Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
chi tiết tưởng tượng,kì ảo là: con rùa biết nói ,rùa hiểu tiếng người
những chi tiết đó làm cho bài văn đo hay và hấp đẫn cuốn hút người đọc
Một/năm/sau/khi/đuổi/giặc Minh/,một/hôm/Lê lợi/-/bấy giờ/đã/làm/vua/-/cưỡi/thuyền rồng/dạo/quanh/hồ/Tả Vọng/.Nhân/ dịp/đó/,Long Quân/sai/Rùa Vàng/lên/đòi lại/thanh/gươm thần/.khi/ thuyền rồng/tiến ra/ giữa /hồ/,tự nhiên/có/một/con rùa/lớn/nhô/đầu/và/mai/lên/trên/mặt nước/.Theo/lệnh/vua/,thuyền/đi/chậm/lại.Đứng/ở/mạn thuyền/,Vua/thấy/lưỡi/gươm thần/đeo/bên/mình/tự nhiên/động đậy/.Con rùa vàng/không/sợ/người/,nhô/đầu/lên/cao/nữa/và/tiến/về/phía/thuyền/vua/.Nó/đứng/nổi/trên/mặt nước/và/ nói/:''Xin/bệ hạ/hoàn gươm/lại/ cho/Lonh Quân. Danh từ:năm,khi,giặc Minh,hôm,Lê Lợi,bấy giờ,vua,thuyền rồng,hồ,Tả Vọng,dịp,Long Quân,Rùa Vàng,đòi lại,thanh,gươm thần,con rùa,đầu, mai,mặt nước,lệnh.thuyền,mạn thuyền,lưỡi,mình,con Rùa Vàng,người,phía,bệ hạ,hoàn gươm. Cụm danh từ:một năm sau khi đuổigiặc Minh,một hôm, khi thuyền rồng tiến ra giữa hồ,một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước,lệnh vua,lưỡi gươm thần đeo bên người tự nhiên động đậy,phía thuyền vua.
1. Đoạn văn sử dụng phương thức biểu đạt tự sự
2. Đoạn trích sử dụng ngôi kể thứ ba.
Người kể chuyện chứng kiến, biết hết mọi chuyện tạo nên sự liền mạch cho câu chuyện.
3. Cụm danh từ là: thanh gươm thần, một con rùa lớn.
4. Hai từ Hán Việt là: bệ hạ, hoàn.
Từ Hán - Việt là từ vay mượn của tiếng Hán, nhưng được đọc theo cách phát âm của tiếng Việt.
5. Các truyện Ếch ngồi đáy giếng, Thầy bói xem voi, Đeo nhạc cho mèo thuộc thể loại truyện ngụ ngôn.
Các truyện đó có chung mục đích sáng tác gửi gắm bài học đạo lí nào đó cho con người.
Giair thích tên gọi của Hồ Hoàn Kiếm,nói lại sự việ trả thanh gươm thần
Lê Lợi không trực tiếp nhận gươm. Người đánh cá Lê Thận nhận được lưỡi gươm dưới nước, Lê Lợi nhận được chuôi gươm trên rừng, đem khớp với nhau thì “vừa như in”. Điều đó chứng tỏ sức mạnh của gươm thần thực chất là sức mạnh đoàn kết nhân dân ở khắp nơi, trên mọi miền Tổ quốc, từ miền xuôi cho đến miền ngược, từ đồng bằng cho đến miền rừng núi.
Mỗi bộ phận của thanh gươm ở một nơi nhưng khi khớp lại thì vừa như in, điều đó thể hiện sự thống nhất nguyện vọng, ý chí chống giặc ngoại xâm của toàn dân tộc. Hai chữ “Thuận Thiên” (hợp lòng trời) trên lưỡi gươm thần nhấn mạnh tính chất chính nghĩa, hợp lòng người, lòng trời của nghĩa quân Lam Sơn.
Câu 1:Ngôi kể thứ 3
PTBD chính :Tự sự
Câu 2:
chi tiết liên quan đến lịch sử:
Một năm sau khi đuổi giặc Minh
yếu tố kì ảo :
Rùa không sợ người
Rùa vàng nổi lên mặt nước nói
Câu 3:
TN:Từ đó
Chức năng:Chỉ thời gian
giải thích tên "Hồ Hoàn Kiếm"
"Hồ Hoàn Kiếm" là hồ mà Lê Lợi đã hoàn lại gươm cho long quân
Câu 4:
Đoạn trích trên kể lại sự việc mà rùa vàng nhô đầu lên và bảo Lê Lợi hoàn lại kiếm cho long quân
Ý nghĩa của sự việc đó:Ca ngợi tính chính nghĩa và tính nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn .
Câu 1 : thể loại : truyền thuyết
`-` Dấu hiệu nhận biết : Truyền thuyết là các loại truyện dân gian, lịch sử và liên quan đến quá khứ.
`-` Tác phẩm : Con rồng cháu tiên, Sơn Tinh Thủy Tinh,..
Câu 2 : Từ loại : tính từ
Câu 3 :
2 truyền thuyết mà em biết có sự xuất hiện của nhân vật Lạc Long Quân ( Long Quân, Đức Long Quân) hoặc Rùa Vàng (Rùa Thần, Đức Kim Quy) : An Dương Vương và thành Cổ Loa, con Rồng cháu Tiên
Câu 4 :
Kì ảo :
- Con rùa vàng không sợ người, nhô đầu lên cao nữa và tiến về phía thuyền vua. Nó đứng nổi lên trên mặt nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm cho Long Quân!”
-Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp thanh gươm và lặn xuống.
