Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Vôn-gang A-ma-đơ Mô-da là nhạc sĩ thiên tài, một ngôi sao chói lọi, một thần đồng trong lịch sử âm nhạc thế giới. Tất cả những từ đẹp đẽ nhất để nói về tài năng âm nhạc đều xứng đáng có thể dành cho ông. Mô-da được mệnh danh là “Mặt trời âm nhạc” do tài năng kiệt xuất, độc nhất vô nhị, cũng như tính chất âm nhạc rất trong trẻo, rực rỡ, tươi sáng. Ngay từ khi còn sống, cuộc đời của Mô-da đã có nhiều chi tiết đặc biệt. Vì thế, theo dòng thời gian, cuộc đời ông được tô điểm bằng nhiều câu chuyện mang nét huyền thoại, không rõ hư hay thực.
Mô-da sinh ngày 27/1/1756 trong một gia đình âm nhạc ở thị trấn San-buốc, nước Áo. Cha là Lê-ô-pôn, một nghệ sĩ chơi đàn violon có tiếng trong dàn nhạc của nhà quí tộc ở San-buốc, ông cũng là người dạy dỗ âm nhạc cho Mô-da. Gia đình Mô-da có 2 người con, đó là Nan-nếc, chị gái và Mô-da. Hai chị em cùng tỏ ra có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc. Nan-nếc nhiều hơn em trai năm tuổi, từ khi 4 tuổi, cô đã có biểu hiện của một tài năng âm nhạc, chỉ sau một năm luyện tập đã đánh được những bản nhạc khá hóc búa. Tuy nhiên, tài năng của người em còn vượt xa hơn. Sở dĩ, người ta gọi Mô-da là thần đồng âm nhạc vì tài năng của ông đặc biệt và được bộc lộ từ lúc còn rất nhỏ.
Một buổi sáng mùa thu năm 1758, bà Anna Maria- mẹ của Môda ở nhà cùng cậu con trai, ông Lê-ô-pôn đã đi làm, còn Nan-nếc thì đi học. Như lệ thường, bà ngồi vào đàn clavơxanh (đàn piano cổ) và bắt đầu chơi những bản nhạc mà hàng ngày Nan-nếc vẫn luyện tập. Trước đó, bà cẩn thận đặt Mô-da ngồi trên chiếc ghế, phía bên phải cây đàn, để vừa đánh đàn vừa dễ dàng quay sang nói chuyện và trông nom cậu bé.
Trong khi mẹ chơi đàn, Mô-da rất chăm chú nghe và quan sát những ngón tay đang di chuyển của bà mẹ, có vẻ như những bản nhạc đang thu hút được sự chú ý của cậu. Không lâu, sau khi đã chơi một số bản nhạc ngắn, bà Maria đứng lên, đi vào bếp để lấy một cốc nước. Trước khi đi, bà đẩy chiếc ghế mà Mô-da đang ngồi sát lại cây đàn, cho cậu bé bám vào thành đàn đề phòng cậu có thể bị ngã.
Khi đang rót nước vào cốc, bà Maria chợt nghe thấy bản nhạc vừa chơi vang lên từ phòng khách, thầm ngạc nhiên nghĩ rằng cô con gái hôm nay lại đi học về sớm, bà hỏi vọng ra ngoài phòng khách: “ Sao về học sớm vậy, Nan-nếc ? ”. Không có tiếng trả lời, bà liền nghiêng người nhìn ra phía ngoài. Bỗng nhiên bà sững người, suýt đánh rơi cả chiếc cốc trên tay, khi nhìn thấy cậu con trai bé nhỏ của mình đang mải miết đánh lại bản nhạc mà lúc trước bà đã tập. Tuy mức độ thuần thục và tốc độ của bản nhạc chưa thật chính xác, nhưng đó chính là bản nhạc mà bà vừa chơi. Không tin được ở mắt mình, sau giây lát định thần, bà Maria tiến gần lại cây đàn, nơi cậu bé vẫn đang say sưa chơi nhạc, bà hỏi:
-Con trai của mẹ, tại sao con đánh được bài này ? Chị Nan-nec đã dạy con từ khi nào vậy ?
-Không, chị đã dạy con đâu, vừa nghe mẹ chơi đàn, con chỉ đánh lại thôi. Bà mẹ càng ngạc nhiên :
-Con nói gì? Vừa nghe mẹ chơi mà con đã đánh được như vậy sao? Không thể tin nổi ? Thấy cậu con trai tỏ vẻ chú ý và rất thích thú với cây đàn, bà Maria hỏi:
-Nếu con muốn tiếp tục được đánh đàn, hãy nghe mẹ chơi đoạn nhạc ngắn này, rồi con thử đánh lại xem.
Tay trái giữ vai Mô-da, còn tay phải bà chạy trên những phím đàn một giai điệu ngắn. Ngay khi giai điệu vừa kết thúc, bàn tay bé xíu của cậu bé đặt lên phím đàn, không hề có chút ngập ngừng, cậu đánh lại giai điệu vừa xuất hiện. Cậu chơi chính xác cứ như đã từng tập nó nhiều lần. Bà Maria lại chuyển sang một giai điệu khác, lần này đó là một câu nhạc do bà tự nghĩ ra, Mô-da cũng đánh lại chính xác. Rồi những câu tiếp theo, ngày càng trở nên dài hơn, khó nhớ hơn, cậu bé cũng đánh lại được gần như là hoàn hảo. Đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, càng thử, bà Maria càng thấy được khả năng đặc biệt của con trai mình.
