Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Vọng Lư sơn bộc bố nếu dịch ra từ chữ Hán thì có nghĩa nhìn từ xa thác nước giống như một dải lụa treo trước mặt. Đây là một hình ảnh ví von cực kì chính xác và đặc biệt. Đúng như hình ảnh của nó, dải lụa dài mềm mại, tạo nên một hình ảnh thât đẹp và nhẹ nhàng. Vào thời khắc tác giả chứng kiến hình ảnh của con sông, đó là khi mặt trời chiếu rọi vào mặt nước sông và tạo ra những tia sáng phản xạ nhìn giống như con sông sinh ra một làn khói tía. Chỉ một câu thơ mà mang cho người đọc những cảm xúc chân thực và những tưởng tượng của con người về hình ảnh của dòng sông
hok tốt
Tham khảo:
Nhắc đến Lý Bạch là nhắc đến cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Ông sống vào đời Đường (701-762), học rộng, tài cao, tính tình phóng khoáng thích ngao du sơn thuỷ. Thơ ông tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn, khoáng đạt tự do bay bổng. Có lẽ như vậy mà ngọn núi Lư sơn hiện ra như một thắng cảnh tuyệt mĩ trong thơ ông:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây
(Tương Như dịch)
Lý Bạch đi nhiều, biết rộng. Hầu như tất cả các danh lam thắng cảnh trên đất nước Trung Hoa rộng lớn ông đều đặt chân tới. Bài thơ này tuyệt bút tả cảnh thác núi Lư hùng vĩ, tráng lệ qua đó biểu hiện một tình yêu thiên nhiên, yêu núi sông Tổ quốc.
Mở đầu bài thơ là cảnh thác núi Lư sơn từ xa nhìn lại:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Hương Lô là ngọn núi cao nằm phía tây bắc của dãy Lư sơn, đứng xa quan sát nó giống như một chiếc Lư Hương, làm cái phông nền cho dòng thác. Ngọn Hương Lô như gợi cho người đọc một sự liên tưởng và hình dung: ánh nắng mặt trời lan toả khoác lên dãy núi Lư lớp áo choàng huy hoàng rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy nổi lên ngọn Hương Lô, chiếc Lư Hương khổng lồ nghi ngút khói trầm hương màu tím. Đây chính là sự khúc xạ ánh sáng, trên đỉnh núi lúc này như được thắp lên những luồng sáng hàng nghìn ánh màu rực rỡ, lộng lẫy huy hoàng. Hình ảnh núi Hương Lô quan sát từ xa như vừa thực vừa ảo làm hiện lên vẻ đẹp kỳ lạ của thác núi Lư. Câu thơ như đầy màu sắc, màu trắng của thác, xanh của núi, vàng của nắng và tím của sương khói. Đằng sau câu thơ ta như thấy vị tiên thơ đang trầm ngâm ngắm cảnh, chiêm ngưỡng sự diệu kỳ này.
Cảnh Hương Lô thật kỳ tuyệt, nhưng thu hút và huyền ảo hơn vẫn là ngọn thác:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Nhan đề là vọng một vị trí quan sát từ xa, nhìn dòng thác, thác nước tuôn trào đổ xuống ầm ầm tựa ngang trời. Dòng thác qua con mắt thi tiên đã biến thành dải lụa trắng xoá mềm mại treo ngang trời. Từ quải được coi như nhãn tự của câu thơ, nó biến cái động thành cái tĩnh, thể hiện rất thực cảm giác khi nhìn thấy dòng thác từ xa. Đỉnh núi khói tía bao phủ, ngang trời, lưng núi dòng sông tuôn chảy như dải lụa mềm mại uyển chuyển, bức tranh tráng lệ kỳ vĩ biết bao:
Phi lưu trực há tam thiền xích
Đến câu thơ thứ ba này cảnh vật từ tĩnh chuyển sang động. Thế nước chảy như bay (phi lưu) được diễn tả qua hai động từ đi kèm hai trạng từ. Ta hình dung thấy núi cao, nước đổ thẳng xuống như dựng đứng, ba ngàn thước là lối nói khoa trương nhưng người đọc vẫn cảm thấy chân thực.
