi.
Tháo vui vẻ kể lại chuyện ngày trước dụ quân sĩ trên đường đi đánh Trương Tú bằng việc nói dối là có rừng mơ trước mặt để cho họ vượt qua cơn khát cháy họng. Rồi hắn bắt sang chuyện là hiện đang có mơ xanh trên cây, lại có nồi rượu vừa mới nấu nên mời Lưu Bị đến tiểu đình uống rượu. Hắn kể lể dông dài như vậy là để tạo cho cuộc gặp gỡ một cái cớ tự nhiên và hợp lí, hòng xua đi thắc mắc trong lòng Lưu Bị Tào Tháo và Lưu Bị vốn hiểu rất rõ về nhau. Tào Tháo để ba anh em Lưu Bị ở gần mình là vì muốn khống chế và thu phục để sử dụng về sau.
Nguyên nhần dẫn đến chuyện luận anh hùng lại là cơn mưa to sắp kéo đến. Khi quân hầu bẩm là có vòi rồng lấy nước, Tào Tháo và Lưu Bị cùng ngắm xem. Nhân đà, Tào Tháo hỏi Lưu Bị về sự biến hóa của rồng. Đây không phải là chuyện vô cớ mà sâu xa là một điều ám chí, một sự thăm dò.
Sự biến hóa của rồng là sự biến hóa của Lưu Bị hay của Tào Tháo? Tào Tháo vốn là một thi sĩ rất giỏi thơ văn nên khi ông ta nói về sự biến hóa của rồng thật hay và nhiều ngụ ý: Rồng thì lúc to, lúc nhỏ, lúc bay, lúc nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù; lúc nhỏ thì thu hình ẩn bóng; khi bay ra thì liệng trong trời đất; khi ẩn thì núp ở dưới sóng. Nay đang mùa xuân, rồng gặp thời biến hóa, cũng như người ta lúc đắc chí, tung hoành trong bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời.
Tào Tháo vốn đa mưu túc kế nên đã chủ động lái câu chuyện sang một hướng khác có vẻ tự nhiên nhưng thực ra là cố ý đưa Lưu Bị vào tình thế khó xử: Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh hùng đời nay hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.
Lời lẽ ấy, giọng điệu ấy là lời lẽ, giọng điệu của kẻ đang nắm quyền chủ động, đang đắc ý gặp thời nên không khỏi huênh hoang, dương dương tự đắc. Đối lại, Huyền Đức vẫn một mực khiêm nhường: Bị này người trần mắt thịt, biết đâu được anh hùng… Bị này được nhờ ơn Thừa tướng làm quan trong triều, anh hùng trong thiên hạ thực không được biết.
Tào Tháo vẫn gặng: Đã đành không biết mặt nhưng cũng có nghe tiếng chứ? Đên đây thì Lưu Bị không thể thoái thác, đành đưa ra một vài người như: Viên Thuật ở Hoài Nam, binh lương nhiều, có thể cho là anh hùng được chăng ? Tháo gọi Viên Thuật một cách khinh bỉ là xương khô trong mả, chỉ nay mai là ta bắt được. Lưu Bị nhắc đến Viên Thiệu (anh Viên Thuật) ở Hà Bắc, bốn đời làm tam công… hiện nay như con hổ dữ hùng cứ ở Kí Châu… có thể cho là anh hùng được chăng ? Tháo lại phủ nhận: Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích mưu mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì quên mình, không thể gọi là anh hùng được. Lưu Bị tiếp tục đưa ra Lưu Cảnh Thăng, nổi tiếng trong tám kẻ tuấn kiệt đương thời, uy danh khắp cả chín châu, Tào Tháo cũng nhận xét đây là kẻ có hư danh nhưng không có thực tài, không phải là anh hùng. Rồi Tôn Sách với sức khỏe đứng đầu xứ Giang Đông cũng bị Tào Tháo cho là nhờ danh tiếng của bố, không phải anh hùng. Đến Lưu Chương, dòng họ nhà vua cũng bị Tào Tháo khinh bỉ gọi là con chó giữ nhà, sao gọi là anh hùng được? Cuối cùng là đến nhóm Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại mà Tào Tháo đã từng đích thân dẫn quân đi đánh thì Tháo vỗ tay cười to: Lũ tiểu nhân nhung nhúc ấy thì còn nói làm gì nữa ?