Đến trưa, khi ông Lê-ô-pôn về nhà, việc đầu tiên, bà Maria gọi ông đến bên cây đàn để cho ông chứng kiến khả năng đặc biệt của cậu con trai. Bây giờ đến lượt ông bố ngỡ ngàng khi thấy con trai mình, mọi ngày chỉ bình thường như những cậu bé khác, bỗng nhiên có những biểu hiện đặc biệt của một thiên tài âm nhạc. Sau khi kiểm tra kỹ năng khiếu của con trai bằng những đoạn nhạc khá hóc búa, ông tự hào nói với vợ: “ Đó là một tài năng đặc biệt, rồi em xem, mai đây, mọi người sẽ nhắc đến thằng bé nhà mình nhiều đấy”.
Điều đó đã sớm xảy ra, chỉ ít lâu sau, dưới sự hướng dẫn của ông Lê-ô-pôn, hai đứa con của ông đã cùng nhau luyện tập đồng thời hai loại nhạc cụ là violon và clavơxanh, chúng có thể biểu diễn độc tấu cũng như hoà tấu một cách khá thuần thục. Trong khi người khác phải mất nhiều năm mới có thể học để hoàn thiện kỹ thuật chơi một trong hai nhạc cụ này, thì chỉ trong hai năm, những đứa con ông đã nắm được kỹ thuật trình diễn thành thạo, đặc biệt là Mô-da. Cậu vừa có kỹ thuật tốt, có nhạc cảm và tỏ ra có tâm lý vững vàng trong khi biểu diễn. Chính vì thế Mô-da thường được ông Lê-ô-pôn giới thiệu trong các cuộc trình diễn âm nhạc ở San-buốc, sau đó là thành phố Viên- thủ đô nước Áo, và khắp các thành phố lớn của Châu Âu.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Một buổi sáng trước khi đi làm, ông Lê-ô-pôn gọi Mô-da đến và trao cho cậu một bản nhạc. Ông muốn con trai mang bản nhạc tới nhà ông chủ rạp hát, đó là món quà của ông Lê-ô-pôn tặng con gái ông chủ rạp hát nhân dịp sinh nhật cô bé.
Mô-da hiếm khi được ra khỏi nhà một mình, mọi cảnh vật trên đường đều rất mới lạ với cậu bé. Trên đường tới nhà ông chủ rạp hát phải qua dòng kênh nhỏ, Mô-da dừng lại trên thành cầu và ngắm nhìn không chán mắt cảnh những chiếc thuyền trôi dưới dòng kênh. Bỗng làn gió mạnh thổi tới, bản nhạc rời khỏi tay Mô-da và bay nhanh xuống dòng kênh.
Mô-da buồn bã quay về nhà, cậu chưa biết sẽ nói gì với cha về chuyện vừa xảy ra. Ông Lê-ô-pôn đi làm chưa về. Mô-da ngồi vào đàn và chơi những khúc nhạc ngắn, trong đầu cậu chợt loé lên một suy nghĩ. Mô-da liền sáng tác một bản nhạc và mang nó đến nhà ông chủ rạp hát, thay cho bản nhạc đã rơi xuống dòng nước.
Hôm sau, ông Lê-ô-pôn tới chơi nhà ông chủ rạp. Trước khách mời, ông này tươi cười nói với ông Lê-ô-pôn:
- Bản nhạc của bác hay tuyệt. Bác có muốn nghe lại không?
Lê-ô-pôn nhã nhặn cảm ơn. Con gái ông chủ rạp đàn những nốt nhạc đầu tiên. Ông Lê-ô-pôn thoáng giật mình vì thấy đó không phải là khúc nhạc của mình. Ông tiến lại gần cây đàn và nhìn vào bản nhạc. Quả thật như vậy, đó không phải là bản nhạc của ông sáng tác, ông nhận ra những nốt nhạc được viết bởi cậu con trai mình.
Bản nhạc kết thúc, những tiếng vỗ tay vang lên. Ông chủ rạp hồ hởi nói:
- Đó là một khúc nhạc thật trong sáng và đáng yêu. Tôi và con gái rất hài lòng khi nhận được món quà này của bác.
Khi về tới nhà, ông Lê-ô-pôn gọi Mô-da tới và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Cậu bé kể lại câu chuyện về bản nhạc rơi xuống dòng nước. Ông Lê-ô-pôn không mắng cậu bé, ông chỉ xoa đầu con trai và nói:
- Con đã viết được khúc nhạc thật hay, cha tự hào vì điều đó. Cha tin sau này con sẽ trở thành một nhạc sĩ lớn.
Lời tiên đoán của ông Lê-ô-pôn đã sớm trở thành sự thật. Ít năm sau, Mô-da đã trở thành nhạc sĩ nổi tiếng khắp châu Âu và thế giới.
Câu chuyện trên xảy ra khi Mô-da mới 6 tuổi.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Vào thời kỳ đó, thành Viên là nơi tập trung của những nhạc sĩ giỏi nhất thế giới, họ tìm đến đây để học tập, sáng tác âm nhạc và muốn khẳng định khả năng, danh tiếng của mình. Vì thế Viên được coi là thủ đô của nền âm nhạc Châu Âu, ở đây người dân rất yêu âm nhạc, thành phố có nhiều nhà hát, nhiều dàn nhạc xuất sắc và các nhạc sĩ tài ba. Tuy nhiên nhờ tiếng tăm nổi như cồn của thần đồng âm nhạc San-buốc, khi mới sáu tuổi, Mô-da đã cùng với chị gái được biểu diễn âm nhạc trong hoàng cung của nước Áo. Buổi diễn này có mặt rất đông cận thần, đại sứ các nước, có hoàng tử và công chúa tham dự và đặc biệt là sự có mặt của nữ hoàng của nước Áo thời bấy giờ là Ma-ri-a Tê-rê-da. Phần đầu của buổi hoà nhạc do hai chị em cùng chơi, hoà tấu bốn tay trên cây đàn clavơxanh, trình độ biểu diễn của hai chị em đã đạt tới trình độ xuất sắc và nhận được sự tán thưởng rất nhiệt tình của giới thượng lưu nước. Điều này không hề đơn giản, vì những người ở đó đều có sự am hiểu về âm nhạc. Phần tiếp theo, Mô-da biểu diễn một mình những khúc nhạc tuỳ hứng mà cậu ưa thích. Những âm thanh vang lên, một làn âm thanh hoà quyện nhau như một dòng suối ùa ra tưởng chừng như bất tận, cung điện như tràn ngập ánh sáng, tràn ngập hương thơm và màu sắc của vô vàn loài hoa trên thế gian.
