Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đoạn mở đầu bài Côn Sơn ca đem đến cho người đọc bao cảm nhận mới mẻ về tâm hồn thi sĩ của Ức Trai. Trong cảm xúc của ông, cảnh trí Côn Sơn hiện ra thật thơ mộng và lãng mạn: có tiếng suối chảy rì rầm, có đá rêu phơi êm ái, có rừng thông mọc rậm, dày, có rừng trúc xanh mát..., vừa có cái hoang dã của thiên nhiên, vừa có hơi ấm của cuộc sống đầy ắp tình người. Hơn nữa, trong con mắt thi nhân, thiên nhiên không chỉ là cảnh, mà đã trở thành nhà. Ngôi nhà thiên nhiên ấy thật đặc biệt: suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm giường, bóng tre trúc là nơi ngâm vịnh thơ ca. Thật là tuyệt thú! Và trong ngôi nhà thiên nhiên ấy, ông để tâm hồn mình giao hoà với cảnh và vẽ lại nó bằng một ngọn bút tài hoa.
Nên nên giá trị nghệ thuật của bài văn
Tả nhưng cảnh đệp mak Nguyễn Trãi nhìn thấy
Nên cảm nghỉ của em về bài văn, cảm nghĩ của tác giả
● Bằng vài nét phác họa, thi sĩ Nguyễn Trãi đã vẽ ra ngay trước mắt người đọc một bức tranh phong cảnh khoáng đạt, nên thơ và hữu tình.
● Cảnh tượng Côn Sơn: Có tiếng suối rì rầm, có đá rêu phơi, có thông vi vút, có trúc bóng râm.
● Chỉ qua vài nét vẽ, ta thấy cảnh Côn Sơn đẹp tựa như tranh, rất nên thơ, hữu tình và khoáng đạt.
● Cảnh như bao bọc lấy của con người trong sự êm đềm thanh tĩnh của nó. Dưới ngòi bút tinh tế của tác giả, bức tranh Côn Sơn nên thơ, nên hoạ, nên nhạc đã đề lại trong lòng người đọc dấu ấn khó phai mờ. Con người và thiên nhiên đã tạo nên một không gian rộng lớn bao trùm lên con người của tác giả.
Bài thơ có nhiều hình ảnh so sánh ví von: “tiếng suối” ví như “tiếng đàn cầm”, “đá rêu phơi” so sánh với “chiếu êm”.
Cách ví đó thể hiện sự tinh tế, sự liên tưởng - tưởng tượng độc đáo, lãng mạn tài hoa của nhà thơ. Qua đó thể hiện tâm hồn giao hòa với thiên nhiên của Nguyễn Trãi.
Côn Sơn là một danh lam thắng cảnh, một di tích lịch sử nổi tiếng của đất nước ta. Nhắc đến Côn Sơn chắc hẳn mọi người, đặc biệt là các bạn yêu thơ không thể nào quên bài thơ “Côn Sơn Ca” nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Trong đó có một đoạn mà em thấy rất thích:
“ Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi lên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có trúc bóng râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.”
