Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Ngày 6/1/1946, cả nước tiến hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, 333 đại biểu trúng cử vào Quốc hội đầu tiên của nước ta.
- Quốc hội họp phiên đầu tiên (3/1946), thông qua danh sách Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh đứng đầu. Sau đó, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thông qua (11/1946).
- Sau bầu cử Quốc hội, ở khắp các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ đều tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.
- Quân đội Quốc gia Việt Nam ra đời (5/1946). Lực lượng dân quân tự vệ được củng cố, phát triển.
Cử tri đi cả nước bỏ phiếu bầu Quốc hội2. Giải quyết nạn đói- Biện pháp trước mắt: quyên góp, điều hòa thóc gạo, nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ lúa gạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả nước “Nhường cơm sẻ áo”…
- Biện pháp lâu dài: kêu gọi “Tăng gia sản xuất”, “Tấc đất tấc vàng”, giảm tô, giảm thuế, tạm cấp ruộng đất bỏ hoang cho nông dân thiếu ruộng…
- Kết quả: nhờ những biện pháp trên, nạn đói đã dần dần được đẩy lùi.
Nhân dân Nam Bộ quyên góp gạo giúp đồng bào bị đói ở Bắc Bộ (10/1945)
3. Giải quyết nạn dốt- Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ (9/1945), kêu gọi nhân dân cả nước tham gia phong trào xóa nạn mù chữ.
- Trường học các cấp từ phổ thông đến đại học sớm được khai giảng, nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo tinh thần dân tộc dân chủ.
Lớp học Bình dân học vụ4. Tài chính- Biện pháp trước mắt: kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân xây dựng “Quỹ độc lập”, thực hiện phong trào “Tuần lễ vàng” do Chính phủ phát động.
- Kết quả: nhân dân đã tự nguyện đóng góp được 370kg vàng và 20 triệu đồng vào “Quỹ độc lập”, 40 triệu đồng vào “Quỹ đảm phụ quốc phòng”.
- Biện pháp lâu dài: ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam. Tháng 11/1946, đồng tiền Việt Nam được lưu hành.
Tiền giấy Việt Nam năm 19465. Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược- Đêm 22 rạng sáng ngày 23/9/1945, thực dân Pháp đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
- Quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn và Nam Bộ nhất tề nổi dậy chống Pháp. Những đoàn quân “Nam tiến” từ miền Bắc đi vào Nam chiến đấu; nhân dân quyên góp ủng hộ đồng bào Nam Bộ kháng chiến.
Quân và dân Nam Bộ đứng lên chiến đấu khi thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai, tháng 9/19456. Đấu tranh chống quân Tưởng và bọn phản cách mạng- Để tránh cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, Đảng và Chính phủ chủ trương nhân nhượng một số yêu sách về kinh tế, chính trị cho quân Trung Hoa Dân quốc như: tiêu tiền “Quan kim”, “Quốc tệ”, cung cấp một phần lương thực cho chúng, nhường cho các đảng Việt Quốc, Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử và 4 ghế bộ trưởng trong Chính phủ… để tập trung chống Pháp ở Nam Bộ.
- Ý nghĩa: Chúng ta đã hạn chế đến mức thấp nhất các hoạt động chống phá của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng.
7. Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946)a. Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946
- Hoàn cảnh:
+ Pháp ký với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc Hiệp ước Hoa - Pháp (2/1946). Theo đó, Pháp được đưa quân ra miền Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
+ Hiệp ước Hoa - Pháp đặt nhân dân ta trước hai con đường phải lựa chọn: hoặc cầm súng chiến đấu không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc hòa hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh đối phó cùng một lúc nhiều kẻ thù.
+ Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm chủ trì, đã chọn giải pháp “Hòa để tiến”.
+ Chiều ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với G.Xanh-tơ-ni, đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định Sơ Bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ ngày 06-3-1946 với đại diện Pháp Sainteny- Nội dung của Hiệp định Sơ bộ:
+ Chính phủ Pháp công nhân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, nằm trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng và là thành viên của Liên Bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
+Chính phủ Việt Nam đồng ý để cho 15.000 quân Pháp được ra Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, số quân này sẽ rút dần trong 5 năm.
+ Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột ở miền Nam để tạo không khí thuận lợi đi đến cuộc đàm phán chính thức ở Pa-ri…
- Ý nghĩa: việc ký Hiệp định Sơ bộ, ta tránh được cuộc chiến đấu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, đẩy được quân Trung Hoa Dân quốc về nước, có thêm thời gian để chuẩn bị lực lượng… Pháp phải thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do.
b. Hiệp định Tạm ước (14/9/1946)
- Phía Pháp ra sức phá hoại Hiệp Định (gây xung đột vũ trang ở Nam Bộ, thành lập chính phủ Nam Kỳ tự trị …), cuộc đàm phán Việt - Pháp ở Phông-ten-nơ-blô thất bại.