Khi tiếng đàn cuối cùng của Mô-da vừa tắt, nữ hoàng Tê-rê-da giơ cao hai bàn tay lên, cả cung điện như thừa lệnh của nữ hoàng, cùng rền lên những đợt vỗ tay tưng bừng, những lời ngợi khen ùa ra, tưởng như không thể dứt. Một nhạc sĩ già, vóc người nhỏ nhắn, ăn mặc trang trọng, bước đến gần cậu, đặt tay lên vai, nhìn thật lâu vào đôi mắt đang tập trung và gương mặt hơi tái đi vì cảm xúc của cậu bé. Ông khẽ kêu lên:
- Không thể ngờ được ! Thật là siêu phàm !
Nữ hoàng quay lại phía ông, nói gần như đáp lại lời ông:
- Đúng thế, ông Hay-đơn ! Đây thật sự là một hiện tượng siêu phàm !
Người đàn ông đứng đó, chính là nhạc sĩ Hay-đơn nổi tiếng và vĩ đại của thành Viên, Ông cúi đầu, nói với Mô-da bằng một giọng trầm, như nói với một người bạn tâm tình:
- Ta ngày xưa cũng đã sáng tác âm nhạc từ năm lên sáu đấy, cháu ạ. Nhưng ta khổ cực lắm ! Ta là đứa trẻ mồ côi, cháu hiểu không, tức là không còn cha mẹ nữa ấy mà ! Cháu giỏi lắm, nhất định cháu còn có khả năng tiến rất xa.
Đúng lúc đó, hoàng tử Giô-dép, là con trai cả của Tê-rê-da, một người cũng có nhiều năm học tập âm nhạc, tiến lại trao cho Mô-da một cây violon và nói giọng thách thức:
- Cậu bé quê mùa, còn đủ sức chơi thêm một bản nữa không ?
Mô-da nhìn thẳng vào mắt Giô-dép và đỡ lấy cây đàn. Sau khi biểu diễn nhiều, cậu đã rất mệt. Lướt nhìn quanh như muốn tìm một hình ảnh nào đó quen thuộc, ánh mắt cậu dừng lại trước công chúa út đang ngồi ngoan ngoãn trên chiếc đệm gần nữ hoàng. Cô bé mặc áo xa-tanh mầu hồng, thêu thùa rất đẹp. Cô có đôi mắt đầy thiện cảm, đang mở to nhìn Mô-da, trông cô giống như Lu-i-da, người bạn thân thiết nhất của Mô-da đang sống ở San-buốc. Cảm giác đó làm Mô-da vui hẳn lên, cậu nhắm mắt lại, nghiêng người, đưa chiếc ác-sê lướt trên dây đàn, một dòng âm thanh óng mượt và trong vắt như từ trên trời buông xuống, trong giây lát, căn phòng bỗng trở nên lặng tờ. Mô-da đã ứng tác bản nhạc thật hay, thật bất ngờ mà không hề chuẩn bị trước. Khi tiếng nhạc dứt, cậu phải nghiêng mình đáp lễ đến bốn năm lần mà tiếng hoan hô vẫn vang lên. Quay người lại phía nữ hoàng định chào lần cuối, bỗng nhiên, Mô-da thấy choáng váng, mọi vật chao đảo, cậu bước thêm một bước và ngã nhào xuống tấm thảm trên sàn.
Viên quan hầu đứng ở gần cửa kêu lên, vội bước tới, nhưng công chúa út đã nhanh hơn, cô vụt nhảy khỏi chỗ ngồi, chạy lại đỡ Mô-da dậy. Mô-da ngẩng đầu lên và nhìn thấy ánh mắt đầy ân cần, trìu mến đang nhìn mình tha thiết.
- Lu-i-da !- Mô-da buột miệng kêu lên.
- Không phải Lu-i-da đâu ! Tôi là Tô-ni ! Mà thôi, cậu đừng xấu hổ nhé ! Cái sàn này trơn lắm. Mọi ngày chơi ở đây, tôi vẫn bị ngã luôn ấy mà !
Những lời an ủi giản dị, thân tình ấy làm Mô-da muốn khóc lên vì cảm động. Cậu lập cập đứng thẳng dậy, không biết nói gì, nước mắt cứ định trào ra. Công chúa nắm tay Mô-da dắt cậu lại gần chiếc ghế của Tê-rê-da, nữ hoàng hỏi:
- Con có đau không ?
Mô-da nhìn công chúa Tô-ni với ánh mắt biết ơn, trả lời:
- Con không sao ạ ! Công chúa thật tốt bụng ! Khi lớn lên, lệnh bà cho cô ấy kết bạn với con được không ạ ? Con thích sẽ được chơi thân với cô ấy !
Tô-ni nói ngay:
- Sao lại không ? Thưa mẫu hậu, con cũng thích được chơi với cậu nhạc sĩ này. Mẫu hậu sẽ đồng ý chứ ?