Qua cuộc đối thoại đó, ta thấy Lưu Bị rất khôn khéo vì ông chí nhắc đến cái sức mạnh trong quá khứ và hiện tại của mỗi nhân vật. Khi nói lên sự hiểu biết và quan niệm của mình về các anh hùng trong thiên hạ, Lưu Bị không hề nhắc đến Tào Tháo chắc vì nhiều lí do. Đó là sự khéo léo, khôn ngoan rất mực.
Trái lại, thái độ Tào Tháo rất cao ngạo, khinh bạc, coi thường tất cả, gọi thẳng họ tên, dùng ẩn dụ để chỉ ra sự bại vong tất yếu hoặc sự tầm thường của từng người mà Lưu Bị đã nêu lên. Tào Tháo lúc thì nói, lúc thì cười nói, điệu bộ kẻ cả và sử dụng toàn câu phủ định.
Tào Tháo uống rượu luận anh hùng trong khi các nhân vật mà Lưu Bị nêu ra đang có hàng vạn binh giỏi, ngựa tốt, có nhiều tướng lĩnh xuất sắc và đang hùng cứ một phương. Thế nhưng Tào Tháo đã chí ra cái yếu, cái tầm thường cùng sự bại vong của họ. Tầm nhìn của Tào Tháo là tầm nhìn chiến lược sâu sắc. Khi cái thế chân vạc “Ngụy – Thục – Ngô” chưa hình thành mà Tào Tháo với mưu cao, chí lớn đã đưa ra những dự báo tài tình, điều đó cũng thể hiện cuộc đấu trí của Lưu Bị với Tào Tháo gay go đến nhường nào.
Lưu bị lấy rất nhiều dẫn chứng cốt để Tào Tháo chừa mình ra và bớt nghi ngờ, nhưng Tào Tháo vốn sáng suốt và sắc sảo, hắn không dễ gì buông tha Lưu Bị. Lúc Lưu Bị vờ làm ra vẻ thật thà: Ngoài những người ấy ra, Bị thực không còn biết ai nữa; thì Tào Tháo đột ngột nói thẳng quan điểm của mình không hề che đậy: Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có tài bao trùm được cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia.
Bốn tiêu chí mà Tào Tháo nêu ra phải chăng là tự nói về mình? Nếu coi “nhân, trí, dũng” là phẩm chất của người anh hùng thì quan niệm về người anh hùng của Tào Tháo chưa đầy đủ, nhưng sự thật là với thanh gươm yên ngựa giữa thời Tam quốc loạn lạc, con người này đã giành được chức Thừa tướng, dưới trướng có hàng trăm vạn hùng binh, hàng nghìn kiện tướng đang tung hoành bốn cõi thì đâu phải một người bình thường?!
Quan điểm trên cho thấy suy nghĩ của Tào Tháo đôi với người anh hùng là quá lớn, quá cao. Có thể hiểu anh hùng của Tào Tháo chính là những người ôm mộng bá vương, là Thiên Tử ở dưới Trời một bậc. Như vậy là Tào Tháo đã hé lộ bản chất và tham vọng ghê gớm của minh trước Lưu Bị.
Những tưởng Tào Tháo có ý ngầm khẳng định chỉ có một mình hắn xứng là anh hùng trong thiên hạ nên Lưu Bị đã bớt lo, chỉ hỏi thêm một câu đưa đẩy: Ai có thể xứng đáng được như thế ? Nào ngờ một tình huống đầy kịch tính bất ngờ xảy ra khi Tháo lấy tay trỏ vào Huyền Đức, rồi lại trỏ vào mình nói rằng: Anh hùng trong thiên hạ bây giờ chí có sứ quân và Tào Tháo mà thôi. Thật là bất ngờ cho Lưu Bị khi nghe Tào Tháo trả lời không hề úp mở. Câu nói của Tào Tháo còn ẩn chứa cả sự ngấm ngầm đe dọa của một kẻ có uy quyền và đầy tham vọng.