- Trước tình hình đó, ta lại ký với Pháp bản Tạm ước 14/9/1946 nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế và văn hóa ở Việt Nam, kéo dài thêm thời gian hòa hoãn có lợi cho ta.
=> Việc ký hiệp định Sơ bộ và Tạm ước trên chứng tỏ Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chủ trương sáng suốt đưa nhân dân ta vượt qua những thử thách to lớn sẵn sành bước vào cuộc chiến đấu không thể tránh khỏi.
Hồ Chí Minh và Moutet bắt tay nhau sau khi kí Hiệp định Tạm ướcThắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân, trong đó nhân tố hàng đầu là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo đó trước hết là sự hoạch định đúng đắn Cương lĩnh, đường lối cách mạng. Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về nước. Người đã cùng Trung ương Đảng phát triển, bổ sung đường lối giải phóng dân tộc, một tư tưởng lớn đã được xác định từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2-1930). Sự phát triển về đường lối được nêu bật tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt quyền lợi của bộ phận, của giai cấp dưới lợi ích và sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Tập hợp, đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc, phát triển lực lượng chính trị trong Mặt trận Việt Minh, từ đó xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng. Đi từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng Nhà nước cộng hòa dân chủ Việt Nam. Chú trọng phát triển tình thế cách mạng và nắm bắt thời cơ. Xây dựng Đảng vững mạnh bảo đảm sự thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng. Nội dung cơ bản đó của đường lối tiếp tục được phát triển sáng tạo, cụ thể hóa tại Hội nghị Thường vụ Trung ương (2-1943), Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đ.C.S.Đ.D Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-3-1945) và nhất là Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào - Tuyên Quang (14 - 15-8-1945). Đường lối cách mạng đúng đắn đã dẫn dắt phong trào cách mạng của toàn dân tộc phát triển mạnh mẽ bảo đảm đi đến thắng lợi.
Đảng coi trọng phát triển thực lực cách mạng, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan, khách quan, thời cơ và nguy cơ. Đảng nhận thấy rõ, cách mạng của ta phải do ta tự làm lấy, vì vậy phải có sức mạnh. “Dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi”. Nêu cao ý chí tự lực, tự cường, đồng thời Đảng coi trọng sự ủng hộ từ lực lượng bên ngoài, khi xác định cách mạng Việt Nam đứng về phe Đồng minh chống phát-xít. Tháng 8-1942, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để liên lạc và tranh thủ sự giúp đỡ của lực lượng Đồng minh, chống quân Nhật xâm lược. Đầu năm 1945, Người lại sang Trung Quốc với sứ mệnh đó. Yếu tố bên ngoài là quan trọng, song Hồ Chí Minh cho rằng sự đồng tâm hiệp lực của dân ta mới là quyết định. Người kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hồ Chí Minh cùng các nhà lãnh đạo Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng phân tích sâu sắc tình hình trong nước và chiến tranh thế giới thứ II để đi đến khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Thời cơ thuận lợi chính là lúc cao trào kháng Nhật cứu nước của nhân dân Việt Nam phát triển mạnh mẽ trên khắp cả nước từ miền núi, nông thôn đồng bằng đến đô thị; quân phiệt Nhật tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh ngày 15-8-1945 và chính quyền phong kiến, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim suy yếu, hoang mang cực điểm; Trung ương Đảng và các tổ chức đảng trong cả nước đã sẵn sàng đưa toàn dân vào hành động cách mạng với nguyên tắc chỉ đạo: tập trung, thống nhất, kịp thời. Khi thời cơ chín muồi cũng là lúc xuất hiện nguy cơ cần phải ngăn chặn, vượt qua. Thực dân Pháp lợi dụng sự thất bại của Nhật, tìm cách quay lại khôi phục địa vị cũ ở Đông Dương như trước ngày 9-3-1945. Các nước Đồng minh theo phân công của Hội nghị Pôt-xđam (Đức) tháng 7-1945 vào giải giáp quân Nhật nhưng có âm mưu xâm chiếm và chia cắt nước Việt Nam. Việc giành chính quyền thành công trọn vẹn trong nửa cuối tháng 8-1945 là mẫu mực tuyệt vời về nghệ thuật chớp thời cơ và do đó đã ngăn chặn được nguy cơ mới đe dọa vận mệnh của dân tộc.
Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương có ý nghĩa quyết định toàn cục, đồng thời cần phải nhấn mạnh tới tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm cao của đảng bộ các địa phương, của những cán bộ, đảng viên tiêu biểu. Chỉ với gần 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo hơn 20 triệu đồng bào cả nước làm nên chiến công có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Lịch sử mãi mãi ghi công những cán bộ, đảng viên kiên trung cùng sự hy sinh, chiến đấu của toàn dân. Khởi nghĩa ở Hà Nội 19-8-1945 với vai trò của các đồng chí: Nguyễn Khang, Trần Tử Bình, Nguyễn Huy Khôi, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Quyết, Nguyễn Duy Thân… Cuộc khởi nghĩa ở Huế 23-8-1945 có sự lãnh đạo của Tố Hữu, Nguyễn Chí Thanh… Khởi nghĩa ở Sài Gòn 25-8-1945 gắn liền với vai trò của Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Trần Văn Giàu và nhiều đồng chí khác. Đảng bộ và các đồng chí lãnh đạo các địa phương khác cũng đã chủ động hành động như thế. Sự vùng dậy của cả một dân tộc vì độc lập, tự do với những người cộng sản dẫn đầu mãi mãi là hình tượng cao đẹp của cuộc Cách mạng Tháng Tám.
Bài học về sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám có ý nghĩa sâu sắc về lý luận và thực tiễn đối với các thời kỳ cách mạng tiếp theo, nhất là với công cuộc đổi mới hiện nay. Đổi mới bắt đầu từ sự khởi xướng và hoạch định đường lối từ Đại hội VI của Đảng (12-1986). Trải qua 30 năm đổi mới, đường lối, Cương lĩnh của Đảng không ngừng được bổ sung, phát triển trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với đường lối đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước đạt được những thành tựu to lớn, rất quan trọng. Hiện nay, cơ hội cho sự phát triển đất nước là rất lớn khi ta đang đi trên con đường đúng với sự lãnh đạo, quản lý đúng đắn của Đảng và Nhà nước; thế và lực của đất nước đã tăng lên rất nhiều; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả.
Đảng cũng thẳng thắn chỉ rõ những nguy cơ và thách thức trên con đường đổi mới. Đó là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa cả trong nhận thức và hành động. Nền kinh tế còn có những mặt yếu kém, quy mô, năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh còn thấp. Tham nhũng, lãng phí, sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn như mong muốn. Sự chống phá của các thế lực thù địch rất quyết liệt với âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tình hình đó đòi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng về mọi mặt, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, kiểu mẫu như mong muốn của Bác Hồ. Chỉ như vậy, Đảng mới xứng đáng với sự kính trọng, tin cậy của nhân dân và toàn dân tộc, thực hiện được sứ mệnh vẻ vang, lãnh đạo đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ, xây dựng, phát triển bền vững đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
1. Kiên định đường lối, chủ trương lãnh đạo của Ðảng - Nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2. Phát huy sức mạnh của lực lượng binh chủng hợp thành, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động, xây dựng thế trận phản công vững chắc.
3. Vận dụng nghệ thuật chiến dịch phản công linh hoạt, sáng tạo, chuyển hóa thế trận đúng thời cơ.
4. Phát huy tinh thần đoàn kết quốc tế, nhất là sự phối hợp chiến đấu giữa quân và dân Việt Nam - Lào.
Nguyên nhân hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
- Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng
- Sự đoàn kết đồng lòng ủng hộ của nhân dân Việt Nam
Bài học trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
→ Kiên định trong đường lối, chủ trương lãnh đạo
→ Phát huy sức mạnh của lực lượng binh chủng hợp thành, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động, xây dựng thế trận phản công vững chắc
→ Vận dụng nghệ thuật chiến dịch phản công linh hoạt, sáng tạo, chuyển hóa thế trận đúng thời cơ
→ Phát huy tinh thần đoàn kết quốc tế
Đáp án: D
Giải thích:
Trong cách mạng tháng Tám năm 1945 ta đã chớp thời cơ Nhật đầu hàng Đông minh để tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đây là bài học kinh nghiệm có thể áp dụng trong thời kì hiện nay.
Đáp án A
Thành quả lớn nhất mà cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 mang lại cho Việt Nam là độc lập dân tộc và chính quyền nhà nước. Do đó, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam sau khi cách mạng tháng Tám là xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, độc lập dân tộc