Nữ hoàng Tê-rê-da trong lúc đang có tâm trạng phấn chấn liền cười và nói vui:
- Để sau này ta nhận nó vào cung dạy nhạc cho con nhé ! Sẽ tha hồ mà kết thân với nhau !
Tức thì, công chúa Tô-ni vòng tay ôm hôn mẹ, trông cô bé có vẻ rất sung sướng, còn Mô-da thì đứng ngây người không biết sao.
Nhưng về sau, tình bạn ấy chẳng bao giờ diễn ra, Mô-da không thể hình dung nổi, công chúa Tô-ni xinh đẹp và tốt bụng ngày ấy, sau này lại trở thành một hoàng hậu hết sức thâm hiểm của nước Pháp. Công chúa Tô-ni lớn lên, trở thành hoàng hậu Ma-ri Ăng-toan-nét, một người có nhiều tham vọng, đầy quyền hành và những mưu mô ghê gớm. Hai năm sau khi Mô-da qua đời, hoàng hậu Ma-ri Ăng-toan-nét bị Toà án Cách mạng Pháp xử tử vào năm 1793, cùng với chồng là nhà vua Lu-y thứ 16.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Những ngày tháng Hai năm 1790 ở Viên rất lạnh giá. Gió rét căm căm. Buổi tối, một làn sương mỏng bao trùm lên thành phố, càng tăng vẻ u ám. Một cỗ xe ngựa mang biểu trưng hoàng gia nước Áo dừng lại trước cửa nhà Mô-da, trong xe không thắp đèn, hai vị quan hầu của hoàng cung vội vã bước xuống, chạy vội vào phòng Mô-da, gõ cửa. Mô-da đang ngồi sáng tác bên cây đàn dương cầm, một ngọn nến lớn toả sáng trước mặt.
-Thưa nhạc sư- Viên quan hầu nói- Thánh thượng mệt nặng, Người sai chúng tôi đến triệu ngài, xin hãy đi ngay cùng chúng tôi.
Mô-da ngạc nhiên đứng dậy, vội vàng mặc áo khoác, trở vào dặn vợ- Công-xtăng mấy câu, rồi bước ra xe. Anh được đưa tới Suên-brun, lâu đài của hoàng gia nước Áo.
Đêm lạnh lẽo mù mịt. Lối sỏi quen thuộc như đưa anh trở về quá khứ của mình. Lòng buồn vui lẫn lộn, xen cả chút mệt mỏi, lo âu. Giô-dép cần gì đến anh, một nhạc sĩ nghèo nàn, quẫn bách, trong đêm giá rét buồn bã này ?
Mô-da được đưa tới một căn phòng lớn, có thắp những ngọn nến to. Một chiếc giường rộng trải đệm màu trắng, trên đó là một người đàn ông khổ người to lớn nhưng gầy guộc, khuôn mặt lúc thì đỏ vì sốt cao, lúc lại tái vì những cơn đau. Mấy vị ngự y chăm sóc sức khoẻ cho nhà vua, đang ngồi trên những chiếc ghế nhỏ ở một góc, thì thầm trao đổi gì với nhau. Thấy Mô-da bước vào, họ đứng dậy chào. Một người đến bên hoàng đế, thông báo, Mô-da được lệnh cho tiến lại gần.
Hướng về phía Mô-da, vua Giô-dép nói thều thào:
- Ta muốn anh đánh cho ta nghe những bản nhạc của anh, bản nhạc nào thật ấm áp, yêu đời, bởi vì lúc này, ta đang phải đơn độc chiến đấu với thần chết !
Mô-da cúi thấp người, tỏ ý tuân lệnh, những người hầu cận đẩy chiếc đàn piano vào phòng. Ngồi xuống ghế, anh đặt tay lên phím đàn, nhớ lại khúc nhạc tuổi thơ ấu mình hay dạo. Ngẩng mặt lên, anh thấy những bức chân dung rất lớn treo trên tường. Có cả chân dung nữ hoàng Tê-rê-da và công chúa út Tô-ni thời con gái. Anh bỗng quên đi không khí bệnh tật xung quanh, vẻ mặt khắc khổ của nhà vua, quên đi những ánh nến lung linh như ma quái trên tường, quên đi cả bao điều cay cực, bất công mà đời anh đã phải gánh chịu. Anh chìm vào khúc nhạc tuyệt vời của mình. Âm thanh tràn khắp phòng như những tia lửa rực sáng, ấm áp. Khúc nhạc tươi rói, mạnh mẽ, tuôn trào từ trong tâm hồn, lướt trên những ngón tay, chứa đầy sức sống tuổi thanh xuân. Mô-da như đang nhìn thấy mùa xuân đã xa rồi ở Viên, hoa táo và hoa mận nở trắng trong các khu vườn xanh mát, màu nắng mai trên những ngọn tùng cao óng ánh, như những ngọn tháp nhọn dát đầy vàng. Anh nhớ lại tuổi thơ kỳ diệu của mình, một thần đồng âm nhạc, khi ấy Giô-dép đang còn là một thái tử đầy hiếu thắng, đã thách thức đưa cho anh cây đàn violon để thử tài. Anh đã thắng cuộc, nhưng rồi chóng mặt ngã nhào xuống thảm, và cô bé Tô-ni dịu dàng hồi ấy chưa là hoàng hậu nước Pháp, đã chạy đến nâng anh dậy. Trí tưởng tượng và âm nhạc đưa anh đi mãi. Mô-da thấy lại mẹ anh, vẻ mặt hiền hậu, thường thích ủ tay cho con bằng những củ khoai tây nướng nóng, trước khi anh dạo đàn. Anh thấy lại chị Nan-nếc, hồi đó còn xinh đẹp, thông minh, còn tài năng biết bao nhiêu ! Và ông bố anh, ngày ấy đang tràn đầy nghị lực, vui vẻ tự tin, dắt tay anh, đưa anh đi tới những ngả đường rộng mở trước ngưỡng cửa cuộc đời.