Bằng cảm hứng lãng mạn của mình, sự liên tưởng kỳ lạ nhà thơ đã thấy:
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Câu thơ trác tuyệt thể hiện tài năng quan sát và cảm hứng lãng mạn tuyệt vời của thi nhân. Tả thác nước thần tình giữa cái ảo và cái thực, cái hình và cái thần diễn tả được cảm giác kỳ diệu do hình ảnh thác nước gợi trong tâm khảm nhà thơ. Do vậy nghi thị (ngỡ là) rất thành công. Hồ nghi mà vẫn cho là thật. Từ trên cao ba ngàn thước, thác nước ầm ầm tuôn trào uyển chuyến mạnh mẽ nhưng mềm mại như dải lụa. Hay hơn thế tác giả ngỡ là dòng sông sao tuột khỏi chín tầng mây đang lơ lửng treo ngang trời. Đây là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ, ở đây ngôn ngữ thơ đã chắp cánh cho hồn thơ bay bổng diệu kỳ. Ngắm dòng thác Lư sơn ngỡ như lạc vào chốn bồng lai ngư phủ.
Với tình yêu thiên nhiên say đắm, thi tiên đã dựng lên bức tranh thác nước Lư sơn hoành tráng tuyệt vời. Hơn một thiên niên kỉ trôi qua đã mấy ai được đến núi Lư sơn để ngắm lại dòng thác khi nắng rọi? Quả vậy thác núi Lư làm cho thơ Lý Bạch vĩnh hằng bất tử với thời gian. Một nhà thơ khác đời Đường là Tử Ngưng phải thẹn thùng khi cất bút.
Bài thơ là một tuyệt tác, nó thể hiện trí tưởng tượng hiếm có, nét thậm xưng tráng lệ, cảm hứng lãng mạn dạt dào. Qua đó ta hiểu rõ một tâm hồn thơ say sưa với cảnh đẹp thiên nhiên đất nước. Biết bao danh lam thắng cảnh đã đi vào thơ ông để mãi mãi muôn đời nhớ đến thi tiên - Lý Bạch.
1. Mở Bài
- Giới thiệu Lý Bạch và bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư"
- Cảm xúc sâu sắc về bài thơ.
2. Thân Bài
- Thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt hàm súc.
- Nét đẹp rực rỡ và huyền diệu của làn khói tía (tử yên):
+ Ánh mặt trời tươi sáng rọi chiếu xuống núi Hương Lô, tỏa sáng trên khung cảnh núi non kỳ vĩ.
+ Nhà thơ Lý Bạch còn điểm xuyết một màu sắc vô cùng rực rỡ, lộng lẫy "tử yên" của làn khói tía bốc lên từ ngọn thác, tưởng tượng như nó là một áng mây màu chơi vơi quanh ngọn núi.
→ Từ "sinh" gợi nên sự chuyển động của ánh mặt trời, của khói tía hòa quyện vào nhau, đem lại nét huyền diệu cho cảnh thiên nhiên này.
- Niềm thán phục trước bức tranh dòng thác treo lơ lửng.
+ Từ "quải" (treo) chính là từ đem lại cho em niềm thán phục sự tài hoa của thi sĩ trong cách miêu tả.
+ Dòng thác lớn từ trên đỉnh núi cao đổ xuống, mà nhà thơ hình dung như là nó được treo lơ lửng giữa không trung, dựa vào vách núi Hương Lô kỳ vĩ.
- Người đọc sửng sốt trước sức mạnh của dòng thác bay thẳng xuống từ ba nghìn thước:
+ Dòng thác đổ như bay, chảy thẳng xuống từ ba nghìn thước.
+ Từ "phi" thật mạnh mẽ, em hiểu rằng dòng thác kia không phải là "chảy" mà là bay thẳng xuống mặt đất với tất cả sự lớn lao và sức mạnh của nó.
- Sự say mê, ngỡ ngàng thú vị trước liên tưởng về hình ảnh dòng sông Ngân Hà tuột từ mây xuống.
3. Kết Bài
- Cảm nghĩ về tài hoa của Lý Bạch.
Truong bạn hok sớm dữ , trường mik mới hok đến bài ' Sơn Quốc Nam Hà ' thôi
Của bạn nhá :
Lí Bạch được mệnh danh là “thi tiên”, với tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du sơn thủy, nhà thơ đã đi qua nhiều cảnh đẹp hùng vĩ. Vì vậy, có thể nói, thi sĩ là người có tâm hồn say đắm, tha thiết với vẻ đẹp của thiên nhiên. Đồng thời, có thể khẳng định năng lực, sự tài tình trong sáng tác thơ ca độc đáo của nhà thơ.
