Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Sau khi học xong chương trình ngữ văn 7, em cảm thấy đã học được rất nhiều điều, từ những bài thơ, những ngữ pháp, cho đến các thể thơ độc đáo và thú vị. Nó đã mang lại cho em rất nhiều kiến thức.
Em tham khảo nhé !
Từ xưa đến nay, nhân dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn, từ già đến trẻ, tất cả đều sẵn sàng hy sinh vì non sông tổ quốc. Qua tác phẩm "Tinh thần yêu nước của nhân dân ta", ta thấy hình ảnh những cô gái trẻ độ tuổi đôi mươi, cũng chấp nhận từ bỏ lứa tuổi đẹp nhất của đời người để ra trận. Những người mẹ tần tảo đã đau khổ biết mấy khi để những người con mà họ hết lòng yêu thương ra trận. Những người phụ nữ, bất chấp tất cả, cũng cùng các thanh niên trang bị cho cuộc chiến tranh sắp đến... Tất cả công dân Việt Nam, họ biết họ đang đối mặt với sự sống và cái chết... nhưng họ gạt bỏ tất cả nỗi sợ hãi, thậm chí là tệ hơn nữa, họ sẽ chết chìm trong biển lửa tàn khốc của chiến tranh. Nhưng lý do gì đã không ngừng thôi thúc họ không được từ bỏ, phải dũng cảm chiến đấu vì tương lai sau này? Đó là vì tinh thần yêu nước của nhân dân ta quá sâu đậm. Dường như trong dòng máu của mỗi người dân Việt đều đã có sẵn tinh thần bất khuất ầy. Nó sẽ không bao giờ chịu khuất phục bởi chiến tranh, luôn sống mãi trong tim mỗi con người, mỗi công dân Việt Nam.
Chúng ta lại có ngọn cờ chính nghĩa và có cả những người con ưu tú, anh hùng luôn chiến đấu mưa lược và dũng cảm trong những cuộc chiến tranh để bảo vệ và gìn giữ sự tồn vong của đất nước, quê hương. Đó là một lời khẳng định. Cuộc chiến phi nghĩa nhất định thất bại. Và lịch sử đã chứng minh. Quân Tống thảm bại trên sông Như Nguyệt, phải tháo chạy nhục nhã. Lịch sử lại ghi thêm một chiến công chói lọi của quân và dân ta.
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” được xem như là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, khẳng định chủ quyền của dân tộc, đồng thời nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước kẻ thù xâm lược. Tình yêu đất nước và niềm tự hào dân tộc từ bài thơ đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi chúng ta, đã cùng đồng hành với biết bao thế hệ đi vào lịch.Nam Quốc sơn hà là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn và sắc sảo. Nó xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên ngợi ca lòng yêu nước, ngợi ca niềm tự hào dân tộc, đồng thời cũng biểu thị ý chí, sức mạnh và tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Và đó là cũng bài học, là lời thề của thế hệ trẻ như chúng em. Muốn làm những chủ nhân tương lai của đất nước, thì phải học tập thật tốt. Lòng yêu nước là tình yêu đối với quê hương, đất nước; nỗ lực cố gắng không ngừng để dựng xây và phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Lòng yêu nước là tình cảm cao cả, thiêng liêng của mỗi người dành cho quê hương đất nước. Đó là yêu sông, yêu núi, yêu làng, yêu xóm, yêu người dân sống trên mảnh đất hình chữ S. Tình cảm ấy đơn giản, gần gũi và nằm ngay trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của mỗi người. Em muốn bản thân mình được đóng góp một phần nào đó cho đất nước để phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh.