Mô-da chợt choàng tỉnh khi nghe tiếng thở mạnh của vua Giô-dép. Anh quay sang và nhìn thấy những giọt nước mắt đang lăn trên khuôn mặt gầy guộc của đức vua.
- Hãy dừng lại, Mô-da, ta xin cảm ơn anh- Nhà vua nói chậm rãi, nhưng rõ ràng, ngừng một lát, ông nói tiếp- Anh là người đã biết sống xứng đáng, vì cái đẹp của cuộc đời ! Còn ta, ta chỉ biết sống vì trật tự của nó ! Ta đã làm hết sức, nhưng tới phút này, trước khi nằm xuống, ta cũng chưa rõ đã đạt tới mục đích hay chưa ? Ta có tất cả, quyền lực, triều đình, quân đội, đất đai. Còn anh, anh có trái tim và đôi tay như bao người khác. Nhưng biết đâu, những thế kỷ sau, dân tộc áo sẽ đánh giá anh hơn cả ta ! Ta chưa bao giờ có cảm giác nhỏ bé trước quyền lực, những có những giây phút, ta thấy mình thật nhỏ bé trước cái đẹp vĩnh cửu của cuộc đời.
Mô-da giữ yên đôi tay trên phím đàn, xung quanh là một sự im lặng thiêng liêng. Anh hiểu là nhà vua đang thốt ra những lời tự thú của một người đang hấp hối, không còn là lời nói của một ông vua, với kẻ thần dân nghèo hèn. Trong thâm tâm anh vẫn kính trọng Giô-dép, đó là một ông vua có ý chí, có hiểu biết và khao khát làm được những công việc vĩ đại. Ông muốn trở thành minh quân, những có lẽ đã không đạt được. Hơn bao giờ hết, anh cảm thấy buồn rầu sâu sắc, thậm chí còn thương hại ông ta, mặc dù đối với anh, đó là con người đang có địa vị cao sang tột đỉnh.
Nhà vua Giô-dép qua đời ngày 20/2/1790. Những lời nói của Giô-dép ngày ấy, đến nay đã trở thành sự thật, lịch sử đánh giá rất cao vai trò của Mô-da. Mô-da là con người của cả nhân loại, trong khi Giô-dép chỉ là một ông vua của nước Áo.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Vào một đêm tháng Năm, năm 1791, có một cơn mưa giông dữ dội đổ xuống thành Viên. Ngôi nhà của Mô-da chìm trong im lặng khi mọi người đều đã đi ngủ, anh bước xuống phòng khách để tắt ngọn nến cuối cùng. Chợt nghe thấy tiếng gõ cửa khá mạnh, Mô-da thầm ngạc nhiên vì không hiểu trong đêm mưa to, gió lớn lại rất khuya khuắt như thế này, người nào có việc gì mà tìm đến anh. Dừng ở giữa phòng, nghe tiếng gõ vẫn vang lên, Mô-da do dự bước đến gần cánh cửa, tay cầm ngọn nến, anh cất tiếng:
- Ai thế ?
Lẫn trong tiếng mưa rơi, Mô-da vẫn nghe rõ tiếng người rành rọt:
- Xin hãy mở cửa ? Tôi muốn gặp ngài Mô-da.
- Tôi đây, nhưng xin ông đi cho, đã khuya rồi lắm. Nếu có việc gì, ngày mai mời ông quay lại.
- Thưa ngài, việc của tôi rất gấp, chỉ xin gặp ngài ít phút thôi, tôi hứa sẽ không dám làm phiền ngài lâu.
Mô-da rất do dự những nghe lời nói khẩn thiết của người lạ, anh kéo then cài, hé cánh cửa, nhìn ra bên ngoài. Đúng lúc ấy, một ánh chớp loé lên, làm Mô-da nhìn rõ hình dáng người lạ mặt, khiến anh rùng mình lùi lại. Đó là một người cao lớn, chắc phải là đàn ông, ông ta đội chiếc mũ che mưa rộng vành, mặc trang phục toàn bộ bằng vải mầu đen. Ghê gớm hơn, nhờ ngọn nến và ánh chớp loé sáng, Mô-da còn thấy ông ta che mặt bằng chiếc khăn đen, dáng vẻ thật lạ lùng, đặc biệt. Định khép cửa lại, nhưng không kịp, người lạ mặt đã giơ tay giữ lấy cánh cửa, giọng nói của ông ta trầm xuống:
- Thưa ngài, xin đừng sợ, tôi có lí do để mang trang phục như thế này. Nhưng đảm bảo với ngài, tôi sẽ không làm điều gì khiến ngài phải phật ý. Hãy để tôi vào phòng, xin ngài hãy nghe tôi nói.
Nghe những lời này, Mô-da đã bình tâm lại đôi chút, khép cánh cửa lại. Mô-da quay vào phòng và đối mặt với con người lạ lùng đó.
- Tôi xin được trao đổi với ngài câu chuyện của tôi trong phòng riêng được không ? Tôi muốn được giữ kín chuyện này.
- Tôi không có phòng riêng, vả lại mọi người trong nhà đã ngủ hết rồi, có chuyện gì, xin ông nói ngay cho- Ngập ngừng rồi Mô-da hỏi- Ông có muốn ngồi không ?