Cốt lõi lịch sử :
-Từ đó, hồ Tả Vọng bắt đầu mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.”
-Giặc Minh, Lê Lợi, địa danh hồ Tả Vọng – hồ Gươm – hồ Hoàn Kiếm.
Câu 5 : Vì truyện muốn nói lên sự hình thành của Hồ Gươm(Hồ Hoàn Kiếm), đồng thời thể hiện sự ca ngợi tính chính nghĩa và tính nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn .
Phần II :
Tham khảo:
Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân. Vì chăm chỉ làm lụng nên bố mẹ tội cũng có bát ăn bát để, hi vọng sau này cho anh em tôi làm vốn sinh nhai. Nhưng rồi cha mẹ tôi mất đột ngột. Anh trai tôi đã không làm như lời cha mẹ dặn trước lúc lâm chung là chia đều tài sản cho hai anh em mà chiếm hết gia tài, chỉ để lại cho tôi một túp lều nhỏ và cây khế còi cọc ở góc vườn.
Tôi chấp nhận mà không hề kêu ca, than phiền gì. Hằng ngày, tôi phải mò cua bắt ốc, cày thuê, cuốc mướn để sống. Cây khế trở thành tài sản quý giá nhất và là người bạn thân thiết của tôi. Tôi chăm sóc nó chu đáo, tận tình như người bạn. Vì vậy mà cây khế lớn rất nhanh và chẳng bao lâu đã ra hoa kết quả. Đến mùa khế chín, những chùm khế chín vàng óng, thơm lừng báo hiệu một mùa khế bội thu. Không thể nào nói hết được niềm hạnh phúc của mọi người trong gia đình tôi. Tôi đã đan những chiếc sọt để ngày mai đem khế ra chợ đổi lấy gạo. Sáng hôm đó, khi vừa thức dậy, tôi đã nhìn thấy trên cây khế có một con chim to với bộ lông sặc sỡ đang ăn những quả khế chín. Lòng tôi đau như cắt. Tôi chạy đến dưới gốc cây và nói: “Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?”. Chim bỗng ngừng ăn và cất tiếng trả lời: “Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi và đựng”. Nói rồi chim bay đi. Tôi không tin lắm vào chuyện lạ lùng đó nhưng vẫn bảo vợ may cho mình một chiếc túi ba gang. Sáng hôm sau, chim đến từ sớm và đưa tôi ra một hòn đảo nhỏ giữa biển. Tôi không thể tin vào những gì hiện ra trước mắt. Cả hòn đảo toàn vàng bạc châu báu chất đống. Cả hòn đảo ánh lên màu vàng làm tôi bị lóa mắt. Không hề có một bóng người. Tôi cảm thấy lo sợ, cứ đứng yên một chỗ. Nhưng rồi chim vỗ cánh và giục giã: “Anh hãy lấy vàng bạc, châu báu vào túi, rồi tôi đưa về.” Lúc đó tôi mới dám nhặt vàng cho vào đầy túi ba gang rồi lên lưng chim để trở về đất liền.
Từ đó, gia đình tôi không còn phải ăn đói mặc rách nữa. Tôi dựng một căn nhà khang trang ngay trong khu vườn, nhưng vẫn giữ lại túp lều và cây khế.
Tôi dùng số của cải đó chia cho những người dân nghèo khổ trong làng. Cũng không hiểu sao từ bữa đó, chim không còn đến ăn khế nữa. Cây khế bây giờ đã to lớn, toả bóng mát xuống cả một góc vườn. Mùa khế nào tôi cũng chờ chim thần đến để bày tỏ lòng biết ơn.
Tiếng lành đồn xa, câu chuyện lan đến tai người anh trai tôi. Một sáng, anh đến nhà tôi rất sớm. Đây là lần đầu tiên anh tới thăm tôi kể từ ngày bố mẹ mất. Anh đòi tôi đổi toàn bộ gia sản của anh lấy túp lều và cây khế. Tôi rất buồn khi phải chia tay với căn nhà và cây khế. Nhưng trước lời cầu khẩn của anh, tôi đành bằng lòng. Cả gia đình anh chuyển về túp lều cũ của tôi. Ngày nào anh cũng ra dưới gốc khế chờ chim thần đến. Mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim, anh tôi đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết và đòi chim phải trả vàng. Chim cũng hứa sáng mai sẽ đưa anh tôi ra đảo vàng và dặn may túi ba gang. Tối hôm đó, anh tôi thức cả đêm để may túi mười gang ngày mai đi lấy vàng. Sáng hôm sau, vừa ra tới đảo vàng, anh tôi đã hoa mắt bởi vàng bạc châu báu của hòn đảo. Anh tôi vội nhét vàng vào đầy túi mười gang, vào túi quần, túi áo và mồm cũng ngậm vàng nữa. Trên đường trở về nhà, chim nặng quá, kêu anh tôi vứt bớt vàng xuống biển cho đỡ nặng. Vốn tính tham lam, anh không những không vứt bớt xuống mà còn bắt chim bay nhanh hơn. Nặng quá, chim càng lúc càng mệt. Đôi cánh trở nên quá sức, yếu dần. Cuối cùng, không còn gắng được nữa, chim chao đảo rồi hất luôn người anh xuống biển cùng với số vàng.
Tôi trở lại sống ở nhà cũ, cùng túp lều và cây khế. Nhưng chim thần không bao giờ còn quay trở lại nữa…Anh trai tôi đã không thể quay trở về chỉ vì lòng tham vô đáy. Một nỗi buồn man mác dâng lên trong lòng tôi.