Chủ quyền độc lập của nước Nam là một chân lí không gì có thể bác bỏ được. Dân tộc Việt bao đời nay đã kiên cường chiến đấu để giữ vững bờ cõi, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng ấy.Bài thơ Sông núi nước Nam thể hiện niềm tin tưởng và tự hào vào sức mạnh chính nghĩa của dân tộc ta có thể tiêu diệt bất kì kẻ thù hung bạo nào dám xâm phạm đến đất nước này. Vì thế mà nó có sức mạnh kì diệu cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta, làm khiếp vía kinh hồn quân xâm lược và góp phần tạo nên chiến thắng vinh quang. Tinh thần và sức mạnh của bài thơ toát ra từ sự khẳng định dứt khoát, mãnh liệt như dao chém cột.Tính chất chân lí của bài thơ có giá trị vĩnh hằng bởi nó khẳng định chủ quyền độc lập của nước Nam là bất khả xâm phạm. Tác dụng to lớn, mạnh mẽ của bài thơ không chỉ bó hẹp trong hoàn cảnh lúc bấy giờ mà còn kéo dài vô tận. Hơn mười một thế kỉ, quân xâm lược phương Bắc cố tình thôn tính nước ta nhưng dân tộc ta đã đồng lòng đứng lên chiến đấu đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để bảo vệ chủ quyền ấy.Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, Lí Thường Kiệt đã khẳng định một cách đanh thép chân lí độc lập tự do, đồng thời lên án tính chất phi nghĩa của hành động xâm lược cùng sự bại vong tất yếu của kẻ dám ngang ngược xâm phạm chân lí đó.Việc khẳng định lại chủ quyền độc lập của dân tộc ta để đánh tan ý chí xâm lược của bọn cướp nước trong hoàn cảnh cụ thể của cuộc chiến đấu ác liệt là hết sức cần thiết. Vì lẽ đó mà từ trước tới nay, có nhiều ý kiến cho rằng Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt là bản tuyên ngôn độc lập thành văn thứ nhất của đất nước và dân tộc Việt Nam.
Tham khảo:
Bác Hồ cũng sống giản dị vì Bác mang tâm hồn Việt Nam. Lối sống đó được thề hiện ở nhiều mặt trong đời sống, trong bữa cơm, trong cách ăn mặc... Đời sống của Bác rất giản dị, bữa cơm chỉ có vài ba món rất đơn giản. Lúc Bác ăn không để rơi vãi một hột cơm nào, ăn xong cái bát bao giờ cũng sạch và thức ăn thì được xếp rất tươm tất. Bác mặc một bộ đồ kaki sẫm màu, đầu đội mũ, chân đi dép cao su. Lời nói của Bác dễ hiểu, ngắn gọn nhưng luôn ấm áp. Tuy Bác Hồ luôn bận bịu nhưng ngôi nhà sàn của Bác lúc nào cũng sạch sẽ. Ngoài ra Bác còn nuôi cá, làm vườn... Qua đó, chúng ta thấy Bác sống rất giản dị. Chính vỉ sự giản dị đó mà Bác luôn được mọi người yêu quý.
Một khoảng thời gian vui vẻ nhưng cũng mệt mỏi với đèn sách
Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947, khi quân và dân ta đang thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc. Sông Lô, Đoan Hùng đã đi vào lịch sử bằng những nét vàng chói lọi đầu tiên của ta trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Cùng với các bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc của Bác trong một đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc.
Hai câu thơ đầu trong bài thơ tả cảnh đêm khuya nơi núi rừng Việt Bắc. Trăng càng về đêm càng sáng. Ánh trăng lan toả bao phủ khắp mặt đất. Đêm vắng, tiếng suối nghe càng rõ. Tiếng suối chảy êm đềm nghe rất trong rì rầm từ xa vọng đến. Cảm nhận của Bác thật tinh tế, nghe suối chảy mà cảm nhận được mức độ xanh trong của dòng nước. Tiếng suối trong đêm khuya như tiếng hát xa dịu êm vang vọng, khoan nhạt như nhịp điệu của bài hát trữ tình sâu lắng. Đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tiếng suối rì rầm êm ả, vắng lặng trong đêm chiến khu. Tiếng suối và tiếng hát là nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời máu lửa mang sức sống và hơi ấm của con người:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Sáu trăm năm trước trong bài thơ Bài ca Côn Sơn Ức Trai đã có cảm nhận cực kỳ tinh tế về dòng suối Côn Sơn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bền tai
Tiếng suối nghe sao mà êm đềm thơ mộng đến thế. Nó như những giọt của cây đàn cầm vang vọng bên tay. Đầu thế kỉ XX Nguyễn Khuyến đã từng viết về dòng suối như sau:
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo...