Người lạ mặt quay người nhìn xung quanh, những giọt nước mưa từ chiếc mũ rộng vành của ông ta bắn ra thành một vòng. Tiến lại gần hơn một bước, ông ta nói khẽ :
- Tôi xin được vào ngay câu chuyện của tôi.- Dừng lại, ông ta nói tiếp - Để giữ bí mật cho việc này, xin ngài đừng để ý đến cách ăn mặc của tôi. Thưa nhạc sĩ, tôi cũng làm nghề sáng tác âm nhạc, tôi làm việc đó cho một nhà thờ ở cách xa vùng này. Thưa ngài, tôi có một gia tài lớn, nhưng tôi mới mắc phải một căn bệnh nguy hiểm, căn bệnh đã đến giai đoạn cuối và thời đại này chưa có cách chữa. Bác sĩ nói, có thể tôi chỉ sống được ít ngày nữa. Vậy là tôi sẽ chết mà không để lại dấu ấn gì cho cuộc đời, những bản nhạc tôi viết, chưa bao giờ gây được tiếng vang nào cả. Xin hãy nhận lời cho tôi việc này. Hãy viết một bản nhạc và bán nó cho tôi, tôi biết ngài đang rất khó khăn, nhưng với số tiền của tôi, ngài sẽ vượt qua được những khó khăn đó.
- Tại sao ông lại chọn tôi ? Ông cần bản nhạc như thế nào ?
- Bởi vì ngài đang là người giỏi nhất ? Tôi cần một Khúc cầu hồn (Requiem). Hãy viết một bản cầu hồn thật đặc biệt, có 12 chương. Làm nhanh cho tôi, đừng để bất kỳ ai biết và ngài sẽ nhận được những gì xứng đáng.
Trên bàn tay đi găng tay mẫu đen của người đàn ông kia, từ lúc nào đã xuất hiện một túi tiền, bước thêm vài bước, ông ta đặt nó lên bàn. Rồi ông ta đi ra cửa, quay lại, nói bằng giọng nhẹ nhàng, nhưng rất rõ:
- Xin hãy giữ kín cho. Một bản cầu hồn có 12 chương. Ông ta kéo cửa và bước vào màn đêm.
Gió lạnh thổi ùa vào, Mô-da vội bước lại, đóng cánh cửa, anh nhìn ra ngoài, thấy cỗ xe ngựa đang lăn bánh rất nhanh giữa trời mưa, anh ngạc nhiên vì chẳng nghe thấy cả tiếng vó ngựa.
Mô-da quay vào và ngồi xuống ghế, im lặng hồi lâu, anh bỗng cảm thấy mệt mỏi rã rời, mọi việc diễn ra như một giấc mơ, Mô-da thầm nghĩ. Nhưng nhìn thấy túi tiền nằm nghiêng trên bàn, anh thở dài, vì hiểu rằng đó không phải là giấc mơ mà là sự thật.
Với khoản tiền 50 đuy-ca đó, gia đình Mô-da đã có điều kiện trang trải, mua sắm những vật dụng cần thiết. Nhưng kể từ hôm đó, hình ảnh về con người lạ mặt và yêu cầu lạ lùng của ông ta cứ ám ảnh Mô-da mãi. Vội vàng hoàn thành xong những bản nhạc khác đang viết dở, Mô-da suy nghĩ và bắt đầu viết khúc nhạc cầu hồn, với cảm giác như mình đang mắc vào một món nợ rất lớn. Hình ảnh người đàn ông lạ mặt thường xuyên xuất hiện trong tâm trí của Mô-da và anh liên tưởng đến ông ta giống như thần chết đang đến đòi nợ mình. Rồi có những khi anh tự hỏi, mình đang viết khúc cầu hồn này cho ai, cho con người lạ lùng đó hay để cầu hồn cho chính mình. Sức khoẻ của anh trước đây đã rất yếu, lại càng suy sụp đi từ đó.
Người lạ mặt còn quay lại thêm hai lần nữa, vẫn vào những lúc đêm rất khuya, và vẫn với bộ trang phục kỳ quái của mình. Ông ta tỏ vẻ hài lòng với những ý tưởng và những khúc nhạc Mô-da đã viết xong, nhưng vẫn hối thúc anh phải làm nhanh hơn nữa. Mô-da nhận được số tiền lớn hơn so với lần trước, và nhờ thế, vợ anh là Công-xtăng có điều kiện đi chữa bệnh.
Những ngày cuối đời, Mô-da đã làm việc với mức độ phi thường, anh dồn sức vào việc hoàn thành bản cầu hồn, anh muốn đó sẽ là một bản nhạc vĩ đại. Tuy mang tính chất cầu hồn, nhưng bản nhạc phải toát lên tấm lòng yêu cuộc sống, yêu con người bi thiết, bản nhạc mà Mô-da có dự cảm là đang đang dành cho chính bản thân mình.
Đêm 19/11/1791, khi Mô-da mới chỉ viết hết chương thứ tám trong bản cầu hồn, một cơn sốt nặng ập đến, tay và chân anh cứng lại, cử động rất khó khăn, nhưng trí tuệ vẫn rất minh mẫn. Ý nghĩ đau khổ và bất lực vì phải bỏ lại trên đời một gia đình nghèo túng, bơ vơ, làm Mô-da day dứt không nguôi.
Ngày 3/12, biết mình đã đi đến chặng cuối của cuộc đời, nằm trên giường bệnh trong nhà, Mô-da cho gọi Đuy-xmay-ê là người học trò thông minh và đáng tin cậy nhất đến. Đưa Đuy-xmay-ê tập bản thảo khúc cầu hồn, anh đã kể lại cho người học trò nghe toàn bộ câu chuyện về sự ra đời của bản nhạc này. Mô-da nhờ Đuy-xmay-ê viết nốt bốn chương còn lại để hoàn tất bản nhạc, anh hướng dẫn Đuy-xmay-ê viết theo phác thảo và ý đồ của mình và dặn, nếu người lạ mặt đó tìm đến, hãy đưa trả bản nhạc và không nhận thêm tiền của ông ta nữa.