Lời khẳng định chắc như đinh đóng cột của Tào Tháo khiến cho Huyền Đức nghe nới giật nảy mình, bất giác thìa, đũa cầm ở tay rơi cả xuống đất. Song lòng yêu mến dành cho Huyền Đức đã khiến tác giả La Quán Trung sáng tạo ra một tiếng sấm rền vang đầy bất ngờ và đúng lúc để giúp Huyền Đức che giấu được cái giật mình nguy hiểm. Tháo nhìn thấy mỉa mai: Trượng phu mà cũng sợ sấm à ? Huyền Đức nhanh trí biện minh: Đức thánh ngày xưa gặp lúc sấm dữ gió to cũng đổi sắc mặt, sao tôi tại không sợ! Bằng câu nói có vẻ tự nhiên, nửa đùa nửa thật ấy, Huyền Đức đã che giấu được nguyên nhân thật sự của việc đánh rơi thìa đũa là do sợ hãi khi nghe Tào Tháo gọi mình là anh hùng.
Nét nổi bật nhất trong tính cách của Tào Tháo được thể hiện ở câu nói khẳng định mình và Lưu Bị là anh hùng. Đây cũng là thắt nút, là đỉnh điểm của mâu thuẫn và hành động che giấu cái giật mình một cách khéo léo của Huyền Đức là điểm mở nút. Tào Tháo đẩy mâu thuẫn lên cao trào với câu nói đầy khiêu khích; trái lại, Huyền Đức giải quyết mâu thuẫn bằng một hành động khiêm nhường của một người biết ẩn mình khi cần thiết.
Trong cuộc luận anh hùng mà thực chất là cuộc đấu trí giữa Tào Tháo và Lưu Bị, La Quán Trung đã khép lại câu chuyện một cách nhanh gọn và hóm hỉnh như hạ màn một vở kịch đặc sắc:
Huyền Đức đã che đậy được hết cả việc giật mình đánh rơi cả thìa đũa khi nghe Tào Tháo gọi mình là anh hùng.
Tháo thấy thế không nghi ngờ gì Huyền Đức nữa.
Lưu Bị vốn là một người bình tĩnh, khôn ngoan, song khi bị đặt vào tình huống quá hiểm nghèo và trước sức ép liên tục của Tào Tháo thì việc giữ được bình tĩnh hoàn toàn không dễ. Không phải ngẫu nhiên tác giả đã để cho Lưu Bị hai lần giật mình, hơn nữa còn giật mình mạnh đến nỗi bất giác thìa, đũa đương cầm ở tay rơi cả xuống đất. Tuy nhiên, trước sau Lưu Bị vẫn làm chủ được tình thế, từ việc làm một vườn rau ở sau nhà, ngày ngày vun xới tưới tắm, từ chỗ tái mặt đến trấn tĩnh, từ chỗ đánh rơi thìa, đũa đến ung dung cúi xuống nhặt đũa và thìa, đặc biệt là còn đủ tỉnh táo để dẫn một câu trong sách Luận ngữ của Khổng Tử để biện hộ cho việc đánh rơi thìa, đũa của mình.
Một trong những bút pháp quen thuộc mà các nhà văn cổ điển Trung Quốc thường sử dụng để làm nổi bật tính cách nhân vật là lấy nhân vật này để đối sánh với nhân vật khác. Lưu Bị không chỉ giữ kín ý đồ với Tào Tháo mà với cả hai người anh em kết nghĩa. Khi Quan Công, Trương Phi thắc mắc anh không Lưu tâm đến thiên hạ, Lưu Bị chí đáp một cách nhẹ nhàng, ngắn gọn: Hai em biết đâu ý anh!