Mỗi một vần thơ, mỗi một khung cảnh, âm thanh của suối chảy được cảm nhận tinh tế khác nhau. Sau tiếng suối nghe như tiếng hát xa kia là trăng chiến khu. Ánh trăng chiến khu sao mà sáng và đẹp thế. Tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa - hoa rừng. Cả núi rừng Việt Bắc đang tràn ngập dưới ánh trăng. Ánh trăng bao phủ khắp không trung mát dịu, len lỏi xuyên qua kẽ lá, tán cây, ánh trăng như âu yếm, hoà quyện cùng thiên nhiên cây cỏ. Ánh trăng như xoáy và lồng vào những tán lá. Và trên mặt đất những đoá hoa rừng đang ngậm sương đêm cùng với bóng cổ thụ đan xen trên mặt đất. Đêm thanh, trên không trung dường như chỉ có vầng trăng ngự trị. Đêm vắng, trăng thanh mặt đất cỏ cây như ngừng thở để đón đợi ánh trăng mát lạnh dịu hiền mơn man ôm ấp:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Chữ lồng điệp lại hai lần đã nhân hoá vầng trăng, cổ thụ và hoa. Trăng như người mẹ hiền đang tiếp cho muôn vật trần gian dòng sữa ngọt ngào. Trăng trở nên thi vị, trữ tình lãng mạn. Chữ lồng gợi cho ta nhớ đến những câu thơ sau trong Chinh phụ ngâm:
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng...
Trong câu có tiểu đối trăng lồng cổ thụ / bóng lồng hoa tạo sự cân xứng trong bức tranh về trăng, ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tràn đầy chất thơ. Cảnh khuya trong sáng, lung linh huyền ảo. Đọc vần thơ ta nghe như có nhạc, có hoạ, bức tranh cảnh núi rừng Việt Bắc thơ mộng biết bao. Người xưa từng nói thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc quả thật không sai. Đối với Bác trăng đã trở nên tri âm tri kỉ nên làm sao có thể hờ hững trước cảnh đẹp đêm nay. Trong ngục tối bị giam cầm, trước ánh trăng tuyệt đẹp Bác Hồ cũng đã có những vần thơ tuyệt diệu:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ...
(Ngắm trăng)
Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác. Bác không chỉ xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Nước nhà đang bị giặc xâm lăng giày xéo, biết bao đồng chí đang bị gông cùm xiềng xích. Cuộc đời còn lầm than cơ cực, bao năm Bác bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ lầm than. Nay nước nhà còn đang chìm trong khói lửa đạn bom lòng Bác sao có thể ngủ yên giấc được. Chưa ngủ không hẳn chỉ vì cảnh đẹp đêm nay mà chưa ngủ vì nỗi nước nhà.
Nỗi nhớ nhà lo cho nước nhà làm cho trái tim Bác luôn thổn thức. Bác thức trong đêm khuya trằn trọc băn khoăn không sao ngủ được. Lòng yêu nước sâu sắc mãnh liệt xiết bao. Đã có biết bao đêm Bác Hồ của chúng ta cũng mất ngủ như vậy:
Một canh, hai canh, lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
(Không ngủ được)
Hình ảnh sao vàng chính là tự do độc lập, niềm thao thức mơ ngày mai ánh hồng soi đất nước hoà bình. Một tâm hồn nghệ sĩ thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Cảm hứng thiên nhiên chan hoà với cảm hứng yêu nước tha thiết của Bác.
Bài thơ Cảnh khuya là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cực hay, là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác. Giữa chốn rừng Việt Bắc tràn ngập ánh trăng, lòng Bác luôn thao thức vì nỗi nước nhà. Đó là nét đẹp riêng của bài thơ, cảm hứng thiên nhiên nhiên chan hoà trong lòng yêu nước sâu sắc. Thương dân, lo cho nước, yêu trăng... như dẫn hồn ta vào giấc mộng đẹp. Đọc thơ Bác giúp ta càng biết ơn, yêu kính Bác Hồ hơn.
Đó không phải là bài cảm nhận văn của mk , chỉ là tham khảo thôi nha bạn . Mk mới lớp 5 .