~ Hok tốt nhé ~ !! ^^
Nhắc đến Lý Bạch là nhắc đến cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Ông sống vào đời Đường (701-762), học rộng, tài cao, tính tình phóng khoáng thích ngao du sơn thuỷ. Thơ ông tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn, khoáng đạt tự do bay bổng. Có lẽ như vậy mà ngọn núi Lư sơn hiện ra như một thắng cảnh tuyệt mĩ trong thơ ông:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây
(Tương Như dịch)
Lý Bạch đi nhiều, biết rộng. Hầu như tất cả các danh lam thắng cảnh trên đất nước Trung Hoa rộng lớn ông đều đặt chân tới. Bài thơ này tuyệt bút tả cảnh thác núi Lư hùng vĩ, tráng lệ qua đó biểu hiện một tình yêu thiên nhiên, yêu núi sông Tổ quốc.
Mở đầu bài thơ là cảnh thác núi Lư sơn từ xa nhìn lại:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Hương Lô là ngọn núi cao nằm phía tây bắc của dãy Lư sơn, đứng xa quan sát nó giống như một chiếc Lư Hương, làm cái phông nền cho dòng thác. Ngọn Hương Lô như gợi cho người đọc một sự liên tưởng và hình dung: ánh nắng mặt trời lan toả khoác lên dãy núi Lư lớp áo choàng huy hoàng rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy nổi lên ngọn Hương Lô, chiếc Lư Hương khổng lồ nghi ngút khói trầm hương màu tím. Đây chính là sự khúc xạ ánh sáng, trên đỉnh núi lúc này như được thắp lên những luồng sáng hàng nghìn ánh màu rực rỡ, lộng lẫy huy hoàng. Hình ảnh núi Hương Lô quan sát từ xa như vừa thực vừa ảo làm hiện lên vẻ đẹp kỳ lạ của thác núi Lư. Câu thơ như đầy màu sắc, màu trắng của thác, xanh của núi, vàng của nắng và tím của sương khói. Đằng sau câu thơ ta như thấy vị tiên thơ đang trầm ngâm ngắm cảnh, chiêm ngưỡng sự diệu kỳ này.
Cảnh Hương Lô thật kỳ tuyệt, nhưng thu hút và huyền ảo hơn vẫn là ngọn thác:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Nhan đề là vọng một vị trí quan sát từ xa, nhìn dòng thác, thác nước tuôn trào đổ xuống ầm ầm tựa ngang trời. Dòng thác qua con mắt thi tiên đã biến thành dải lụa trắng xoá mềm mại treo ngang trời. Từ quải được coi như nhãn tự của câu thơ, nó biến cái động thành cái tĩnh, thể hiện rất thực cảm giác khi nhìn thấy dòng thác từ xa. Đỉnh núi khói tía bao phủ, ngang trời, lưng núi dòng sông tuôn chảy như dải lụa mềm mại uyển chuyển, bức tranh tráng lệ kỳ vĩ biết bao:
Phi lưu trực há tam thiền xích
Đến câu thơ thứ ba này cảnh vật từ tĩnh chuyển sang động. Thế nước chảy như bay (phi lưu) được diễn tả qua hai động từ đi kèm hai trạng từ. Ta hình dung thấy núi cao, nước đổ thẳng xuống như dựng đứng, ba ngàn thước là lối nói khoa trương nhưng người đọc vẫn cảm thấy chân thực.
Bằng cảm hứng lãng mạn của mình, sự liên tưởng kỳ lạ nhà thơ đã thấy:
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Câu thơ trác tuyệt thể hiện tài năng quan sát và cảm hứng lãng mạn tuyệt vời của thi nhân. Tả thác nước thần tình giữa cái ảo và cái thực, cái hình và cái thần diễn tả được cảm giác kỳ diệu do hình ảnh thác nước gợi trong tâm khảm nhà thơ. Do vậy nghi thị (ngỡ là) rất thành công. Hồ nghi mà vẫn cho là thật. Từ trên cao ba ngàn thước, thác nước ầm ầm tuôn trào uyển chuyến mạnh mẽ nhưng mềm mại như dải lụa. Hay hơn thế tác giả ngỡ là dòng sông sao tuột khỏi chín tầng mây đang lơ lửng treo ngang trời. Đây là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ, ở đây ngôn ngữ thơ đã chắp cánh cho hồn thơ bay bổng diệu kỳ. Ngắm dòng thác Lư sơn ngỡ như lạc vào chốn bồng lai ngư phủ.