Trước hết, em vô cùng ấn tượng về khung cảnh thơ mộng hữu tình của Côn Sơn qua ngòi bút giàu màu sắc hội họa của Nguyễn Trãi. Lần lượt khung cảnh của Côn Sơn với rừng thông, núi đá đã hiện ra trước mắt em khiến em say mê, thích thú:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Trong rừng có trúc bóng râm,”
Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã gợi không gian yên ắng, tĩnh lặng, chỉ nghe được tiếng suối chảy rì rầm, đều đều vọng lại từ xa. Nguyễn Trãi đã sử dụng gam màu xanh làm chủ đạo: màu xanh của rêu đá rồi màu xanh cả rừng thông, trúc. Tất cả gợi nên khung cảnh thiên nhiên thơ mộng. Nghệ thuật gợi nhiều hơn tả đã tái hiện khung cảnh thiên nhiên khoáng đạt, thanh tĩnh, đẹp đẽ, nên thơ, có âm thanh tiếng suối, có bàn đá rêu phơi,có màu xanh bạt ngàn của rừng thông và trúc. Đoạn thơ đã khơi gợi trong em lòng yêu mến, tự hào về cảnh đẹp Côn Sơn nói riêng và cảnh đẹp đất nước nói chung. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn sáng tạo nên một loạt hình ảnh so sánh khiến em rất thích:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
(…)
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm
Hình ảnh so sánh mới lạ đã gợi khung cảnh khoáng đạt, tĩnh lặng. Trong đó, em thích nhất hình ảnh so sánh: “ tiếng suối như tiếng đàn cầm”. Hình ảnh so sánh thật hay và gợi cảm gợi tả âm thanh trầm bổng, du dương của tiếng suối chảy. Hình ảnh so sánh này làm em liên tưởng đến câu thơ của Hồ Chí Minh:
“ Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Cả hai bài đều lấy âm thanh do con người tạo ra để ví với âm thanh thiên nhiên. Cả hai bài đều là hình ảnh so sánh đẹp thể hiện sự cảm nhận tinh tế, tình yêu thiên nhiên của hai tác giả. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi so sánh tiếng suối như tiếng đàn cầm phù hợp với tâm trạng của tác giả khi rời xa chốn triều chính về ở ẩn ở Côn Sơn còn Hồ Chí Minh so sánh tiếng suối như tiếng hát xa đã gửi gắm niềm lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ Cách mạng
Bên cạnh đó, em vô cùng yêu quý, trân trọng nhân cách thanh cao, tâm hồn thi sĩ của Nguyễn Trãi gửi gắm qua đoạn trích. Nguyễn Trãi đã chủ động rời xa chốn quan trường đầy bon chen, danh lợi, lui về ở ẩn, vui thú cùng thiên nhiên:
“ Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”
Chữ “nhàn” bộc lộ rõ tâm hồn trong sáng, không màng danh lợi thể hiện niềm vui được sống trong cảnh nhàn hạ. Nhưng ẩn sâu trong chữ “nhàn” ấy còn một nỗi niềm đau đáu, luôn lo nghĩ cho dân, cho nước nhà. Tấm lòng tha thiết với đất nước và nhân cách trong sáng thanh cao của nhà thơ làm em cảm phục biết bao!Và em cũng rất thích tình cảm yêu mến, gắn bó chan hòa với thiên nhiên của Nguyễn Trãi:
“ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”
Điệp ngữ “ta” được lặp lại năm lần, mỗi lần là một tư thế, một tâm thế khác nhau: Nghe, ngồi, nằm, ngâm. Em hình dung nhà thơ đang sống trong những giây phút thảnh thơi tận hưởng những món quà vô giá do thiên nhiên ban tặng. Đó cũng thể hiện rõ sự hòa hợp, gắn bó với thiên nhiên. Với Nguyễn Trãi thiên nhiên không đơn thuần là thiên nhiên mà còn là bầu bạn của nhà thơ. Như vậy Nguyễn Trãi không chỉ có tình yêu thiên nhiên tha thiết mà còn là một con người có tâm hồn thi sĩ, nhân cách thanh cao.
Càng yêu thích nội dung đoạn thơ em càng yêu mến nét nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ. Các điệp ngữ “ Côn Sơn, ta, trong”được sử dụng hiệu quả tạo nên giọng điệu nhẹ nhàng, êm tai của đoạn thơ. Một loạt phép so sánh mới lạ thể hiện tâm hồn nhạy cảm, sự tinh tế trong liên tưởng, tượng tượng và miêu tả của nhà thơ.
Đoạn trích đã khép lại nhưng giai điệu ngân nga của bài thơ còn mãi trong em. Em càng tự hào về đại thi hào dân tộc. Em mong được một lần đến thăm Côn Sơn để khám phá vẻ đẹp thơ mộng của Côn Sơn và đồng điệu với nỗi niềm của Nguyễn Trãi.
Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng. Có lẽ Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong thời kì ông cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn để giữ cho tâm hồn được thanh cao, trong sạch.
Đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là một miền đất có sức hút kì lạ. Chẳng thế mà hai lần cáo quan về ở ẩn, ông đều tìm về với Côn Sơn. Và núi rừng Côn Sơn thanh vắng đã trở thành một thế giới riêng đầy thân thương gắn bó với thi nhân. Tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đượcsống với chính mình. Dường như thiên nhiên đã trở thành cứu cánh cho tâm hồn ông- một tâm hồn đớn đau vì nhân tình thế thái. Tại Côn Sơn, mọi vật đối với ông trở nên có tình, có nghĩa, như bầu bạn, như tri âm:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
(Thuật hứng - Bài 19)
Cảnh trí Côn Sơn thanh tĩnh, rộng mở, để cho tâm hồn Nguyễn Trãi hoá thân tìm về, ùa vào đó mà quên đi mọi nỗi ưu phiền:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Trích Côn Sơn ca).
Đoạn mở đầu bài Côn Sơn ca đem đến cho người đọc bao cảm nhận mới mẻ về tâm hồn thi sĩ của Ức Trai. Trong cảm xúc của ông, cảnh trí Côn Sơn hiện ra thật thơ mộng và lãng mạn: có tiếng suối chảy rì rầm, có đá rêu phơi êm ái, có rừng thông mọc rậm, dày, có rừng trúc xanh mát..., vừa có cái hoang dã của thiên nhiên, vừa có hơi ấm của cuộc sống đầy ắp tình người. Hơn nữa, trong con mắt thi nhân, thiên nhiên không chỉ là cảnh, mà đã trở thành nhà. Ngôi nhà thiên nhiên ấy thật đặc biệt: suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm giường, bóng tre trúc là nơi ngâm vịnh thơ ca. Thật là tuyệt thú! Và trong ngôi nhà thiên nhiên ấy, ông để tâm hồn mình giao hoà với cảnh và vẽ lại nó bằng một ngọn bút tài hoa.
Bức tranh thiên nhiên được chấm phá bằng âm thanh rì rầm của tiếng suối được cảm nhận như tiếng đàn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Một hình ảnh so sánh thật độc đáo và gợi cảm. Suối đang chảy hay thi nhân đã thả hồn mình vào tiếng suối, làm rung lên cung đàn diễn tả nỗi khát khao yêu cuộc sống?
Năm trăm năm sau, thi sĩ Hồ Chí Minh cũng có chung cảm nhận ấy:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Phải chăng những tâm hồn nghệ sĩ đã tìm về với nhau?
Sau những giây phút thả hồn mình cùng tiếng suối, thi nhân lặng đến ngồi bên những phiến đá mà thời gian đã rêu phong bao phủ. Ông ngồi chơi ngắm cảnh, hay ngồi đánh cờ một mình? Có lẽ là cả hai. Trên nhân gian này, không ít người đã từng ngồi trên đá, nhưng làm sao họ cảm nhận được như thi nhân?
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Một hình ảnh so sánh liên tưởng đầy thú vị khiến ta không khỏi ngỡ ngàng. Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn không phải là để ẩn dật theo đúng nghĩa của cách sống ẩn dật, mà ông trở về Côn Sơn với nỗi hân hoan đầy tự do của một con người trở về nhà mình (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Và trong ngôi nhà ấy, ông không những được tha hồ nghe nhạc rừng, ngồi trên đá đánh cờ, mà còn được nằm dưới bóng thông râm mát, được ngâm thơ nhàn dưới bóng trúc xanh. Một cuộc sống mà người và cảnh gắn bó với nhau, hoà nhập vào nhau. Lòng Ức Trai thanh thản đến lạ kì.
Chưa bao giờ mà tâm hồn thi sĩ của Ức Trai lại được bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và đầm thắm đến thế!
Cũng tại Côn Sơn này, hồn thơ Ức Trai còn tiếp tục rộng mở để đón nhận thiên nhiên, chở thiên nhiên về chất đầy kho:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yến hà nặng vay then
(Thuật hứng - Bài 24)
Tình yêu thiên nhiên sâu nặng đến mức thi nhân sợ bóng hoa tan mà không dám quét nhà:
Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt,
Quét hiên, ngày đợi bóng hoa tan
(Quốc Âm thi tập - Bài 160)
Nhân cách thanh cao và tâm hồn thi sĩ của nguyễn Trãi thực sự là tấm gương sáng để ta soi vào.
Bạn tham khảo nhé!
Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng. Có lẽ Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong thời kì ông cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn để giữ cho tâm hồn được thanh cao, trong sạch.
Đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là một miền đất có sức hút kì lạ. Chẳng thế mà hai lần cáo quan về ở ẩn, ông đều tìm về với Côn Sơn. Và núi rừng Côn Sơn thanh vắng đã trở thành một thế giới riêng đầy thân thương gắn bó với thi nhân. Tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đượcsống với chính mình. Dường như thiên nhiên đã trở thành cứu cánh cho tâm hồn ông- một tâm hồn đớn đau vì nhân tình thế thái. Tại Côn Sơn, mọi vật đối với ông trở nên có tình, có nghĩa, như bầu bạn, như tri âm:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
(Thuật hứng - Bài 19)
Cảnh trí Côn Sơn thanh tĩnh, rộng mở, để cho tâm hồn Nguyễn Trãi hoá thân tìm về, ùa vào đó mà quên đi mọi nỗi ưu phiền:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Trích Côn Sơn ca).
Đoạn mở đầu bài Côn Sơn ca đem đến cho người đọc bao cảm nhận mới mẻ về tâm hồn thi sĩ của Ức Trai. Trong cảm xúc của ông, cảnh trí Côn Sơn hiện ra thật thơ mộng và lãng mạn: có tiếng suối chảy rì rầm, có đá rêu phơi êm ái, có rừng thông mọc rậm, dày, có rừng trúc xanh mát..., vừa có cái hoang dã của thiên nhiên, vừa có hơi ấm của cuộc sống đầy ắp tình người. Hơn nữa, trong con mắt thi nhân, thiên nhiên không chỉ là cảnh, mà đã trở thành nhà. Ngôi nhà thiên nhiên ấy thật đặc biệt: suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm giường, bóng tre trúc là nơi ngâm vịnh thơ ca. Thật là tuyệt thú! Và trong ngôi nhà thiên nhiên ấy, ông để tâm hồn mình giao hoà với cảnh và vẽ lại nó bằng một ngọn bút tài hoa.
Bức tranh thiên nhiên được chấm phá bằng âm thanh rì rầm của tiếng suối được cảm nhận như tiếng đàn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Một hình ảnh so sánh thật độc đáo và gợi cảm. Suối đang chảy hay thi nhân đã thả hồn mình vào tiếng suối, làm rung lên cung đàn diễn tả nỗi khát khao yêu cuộc sống?
Năm trăm năm sau, thi sĩ Hồ Chí Minh cũng có chung cảm nhận ấy:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Phải chăng những tâm hồn nghệ sĩ đã tìm về với nhau?
Sau những giây phút thả hồn mình cùng tiếng suối, thi nhân lặng đến ngồi bên những phiến đá mà thời gian đã rêu phong bao phủ. Ông ngồi chơi ngắm cảnh, hay ngồi đánh cờ một mình? Có lẽ là cả hai. Trên nhân gian này, không ít người đã từng ngồi trên đá, nhưng làm sao họ cảm nhận được như thi nhân?
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Một hình ảnh so sánh liên tưởng đầy thú vị khiến ta không khỏi ngỡ ngàng. Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn không phải là để ẩn dật theo đúng nghĩa của cách sống ẩn dật, mà ông trở về Côn Sơn với nỗi hân hoan đầy tự do của một con người trở về nhà mình (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Và trong ngôi nhà ấy, ông không những được tha hồ nghe nhạc rừng, ngồi trên đá đánh cờ, mà còn được nằm dưới bóng thông râm mát, được ngâm thơ nhàn dưới bóng trúc xanh. Một cuộc sống mà người và cảnh gắn bó với nhau, hoà nhập vào nhau. Lòng Ức Trai thanh thản đến lạ kì.
Chưa bao giờ mà tâm hồn thi sĩ của Ức Trai lại được bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và đầm thắm đến thế!
Cũng tại Côn Sơn này, hồn thơ Ức Trai còn tiếp tục rộng mở để đón nhận thiên nhiên, chở thiên nhiên về chất đầy kho:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yến hà nặng vay then
(Thuật hứng - Bài 24)
Tình yêu thiên nhiên sâu nặng đến mức thi nhân sợ bóng hoa tan mà không dám quét nhà:
Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt,
Quét hiên, ngày đợi bóng hoa tan
(Quốc Âm thi tập - Bài 160)
Nhân cách thanh cao và tâm hồn thi sĩ của nguyễn Trãi thực sự là tấm gương sáng để ta soi vào.
Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian hòa bình, ông cáo quan về sống ở Côn Sơn. Côn Sơn không chỉ là quê hương mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn Nguyễn Trãi.
Côn Sơn ca vừa là bài ca thiên nhiên vừa là bài ca tâm trạng. Hai ý này hòa quyện thông nhất trong cảm xúc của thi nhân. Đoạn trích miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên nhưng vẫn thấm nhuần ý vị trữ tình của tâm trạng. Trong nguyên văn chữ Hán, Bài ca Côn Sơn được viết theo thể thơ khác nhưng bản dịch đã chuyển thành thể lục bát: Côn Sơn suối chảy rì rầm,Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong rừng thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn… Sự giao hòa tuyệt đối giữa con người với cảnh vật được thể hiện khá rõ trong đoạn thơ, qua đó phản ánh nhân cách thanh cao và tâm hồn phóng khoáng của Nguyễn Trãi. Trước hết, ta hãy thưởng thức giọng thơ sảng khoái, hứng khởi, bộc lộ qua các câu thơ tự do trong nguyên văn chữ Hán: Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh linh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền,
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí Thúy đồng đồng.Ngô ư thị hồ,
Yến tức kỳ trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục
Ngô ư ngâm tiếu kì khắc. Nhịp thơ rộn rã như nhịp đàn, nhịp phách. Chính chất hào sảng trong tâm hồn thi sĩ đã tạo nên chất hào sảng của lời thơ. Gần trọn cuộc đời lo cho dân, cho nước, nhưng những năm cuối đời, Nguyễn Trãi lại phải sống trong sự đố kị, ghen ghét của đám nịnh thần. Vì vậy, khi trở về Côn Sơn, Nguyễn Trãi như con chim bằng sổ lồng tung cánh, cảm thấy mình thật sự tự do giữa trời cao đất rộng. Lúc này, ông mới được sống thật với chính mình, mới được là mình. Thi sĩ lúc dạo chơi, khi nằm nghỉ, khi chuyện trò tâm sự với những người nông dân áo vải, lúc cao hứng ngâm nga, vui say giữa rừng núi quê nhà. Phong thái nhà thơ thật giản dị, ung dung mà cũng thật cởi mở, chan hòa. Trong Bài ca Côn Sơn, cảnh vật thiên nhiên hiện lên với dòng suối trong chảy róc rách, rì rầm như tiếng đàn lúc khoan, lúc nhặt. Phiến đá phẳng phủ rêu xanh mướt, mịn như chiếu êm. Thông, tùng mọc như nêm, rừng trúc bạt ngàn màu xanh tươi mát. Qua nét vẽ tài hoa của ngòi bút Nguyễn Trãi, khung cảnh Côn Sơn hiện lên với những đặc điểm riêng biệt, không lẫn với bất cứ bức tranh sơn Thủy nào. Trong bài thơ, đại từ ta xuất hiện năm lần. Ta ở đây chính là Nguyễn Trãi. Ta nghe tiếng suối mà như nghe tiếng đàn. Ta ngồi trên đá lại tưởng ngồi chiếu êm. Ta nằm hóng mát, ta ngâm thơ nhàn… Giữa khung cảnh mơ mộng, hình ảnh của thi sĩ giống như một nhà hiền triết hoặc một Tiên ông đang đắm mình vào thiên nhiên tuyệt mĩ.Nguyễn Trãi vừa là thi sĩ rung cảm trước cái đẹp, vừa là họa sĩ vẽ vời phong cảnh hữu tình của Côn Sơn. Ông đã vẽ bức tranh Côn Sơn với cây, với suối, với nhân vật trữ tình là chính mình. Đồng thời, ông còn là một nhạc sĩ tài hoa, bằng những nốt nhạc bổng trầm, dệt nên Bài ca Côn Sơn du dương cuốn hút lòng người. Thiên nhiên Côn Sơn khoáng đạt và thanh tĩnh. Bao trùm lên tất cả là sắc lá xanh ngời. Ở đây có suối chảy rì rầm, có bàn đá rêu phơi, có rừng tùng, rừng trúc che ánh nắng mặt trời, tạo ra khung cảnh tao nhã cho thi nhân ngồi ngâm thơ nhàn một cách thú vị… Hình ảnh cây trúc, cây