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Nói đến Chủ Tịch Hồ Chí Minh không chỉ con dân Việt Nam mà nhân dân toàn thế giới đều giành cho người sự thương yêu, tôn trọng hết mực. Không chỉ là người chiến sĩ mà Người còn là một nhà thơ- một nghệ sĩ tài ba, tuy đã qua đời nhưng bác đã để lại cho nền văn chương Việt Nam nhiều tác phẩm bất hủ. Tiêu biểu trong sỗ đó là tác phẩm” Cảnh khuya”
Cảnh khuya là bài thơ được viết vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến dù gian khổ vất vả là vậy nhưng trong bài thơ ta không hề bắt gặp một lời than thở nào mà toàn bộ bài thơ là phong thái ung dung, yêu đời, yêu thiên, đắm mình vào thiên nhiên để cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của thiên nhiên. Mở đầu bài thơ là một âm thanh thật nhẹ nhàng và ngọt ngào:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thủ bóng lồng hoa
Trong không gian tĩnh lặng của đêm khuya vang lên một âm thanh đó là tiếng suối chảy, trong cảm nhận của bác tiếng suối chảy thật nhẹ nhàng, nhẹ nhàng như “tiếng hát xa”, tiếng hát trong trẻo, du dương vang lên trong không gian yên tĩnh của núi rừng Việt Bắc. Trong câu thơ bác đã sử dụng rất thành công biện pháp so sánh, lối so sánh của bác cũng rất đặc biệt, đó là thiên nhiên con người luôn luôn gắn bó, soi chiếu vào nhau, con người làm cho thiên nhiên nổi bật hơn. Ngước mắt lên nhìn trời cao Người đã bắt gặp hình ảnh:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Ánh trăng đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận của các thi nhân, thi sĩ, trăng là người bạn tri kỷ, tâm tình của họ. Trong câu thơ này Người đã sử dụng rất tài tình động từ “lồng”, “lồng” ở đây là khiến hai vật khác nhau trở nên khăng khít và trở thành một vật thống nhất. Như vậy ta có thể thấy được câu thơ đã khắc họa rõ nét sự hòa quyện của ánh trăng và cảnh vật, chúng đan cài vào nhau, xóa nhòa đi khoảng cách để cùng tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ. Trước khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp như vậy ta lại bắt gặp nỗi chăn chở, suy tư của người:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Dù việc nước việc nhà bận bịu là vậy nhưng Bác cũng không quên việc giành sự ưu ái cho thiên nhiên, cùng thiên nhiên bầu bạn tâm tình,tìm đến thiên nhiên để quên đi những mệt mỏi, bộn bề trong cuộc sống. Ngắm nhìn thiên nhiên không chỉ là cách giúp người thư giãn mà còn là cách cổ vũ cho tinh thần chiến đấu của Người. Thiên nhiên càng tươi đẹp sẽ thôi thúc ý chí Cách Mạng của người, thôi thúc mong muốn cho toàn dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng bác chẳng thể ngủ được vì còn nỗi nước nhà. Đó là nỗi lo vĩ đại, nỗi lo mang tầm vóc thời đại, trên vai Người đang gánh vác vận mệnh của cả dân tộc. Lo lắng là vậy nhưng người cũng không thể hững hờ với thiên nhiên, bác luôn tìm đến với thiên nhiên để xua tan đi những mệt mỏi trăm bề.
Bài thơ “Cảnh khuya” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Bác- phong cách ung dung, tự tại. Bài thơ không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là vẻ đẹp tâm hồn của người thi sĩ. Bài thơ đã khép lại nhưng tâm hồn và ý chí của người sẽ mãi mãi khắc ghi trong trái tim của nhân dân Việt Nam và nhân dân trên toàn thế giới.
Khi nhắc tới Cốm làm cho người đọc liên tưởng đến một món ăn đồng quê thanh nhã mang đậm những hương vị đồng quê,không những vậy nó khiến chúng ta không thể không nghĩ đến hình ảnh Hà Nội với những ngọn gió heo may mỗi khi thu về. còn gì vui hơn khi lại một lần nữa được thưởng thức món ăn của quê nhà nó làm ta nhớ đến tuổi thơ,những ngày còn nhỏ xíu mỗi lần mẹ đi chợ là tôi lại dặn mẹ mua cho mình những gói cốm được bọc bằng lá sen,mùi hương lan tỏa thơm ngát. Cũng có lẽ vì thế mà nhà văn Thạch Lam đã viết lên tác phẩm " một thứ quà của lúa non- Cốm".
Cơn gió mùa hạ lướt qua vùng sen trên hồ,lan tỏa cái hương thơm của lá sen như để báo thức đã đến mùa của một thức quà thanh nhã và tinh khiết. Khi đi qua cánh đồng xanh mướt,một mùi hương nồng nàn thoang thoảng mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi,cái mùi thơm mát của bông lúa non. Trong cái vỏ xanh kia là những giọt sữa trắng thơm,phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ,mùi hương của đất trời. Dưới ánh nắng những giọt sương còn sót lại trên bông lúa làm cho bông lúa cong xuống nặng vì cái chất trong quý của đất trời.
Bằng với những gì tác giả thể hiện qua các những câu văn mở đầu làm cho ta cảm nhận được cái nét thanh nhã của những hạt gạo,rồi trải qua biết bao bàn tay người nông dân làm ra thành những hạt cốm xanh mượt như ngày hôm nay.Lúa nếp non đến lúc được gặt đem về cách chế biến cốm là " một sự bí mật trân trọng và khe khắt giữ gìn"được truyền từ đời này sang đời khác.Và chỉ có Cốm làng Vòng mới là đặc sản của Hà Nội,do bàn tay những cô gái làng Vòng làm ra " thứ Cốm dẻo và thơ ấy".Cốm làng Vòng nổi tiếng khắp cả nước.