Mô-da qua đời vào ngày 5/12/1791. Nhớ lời thầy dặn, sau đó Đuy-xmay-ê đã viết tiếp bốn chương còn lại của bản nhạc này một cách khá xuất sắc. Giữ bản nhạc này một thời gian, Đuy-xmay-ê dặn vợ Mô-da rằng, nếu thấy người đàn ông nào đến đòi bản cầu hồn, hãy chỉ ông ta tới gặp Đuy-xmay-ê. Chờ đợi mãi, nhưng con người bí ẩn đó đã không xuất hiện, có thể ông ta sợ câu chuyện bị vỡ lở, hoặc có thể ông ta đã chết trước Mô-da. Cuối cùng, Đuy-xmay-ê đưa trả bản nhạc cho vợ Mô-da là Công-xtăng, và kể lại tất cả. Về sau, bản nhạc được gửi tới nhà in và vẫn giữ tên tác giả là Mô-da. Câu chuyện từ đó lan rộng ra và người ta thường đặt câu hỏi. Trong cuộc đời mình, Mô-da đã bán bản nhạc nào chưa, hay Khúc cầu hồn là bản duy nhất Mô-da định bán và chưa thực hiện được. Dù sao, bản Khúc cầu hồn vẫn là sáng tác cuối cùng của nhạc sĩ vĩ đại, và nó xứng đáng là một kiệt tác trong nền âm nhạc thế giới.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Đến những phút cuối trong đời, Mô-da vẫn khăng khăng từ chối không để thầy tu đến rửa tội. Trái lại ông chỉ ao ước: “ Trời ơi ! Giá có ai kịp đánh cho tôi được nghe một đoạn nhạc trong vở Cây sáo thần của tôi, thì hay quá ! “
Nhạc trưởng Rô-xne là bạn của Mô-da, đêm ấy, mới ở buổi biểu diễn vở nhạc kịch Cây sáo thần, từ nhà hát trở về, rẽ vào thăm Mô-da và kể cho ông nghe kết quả của đêm biểu diễn. Mô-da nhắc lại đề nghị và Rô-xne ngồi ngay xuống chiếc piano, đánh cho ông nghe bản tình ca của chàng Pa-pa-ghê-nô, chàng nông dân hiền lành và vui tính. Tiếng đàn vang lên, những âm thanh ríu rít, vui vẻ như nhảy nhót trong thinh không, và Mô-da hài lòng thiếp đi trong nụ cười. Đêm ấy, ông mê sảng trong cơn sốt cao và không tỉnh lại được nữa. Lúc mười hai giờ đêm, khi tiếng chuông nhà thờ Xanh Ê-chiên vẳng lại, ông bừng tỉnh, mở mắt, nhưng cái nhìn đã trở nên trống rỗng, như nhìn vào cõi hư vô. Ông nhắm mắt lại như ngủ, yên lặng, không kêu rên một lời, và lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng vào rạng sáng ngày 5/12/1791.
Cái chết của Mô-da là một tổn thất nặng nề với nền âm nhạc của nước Áo và với thành Viên, nhạc sĩ vĩ đại này qua đời khi đang trong giai đoạn sung sức nhất của sự nghiệp sáng tác âm nhạc. Tuy nhiên, do không cộng tác và có những bất đồng với giáo hội lúc còn sống, vị tổng giám mục nhất định không cho phép chôn thi hài của Mô-da ở nghĩa trang chính trong thành phố. Gia đình buộc phải an táng thi hài của ông ở nghĩa trang Xanh Mac, một nghĩa trang dành cho người nghèo, nôi chôn cất những kẻ lang thang, cơ nhỡ. Đó lại là một sự bất công nữa dành cho Mô-da, sau bao nhiêu điều tốt đẹp ông đã để lại cho cuộc sống.
Buổi chiều ngày 6/12, mây đen và giá lạnh bao phủ khắp bầu trời, không khí u tối và ảm đạm lạ lùng. Vì rất yếu, nên vợ Mô-da không thể đi đưa tang chồng. Bà phải nhờ những người bạn và học trò của Mô-da lo liệu giúp. Lúc đầu, khi đám tang rời khỏi ngôi nhà của Mô-da, chầm chậm đi trên các đường phố, có rất đông người đi theo linh cữu, họ muốn được tiễn biệt người nhạc sĩ tài năng nhất của thành Viên, con người mà họ mến mộ, yêu quí. Nhưng thời tiết hôm đó quá khắc nghiệt, trước khi cỗ xe bắt đầu chuyển bánh, bão tuyết đã nổi lên. Vì thế, cỗ xe tang do ngựa kéo, càng tiến về phía ngoại ô, số người đi theo ngày càng thưa dần. Khi chiếc xe vượt qua chiếc cầu, ranh giới giữa nội thành và ngoại thành, Đuy-xmay-ê và những học trò khác của Mô-da quay đầu nhìn lại, họ thấy số người đi theo chỉ còn rất ít. Sang tới ngoại ô, cỗ xe phải tiếp tục lăn bánh trên con đường lầy lội, gập ghềnh, hai bên đường chỉ có những cánh đồng hoang, hiu quạnh. Giông bão ở đây còn dữ dội hơn nhiều so với trong thành phố, tuyết bay mù mịt khắp nơi, đến nỗi chỉ đứng cách nhau vài mét đã không nhìn rõ mặt. Chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa là vào tới nghĩa trang, bỗng nhiên chiếc xe sa xuống vũng lầy, không thể đi tiếp được nữa. Người thì đẩy, người thì kéo, người thì thúc ngựa, nhưng đường quá trơn nên cỗ xe chẳng hề nhúc nhích. Có ai đó chợt nghĩ ra, đề nghị mọi người tạm tìm chỗ trú mưa, đợi mưa gió ngớt đi, sẽ mang thi hài của Mô-da vào trong nghĩa trang chôn cất.