tùng trong văn chương, tượng trưng cho khí phách cứng cỏi của người quân tử: Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. Nhà thơ hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ đầy quyến rũ. Từ tiếng suối chảy róc rách, những tấm thảm rêu biếc, những tán thông kiêu hãnh, rừng trúc xanh tươi đều toát lên vẻ yên ả, đem lại sự thanh thản, bình yên cho tâm hồn. Bao lo lắng, phiền muộn của cuộc đời dường như được trút sạch, con người và thiên nhiên hòa làm một. Bức tranh Côn Sơn được Nguyễn Trãi cảm nhận không chỉ bằng thị giác, thính giác mà còn được cảm nhận bằng cả trái tim. Người đọc nhận ra cái “tâm” trong sáng và cái tài độc đáo của thi nhân qua bài thơ này. Bóng dáng nhà thơ hiện lên mờ ảo, thấp thoáng. Dường như ông hòa lẫn vào suối, vào rêu, vào đá, vào thông, vào trúc. Cái bóng dáng ẩn hiện và tiếng ngâm thơ trầm bổng, ngân nga trong không gian ấy gần như đã thể hiện đúng hoàn cảnh và tâm trạng của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ. Nếu như ở bốn câu đầu, cảnh thiên nhiên Côn Sơn được miêu tả khách quan thì ở các câu thơ sau, tác giả lại kín đáo lồng vào trong đó lời khuyên xuất thế. Khi Nguyễn Trãi cáo quan về quê, mọi người đều tưởng ông bất mãn, chán đời, lui vào ẩn dật để quên mình, quên đời… nhưng không phải vậy. Lê Thánh Tông hiểu lòng ông, mời ông ra làm việc, ông lại hăng hái về triều, gánh vác việc dân, việc nước. Trong biểu tạ ơn vua, Nguyền Trãi đã tự ví: Thần như con ngựa già còn ham rong ruổi…Nếu so sánh câu thơ : Côn Sơn có suối rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai của Nguyễn Trãi với câu thơ : Tiếng suối trong như tiếng hát xa của Hồ Chí Minh trong bài Cảnh khuya, chúng ta sẽ thấy cả hai đều là sản phẩm của tâm hồn thi sĩ tinh tế, cùng tưởng tượng tiếng suối giống như tiếng nhạc, tiếng hát tuyệt vời.
Hai người cùng chung đề tài chung biện pháp nghệ thuật so sánh nhưng khác nhau ở vị thế lúc làm thơ.
Bài ca Côn Sơn được sáng tác khi Nguyễn Trãi bất đắc dĩ phải sống ẩn dật tại Chí Linh. Còn Cảnh khuya được nhà cách mạng Hồ Chí Minh viết trong lúc giữ cương vị tổng chỉ huy của cuộc kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc. Hai cảnh ngộ, hai tâm trạng khác nhau, tuy đều lấy tiếng suối làm mạch nguồn cảm xúc nhưng sự cảm nhận và liên tưởng của mỗi người lại thể hiện nét riêng mang đậm dấu ấn cá nhân và tinh thần thời đại!
Hai nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, hai thi nhân tầm vóc thời đại tuy sống cách nhau năm thế kỉ nhưng giống nhau ở cảm hứng mãnh liệt trước thiên nhiên tươi đẹp. Chỉ khác là nghe tiếng suối, Nguyễn Trãi liên tưởng đến tiếng đàn huyền diệu, còn Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nghĩ tới âm hưởng hùng tráng của bài ca chiến thắng trong tương lai. Đọc những bài thơ của Nguyễn Trãi viết về cảnh vật thôn quê, chúng ta hiểu thêm về tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng của ông. Bài ca Côn Sơn khiến lòng ta xao xuyến, bồi hồi và càng thêm gắn bó với từng mảnh vườn, góc phố quê hương.
*"Bài ca Côn Sơn "-Nguyễn Trãi
Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng. Có lẽ Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong thời kì ông cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn để giữ cho tâm hồn được thanh cao, trong sạch.
Đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là một miền đất có sức hút kì lạ. Chẳng thế mà hai lần cáo quan về ở ẩn, ông đều tìm về với Côn Sơn. Và núi rừng Côn Sơn thanh vắng đã trở thành một thế giới riêng đầy thân thương gắn bó với thi nhân. Tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đượcsống với chính mình. Dường như thiên nhiên đã trở thành cứu cánh cho tâm hồn ông- một tâm hồn đớn đau vì nhân tình thế thái. Tại Côn Sơn, mọi vật đối với ông trở nên có tình, có nghĩa, như bầu bạn, như tri âm:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
(Thuật hứng - Bài 19)
Cảnh trí Côn Sơn thanh tĩnh, rộng mở, để cho tâm hồn Nguyễn Trãi hoá thân tìm về, ùa vào đó mà quên đi mọi nỗi ưu phiền:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Trích Côn Sơn ca).
Đoạn mở đầu bài Côn Sơn ca đem đến cho người đọc bao cảm nhận mới mẻ về tâm hồn thi sĩ của Ức Trai. Trong cảm xúc của ông, cảnh trí Côn Sơn hiện ra thật thơ mộng và lãng mạn: có tiếng suối chảy rì rầm, có đá rêu phơi êm ái, có rừng thông mọc rậm, dày, có rừng trúc xanh mát..., vừa có cái hoang dã của thiên nhiên, vừa có hơi ấm của cuộc sống đầy ắp tình người. Hơn nữa, trong con mắt thi nhân, thiên nhiên không chỉ là cảnh, mà đã trở thành nhà. Ngôi nhà thiên nhiên ấy thật đặc biệt: suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm giường, bóng tre trúc là nơi ngâm vịnh thơ ca. Thật là tuyệt thú! Và trong ngôi nhà thiên nhiên ấy, ông để tâm hồn mình giao hoà với cảnh và vẽ lại nó bằng một ngọn bút tài hoa.
Bức tranh thiên nhiên được chấm phá bằng âm thanh rì rầm của tiếng suối được cảm nhận như tiếng đàn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Một hình ảnh so sánh thật độc đáo và gợi cảm. Suối đang chảy hay thi nhân đã thả hồn mình vào tiếng suối, làm rung lên cung đàn diễn tả nỗi khát khao yêu cuộc sống?
Năm trăm năm sau, thi sĩ Hồ Chí Minh cũng có chung cảm nhận ấy:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Phải chăng những tâm hồn nghệ sĩ đã tìm về với nhau?
Sau những giây phút thả hồn mình cùng tiếng suối, thi nhân lặng đến ngồi bên những phiến đá mà thời gian đã rêu phong bao phủ. Ông ngồi chơi ngắm cảnh, hay ngồi đánh cờ một mình? Có lẽ là cả hai. Trên nhân gian này, không ít người đã từng ngồi trên đá, nhưng làm sao họ cảm nhận được như thi nhân?
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Một hình ảnh so sánh liên tưởng đầy thú vị khiến ta không khỏi ngỡ ngàng. Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn không phải là để ẩn dật theo đúng nghĩa của cách sống ẩn dật, mà ông trở về Côn Sơn với nỗi hân hoan đầy tự do của một con người trở về nhà mình (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Và trong ngôi nhà ấy, ông không những được tha hồ nghe nhạc rừng, ngồi trên đá đánh cờ, mà còn được nằm dưới bóng thông râm mát, được ngâm thơ nhàn dưới bóng trúc xanh. Một cuộc sống mà người và cảnh gắn bó với nhau, hoà nhập vào nhau. Lòng Ức Trai thanh thản đến lạ kì.
Chưa bao giờ mà tâm hồn thi sĩ của Ức Trai lại được bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và đầm thắm đến thế!
Cũng tại Côn Sơn này, hồn thơ Ức Trai còn tiếp tục rộng mở để đón nhận thiên nhiên, chở thiên nhiên về chất đầy kho:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yến hà nặng vay then
Tình yêu thiên nhiên sâu nặng đến mức thi nhân sợ bóng hoa tan mà không dám quét nhà:
Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt,
Quét hiên, ngày đợi bóng hoa tan
Nhân cách thanh cao và tâm hồn thi sĩ của nguyễn Trãi thực sự là tấm gương sáng để ta soi vào
Đọc Bài ca Côn Sơn, ta không khỏi ngỡ ngàng trước cái ta, Nguyễn Trãi, một cái ta thấm đượm cái tình của tâm hồn thanh cao, trong sáng.