Cảm nhận khi đọc bài Cốm - một thứ quà của lúa non của Thạch Lam
Những hạt cố được tạo nên từ những tinh hoa của đất trời,những cơn giá mang phảng phất hương thơm nồng nàn với những nét thanh tao dịu nhẹ của đất trời Hà Nội.Cốm là sự kết tinh của mọi thứ quý báu nhất tốt đẹp nhất của quê hương. Là thức quà riêng biệt của đất nước,là cái hương vị mộc mạc giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam.Hương Cốm được tác giả Thạch Lam cảm nhận với tất cả sự thanh khiết trân trọng và tự hào.
Cốm như một chứng nhân của tình yêu. Cốm là thứ quà biếu tết cho tình yêu đôi lứa thêm bền đẹp,Cốm là món quà trong sạch,trung thành như các việc lễ nghi đã trở thành lễ phẩm cao quý của thuần phong mĩ tục.
Tình yêu bền đẹp của lứa đôi cũng như " hồng cốm tốt đôi" vậy.Sắc màu hương vị của hồng,của cốm là một hương vị hòa hopwj tuyệt vời. Màu xanh tươi của Cốm như ngọc thạch quý,màu đỏ thắm hồng như ngọc lựu già,một thứ thanh đạm còn một thứ lại ngọt sắc hai vị hòa vào nhau để hạnh phúc được bền lâu.Như vậy ta có thể thấy được cach so sánh tài hoa ccuar Thạch Lam còn thể hiện một phong cách ẩm thực rất riêng biệt.
Ở phần kết của bài Thạch Lam nói về cách ăn cốm,thưởng thức cốm.Ăn Cốm không thể ăn vội mà phải ăn "từng chút ít thong thả và ngẫm nghĩ" để tận hưởng " cái mùi thơm phức của lúa mới của hoa cỏ dại ven bờ" cảm thụ được trong màu xanh của cốm,cái tươi mát của lúa non và trong chất ngọt của Cốm,cái dịu dàng thanh đạm của loại thảo mộc. Hương vị còn có " mùi thơm ngát của lá sen già,ướp lấy từng hạt cốm một..." Phong cách ăn cốm ấy,thưởng thức Cốm thứ quà tao nhã và thanh khiết ấy là một nét đẹp văn hoa con người từ xưa cho đến nay.Từ xa xưa ông cha ta có câu ca dao:
" Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An"
Tùy bút một thứ quà của lúa non- Cốm,là một tác phẩm có cốt cách và phẩm chất mang đậm chất văn chương nó đã mang đến cho chúng ta bao hương vị nhã thú,để ta thêm yêu mến và tự hào về hương vị của quê hương xứ sở.
Trong những năm 30 của thế kỉ XX, trên văn đàn Việt Nam xuất hiện một hiện tượng mới lạ của văn học: Thạch Lam. Là thành viên của Tự sự văn đoàn nhưng khác với những người anh của mình, Thạch Lam không khai thác đề tài từ những tình yêu trai gái lãng mạn, mà hướng ngòi bút của mình vào thế giới của những điều bình dị, mộc mạc, gần gũi với cuộc sống con người. Là một cây bút tinh tế, nhạy cảm, văn Thạch Lam đem đến cho người đọc những rung cảm đẹp về cuộc sống và con người.
Từ một cây bút sở trường về truyện ngắn, vốn đã nổi tiếng trên văn đàn bởi những truyện ngắn giàu chất thơ, Thạch Lam đặt chân lên một miền đất mới của văn chương và gặt hái được nhiều thành công vang dội bằng tập tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường.
Tập tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường viết về những nét sinh hoạt, những thứ quà bình dị, những phố phường, cửa hiệu., ở Hà Nội trước năm 1945. Đây là một sáng tác có giá trị rất lớn về văn hoá, phong tục và chứa đựng cả tấm lòng yêu mến quê hương đất nước, những quan niệm cần trân trọng. "Một thứ quà của lúa non: Cốm" là một sáng tác trong tập tuỳ bút ấy.
Cốm là một thứ quà bình thường và phổ biến trong dân dã. Nhưng đã mấy ai như Thạch Lam, lại có con mắt tin