Tất cả nhanh chóng tản ra tìm chỗ trú mưa, để lại cỗ xe nằm giữa đường, nhưng quanh đó chẳng có chỗ nào có thể dừng chân được. Trời bắt đầu sâm sẩm tối, tiếng gió rít và tiếng tru của những con chó hoang vẳng lại nghe ghê rợn, ngay cả những cái cây mà mọi người chạy đến để trú chân cũng bị vặn vẹo, nghiêng ngả. Không thể tiếp tục đứng như thế được nữa, họ bảo nhau chuyển thi hài Mô-da vào trong nghĩa trang chôn cất, để có thể sớm quay về thành phố. Mọi người cất tiếng gọi nhau và cùng chạy lại cỗ xe ngựa. Đến nơi, họ vô cùng ngạc nhiên vì không hiểu bằng cách nào, cỗ xe đã vượt qua vũng lầy và để tới cổng nghĩa trang, nhưng trên xe ngựa, thi hài của Mô-da không còn nữa. Chỉ thấy đôi ngựa đang dậm chân, vùng vẫy, có vẻ rất bồn chồn, sợ sệt. Những người phu đào huyệt hỏi nhau, xem ai mang quan tài vào nghĩa trang hay chưa. Nhưng tất cả cùng quả quyết, không ai làm việc đó, vả lại trong lúc mưa bão dữ dội như thế thì chẳng ai có thể làm nổi. Hai người học trò của Mô-da chạy vào trong nghĩa trang để tìm kiếm, sau ít phút họ quay ra và nói, không phát hiện ra điều gì trong đó.
Cuối cùng thì mọi người cũng chẳng muốn ở lại, để tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Họ giục nhau mau chóng quay trở về, giống như tháo chạy khỏi nơi mưa gió, quạnh hiu và bí ẩn này. Những ngày tiếp theo, bão tuyết và giông tố liên miên, chẳng ai lai vãng đến nghĩa địa nữa. ít lâu sau, vài học trò thân tín của Mô-da cùng vợ ông có quay lại nghĩa trang để tìm hiểu thêm, họ có hỏi những người phu đào huyệt, những tất cả đều lắc đầu, không thể giải thích được điều gì đã xảy ra.
Từ đó đến nay, đã có bao nhiêu cuộc tìm kiếm ngôi mộ của Mô-da, nhưng không đạt được kết quả. Thi hài của Mô-da có thể đã được trả về với đất, hoà lẫn với cát bụi, hoàn toàn vô danh, vô tăm tích, giống như bao nhiêu người chết nằm trong nghĩa địa này.
Sau này, khi tên tuổi Mô-da ngày càng trở nên nổi tiếng, tại nghĩa trang Xanh Mac, người ta đã xây dựng một ngôi mộ rất đẹp để tỏ lòng biết ơn nhạc sĩ tài năng này. Ngày ngày, những người từ khắp nơi trên thế giới đến đây, họ đặt lên mộ ông những bó hoa tươi thắm và cùng im lặng, như muốn để nghe thấy những điệu nhạc tuyệt vời của ông. Tuy nhiên, trong ngôi mộ trang trọng đó không có thi hài của Mô-da. Ngôi mộ đặc biệt đó cũng giống như bao nhiêu điều đặc biệt khác trong cuộc đời Mô-da, mãi nhắc nhở chúng ta không quên được một tài năng âm nhạc kiệt xuất trong lịch sử nhân loại.
1. Nhạc sĩ Phạm Tuyên đã sáng tác bài Như có bác trong ngày đại thắng trước khi miền Nam hoàn toàn giải phóng.
2.Đặc điểm chung nhất của hai nhạc khèn và sáo trúc là: ... Khác với sáo dọc, sáo ngang có một đầu được bịt kín bằng mấu gần lỗ thổi.
k cho mình nha
Đây là lời bài hát;
Ngày đầu tiên đi học
Mẹ dắt tay đến trường.
Em vừa đi vừa khóc.
Mẹ dỗ dành yêu thương.
Ngày đầu tiên đi học.
Em ướt mắt nhạt nhoà.
Cô vỗ về an ủi.
Chao ôi sao thiết tha.
Ngày đầu như thế đó,
Cô giáo như mẹ hiền
Em bây giờ cứ ngỡ
Cô giáo là cô tiên.
Ngày đầu tiên đi học
Mẹ dắt tay đến trường.
Em vừa đi vừa khóc.
Mẹ dỗ dành yêu thương.
Ngày đầu tiên đi học.
Em ướt mắt nhạt nhoà.
Cô vỗ về an ủi.
Chao ôi sao thiết tha.
Ngày đầu như thế đó,
Cô giáo như mẹ hiền
Em bây giờ cứ ngỡ
Cô giáo là cô tiên.
nhạc và lời: phạm tuyên
Đó chính là những lý do mà người ta gọi đàn piano là “ Ông hoàng của các loại nhạc cụ ” và luôn được chọn là đàn đệm cho những nhạc cụ độc tấu khác và đồng thời cũng có thể là cây đàn độc tấu đối thoại với cả dàn nhạc giao hưởng.