Nguyễn Trãi là người suốt đời ôm ấp một lí tưởng cao đẹp: lí tưởng vì dân vì nước. Nỗi niềm dân nước thường trực canh cánh khôn nguôi trong ông:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông
(Thuật hứng - Bài 5)
Ở với triều Lê, Nguyền Trãi những mong đem tài năng và trí lực của mình vào việc giúp ích cho nước, cho dân. Nhưng sống giữa cảnh bon chen ganh ghét ở triều đình, tài năng của Nguyễn Trãi bị đố kị; trong khi đó nhà vua lại tin theo những lời xúc xiểm, không trọng dụng những người như ông. Mất lòng tin ở triều đình, Nguyễn Trãi đành phải cáo quan về ở ẩn, tìm về với ba khóm trúc vườn xưa để giữ cho tâm hồn được thanh sạch và cao đạo. Và Côn Sơn, ngọn núi tượng trưng cho khát vọng của Nguyễn Trãi về sự giao hoà giữa con người và vũ trụ, đã trở thành nơi để thi nhân tìm về.
Sống ở Côn Sơn, cái ta trữ tình của Nguyễn Trãi được khẳng định:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có trúc bóng râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Bài ca Côn Sơn)
Trong các sáng tác trữ tình của Nguyễn Trãi, hầu như chủ thể trữ tình không xuất hiện trực danh mà chỉ ẩn đằng sau để kín đáo gửi trao cảm xúc, nỗi niềm:
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa rẽ cây.
(Ngôn chi - Bài 10)
Cùng lắm mới ngôn xưng là khách:
Khách đến, chim mừng, hoa xẩy động
Chè tiên, nước kín, nguyệt đeo về
{Thuật hứng - Bài 3)
Ở Côn Sơn ca thì khác. Nhân vật trữ tình đã xuất hiện với chân dung là cái ta- một cái ta nhàn và một cái ta thi sĩ.
Lúc thì ta mơ màng lắng nghe suối chảy, chim hót:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Lúc thì mượn đá để ngồi (Hoàng Phủ Ngọc Tường) ngắm cảnh hoặc đánh cờ một mình:
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Có lúc thì lại tha thẩn giữa đồi thông, tìm bóng mát nằm thảnh thơi:
Trong ghềnh thông mọc như nêm
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Rồi lại trầm mặc đứng dưới bóng trúc rợp mát màu xanh mà ngâm thơ, vịnh cảnh:
Trong rừng có trúc bóng râm
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Thật là lãng mạn và thi vị. Một cái ta thi sĩ ngâm thơ nhàn, lắng nghe mọi rung động tinh tế của thiên nhiên và cảm nhận nó bằng tâm hồn nghệ sĩ (nghe tiếng suối mà như nghe tiếng đàn, ngồi trên đá lại tưởng ngồi chiếu êm).
Một cái ta thảnh thơi (dù là trong khoảnh khắc) dạo chơi, ngắm cảnh, nằm dưới bóng râm, ngâm thơ... Dường như Nguyễn Trãi đã quên đi hết mọi ưu phiền. Không còn cảnh bon chen giành giật của chốn cửa quyền nhiều hiểm hóc, lòng người cực hiểm, chỉ có người và cảnh quấn quýt giao hoà với nhau. Với nhân vật ta, cuộc sống ấy thật hạnh phúc và có ý nghĩa. Côn Sơn đã trở thành nhà của nhân vật ta - một ngôi nhà thân thương, ấm áp tình người.
Trong cảm quan của nhân vật ta, một thế giới nhân gian rộng mở để tâm hồn thi nhân tìm đến, đón nhận thi nhân trở về với chính mình.
Đoạn thơ đã khép lại mà hình ảnh nhân vật ta với tất cả những vẻ đẹp của nhân cách thanh cao và tâm hồn thi sĩ thì cứ sừng sững trước mặt người đọc.