Với Lưu Bị, bữa rượu bất ngờ ấy không phải là chỗ để tranh luận về quan niệm anh hùng vì trước mắt, Lưu Bị đang giấu mình thật kĩ để khỏi bị Tào Tháo tiêu diệt. Lưu Bị đã thực hiện thành công chủ trương ấy nên ông đã giành phần thắng. Đó là xét về phía Lưu Bị. Còn về phía Tào Tháo, vì sao ông ta lại thua trong cuộc đấu trí này?
Được Tào Tháo mời đến uống rượu và bàn luận về anh hùng, có nghĩa là Lưu Bị đã bị đặt vào tầm ngắm, vào thế rất dễ để lộ mình. Chi tiết đánh dấu điểm mở nút là việc Huyền Đức đã khôn khéo che đậy được hết việc giật mình đánh rơi thìa, đũa khi nghe Tào Tháo gọi mình là anh hùng. Chi tiết ấy cũng giải thích được vì sao Lưu Bị vốn đã khiêm nhường, thận trọng, kín đáo, khôn ngoan thì ở tình thế này, những nét tính cách đó càng được thể hiện một cách nổi bật. Mặt khác, có thể thấy tình thế trên cũng làm cho Tào Tháo vốn đã kiêu ngạo nay lại nảy sinh chủ quan, mất cảnh giác, dẫu bình thường ông ta nổi tiếng là kẻ đa nghi, cẩn trọng. Đây là điều kiện khách quan tạo thuận lợi cho Lưu bị có thể giành phần thắng.
Trong Tam quốc diễn nghĩa, tác giả miêu tả thiên nhiên không nhiều, song những chỗ miêu tả thiên nhiên đều rất xuất sắc, có tác dụng lớn trong việc khắc họa bối cảnh cũng như tính cách nhân vật. Giữa tiệc rượu, câu chuyện luận anh hùng đã đến một cách tình cờ nhờ sự xuất hiện của cơn mưa và hiện tượng vòi rồng. Nút đã được thắt rất hợp lí và rồi cũng được mở một cách tự nhiên nhờ tiếng sấm rền vang.
Đoạn trích giống như một màn kịch ngắn có đủ các yếu tố như bối cảnh, nhân vật, lời thoại và kịch tích. Những chi tiết giàu kịch tính làm cho độc giả luôn rơi vào trạng thái bất ngờ và do đó luôn thấp thỏm, chờ đợi, hồi hộp xem kết cục ai thắng, ai bại: như việc Tào Tháo mời Lưu Bị đến ngay mà không nói rõ lí do, việc Tào Tháo nói Lưu Bị đang làm một việc lớn lao mà không nói rõ đó là việc gì, hiện tượng vòi rồng bỗng nhiên xuất hiện lúc hai người đang ăn uống vui vẻ, hiện tượng tiếng sấm rền vang đúng lúc Lưu Bị bị dồn vào tình thế nguy hiểm.
Lời thoại của nhân vật nào bộc lộ rõ tính cách của nhân vật ấy: Tào Tháo sắc sảo, gian hùng, từng trải, nhưng bộc lộ hết ra ngoài. Còn Lưu Bị thì thông minh, sáng suốt, bình tĩnh và từng trải không kém. Ông che giấu khéo đến mức làm cho Tào Tháo không còn nghi ngờ gì nữa và sau đó ông vẫn tiếp tục âm thầm lo gây dựng sự nghiệp lớn lao. Lưu Bị chính là rồng đang ẩn trong mây vậy!
Qua đoạn trích Tào Tháo uống rượu luận anh hùng, ta thấy nghệ thuật phân tích diễn biến tâm lí và xây dựng tính cách nhân vặt của tác giả La Quán Trung thật già dặn, điêu luyện, xứng đáng là bậc thầy trong văn xuôi Trung Quốc thời trung đại.