Với tình yêu thiên nhiên say đắm, thi tiên đã dựng lên bức tranh thác nước Lư sơn hoành tráng tuyệt vời. Hơn một thiên niên kỉ trôi qua đã mấy ai được đến núi Lư sơn để ngắm lại dòng thác khi nắng rọi? Quả vậy thác núi Lư làm cho thơ Lý Bạch vĩnh hằng bất tử với thời gian. Một nhà thơ khác đời Đường là Tử Ngưng phải thẹn thùng khi cất bút.
Bài thơ là một tuyệt tác, nó thể hiện trí tưởng tượng hiếm có, nét thậm xưng tráng lệ, cảm hứng lãng mạn dạt dào. Qua đó ta hiểu rõ một tâm hồn thơ say sưa với cảnh đẹp thiên nhiên đất nước. Biết bao danh lam thắng cảnh đã đi vào thơ ông để mãi mãi muôn đời nhớ đến thi tiên - Lý Bạch.
“Xa ngắm thác núi Lư” là một trong số những bài thơ tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ Lý Bạch.
- Vị trí đứng ngắm thác nước của tác giả: Căn cứ vào tiêu đề bài thơ có chữ vọng: trông từ xa và câu thơ thứ hai có chữ dao: “dao khan” và “vọng Lư sơn bộc bố”: xa ngắm thác núi Lư. Như vậy, vị trí đứng ngắm thác nước của tác giả phải từ ở xa nhìn lại
- Với thế đứng của mình, tác giả sẽ nhìn thấy toàn bộ vẻ đẹp của cảnh, thấy được sự hùng vĩ của thác nước.
- Lí Bạch được mệnh danh là “thi tiên”, với tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du sơn thủy, nhà thơ đã đi qua nhiều cảnh đẹp hùng vĩ. Vì vậy, có thể nói, thi sĩ là người có tâm hồn say đắm, tha thiết với vẻ đẹp của thiên nhiên. Đồng thời, có thể khẳng định năng lực, sự tài tình trong sáng tác thơ ca độc đáo của nhà thơ.
- Câu thứ nhất tả vẻ đẹp của mặt trời chiếu trên đỉnh núi Hương Lô: dưới những tia nắng của mặt trời và làn hơi nước phản quang. Thác nước bắn tung bọt, hơi nước tỏa ra như sương khói, mặt trời phản quang ánh sáng sinh ra những khói tía huyền ảo. Nhìn từ xa, đỉnh Hương Lô giông như một lư hương khổng lồ. Với động từ “sinh”, ánh sáng đó xuất hiện giống như chủ thể làm cho sự vật như được sinh sôi và trở nên sống động.
- Câu thơ đầu tả núi Hương Lô có tác dụng làm phông nền cho hình ảnh của thác nước được miêu tả cụ thể ở ba câu tiếp theo, tôn lên vẻ đẹp hoành tráng của thác nước.
Qua bài học giúp các em nắm được vẻ đẹp thiên nhiên mà Lí Bạch miêu tả qua bài thơ. Bước đầu nhận biết mối quan hệ gắn bó giữa tình và cảnh trong thơ cổ.
Lí Bạch (701 – 762) là nhà thơ nổi tiếng thời thịnh Đường. Ông được mệnh danh là thi tiến. Ông để lại trên 1000 bài thơ với phong cách lãng mạn, bay bổng, tràn đầy cảm xúc và tưởng tượng, khắc hoạ thành công những hình tượng kì vĩ, hào hùng. “Xa ngắm thác núi Lư” là một trong những bài thơ tả cảnh tuyệt bút của ông miêu tả về cảnh thác núi Lư hùng vĩ, tráng lệ. Một trong những yếu tố góp phần làm nên thành công cho bài thơ bởi nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của ông vừa tinh tế, vừa độc đáo.
Thơ thất ngôn tuyệt cú của ông là thất ngon tuyệt cú bậc nhất đời Đường, được xưng tặng là “tay thanh tuyệt cú”. Và “Xa ngắm thác núi | Lư” cũng được làm theo thể thơ này. Chỉ vẻn vẹn 28 chữ nhưng đã dựng lên trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh về núi Lư và thác núi Lư. Một bức tranh của chốn bồng lai tiên cảnh nơi đất Trung Quốc đã được tâm hồn bay bổng của “thi tiên” nâng lên, càng làm cho cảnh trí đẹp thêm bội phần..
Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt buộc Lí Bạch miêu tả khung cảnh về thế đứng uy nghi của núi Lư:.
“Nhật chiếu Hương Lộ sinh tử yên”
Thủ pháp đầu tiên dễ nhận ra là tác giả sử dụng nghĩa của địa danh để tạo dựng ý thơ. Hương Lô, tên một ngọn núi trong dãy Lư Sơn trùng điệp ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, nghĩa đen là lò hương. Một ngọn núi đỉnh tròn quanh năm mây khói bao phủ xa trông như chiếc lò hương thiên tạo khổng lồ. Lí Bạch đã khởi hứng từ nghĩa này mà đặt nó tương quan với mặt trời, với ánh nắng, với khói sương đế dựng nên một phong cảnh làm nên cho các phong cảnh tiếp theo. Hơn nữa, trong câu thơ đâu tác giá thực sự tài tình khi đã khéo kết hợp hoàn cảnh đa dạng trong một câu thơ bảy chữ ngắn gọn mà súc tích. Đó gần như là một sự đồng hiện trong một tổ chức ngôn ngữ chật hẹp. Cái vĩnh hằng của mặt trời (nhật), cái ổn định bất biến của núi (Hương Lô) cái lung linh, khả động, khả biến của sương khói (yên) kết hợp với sự chuyển hóa (sinh) làm cho câu thơ đẹp một cách vừa dồn nén, vừa huy hoàng. Cách miêu tả của tác giả thật độc đáo, vượt qua cách miêu tả thiên nhiên núi non thông thường là đỉnh cao, mây trắng bao phủ. Chỉ tập trung miêu tả những chi tiết nổi bật, không khắc họa cảnh vật chi tiết, tỉ mỉ nhưng người đọc dễ phát hiện ra vẻ đẹp của toàn cảnh. Một không gian núi non thanh bình đầy hùng vĩ nơi đất Trung Quốc, một tổng thể không gian nền của thác Bộc Bố như một ngôi bàn thờ kì vĩ giữa vũ trụ đang ngào ngạt khói hương đem cho ta một cảm giác của niềm thành kính thiêng liêng trước cảnh quan, một rung động mãnh liệt về một cảnh tượng núi non đẹp tuyệt vời. Ngay từ câu thơ đầu, Lí Bạch đã thể hiện sự hình dung, tưởng tượng phong phú của mình. Hình ảnh mặt trời, ngọn núi, màu khói tía được xếp đặt trong một thứ ngôn từ giản đơn, dễ hiểu và tự nhiên, thể hiện con mắt nhìn và óc quan sát thiên nhiên tinh tế, sắc sảo của Lí Bạch.
Không dừng lại ở khung cảnh núi non, tiến thêm một bước, Lí Bạch tả cảnh thác nước, dòng sông. Nếu như câu thơ đầu tả “sơn” thì những câu thơ tiếp, Lí Bạch tả “thủy”:
“Dao khan bộc bố quải tiến xuyên
Phi lưu trực tá tam thiên xích
Nghi thi Ngân Hà lạc cửu thiên”
Trong câu thơ trước, Lí Bạch không nói rõ vị trí đứng của mình khi tả hình thể núi Lư thì ở câu hai, tác giả đã chọn được điểm nhìn phù hợp từ xa để chiêm ngưỡng thưởng thức vẻ đẹp tráng lệ, hùng vĩ đầy uy lực của thác nước. Dưới ngòi bút tài hoa của ông, cảnh sông núi thanh tú, cảnh chiến trường hùng vĩ, vầng trăng lồng lộng… đều hiện ra hết sức sống động, tự nhiên. Không gì có thể ngăn trở nổi ý chí tưởng tượng sáng tạo mãnh liệt của ông. Và bất cứ đề tài nào thơ ông cũng giàu cảm xúc, luôn bay bổng, phóng khoáng, uyển chuyển. Không ngoại lệ, miêu tả thiên nhiên núi Lư – một vẻ đẹp phong cảnh của Trung Quốc cũng trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt trong sáng tác thi ca của ông. Thơ ông thường có những lý tưởng so sánh đột ngột, hoành tráng: “Hoàng Hà như kiếm tự thanh thiên”. Lí Bạch có ý tưởng để miêu tả thác Bộc Bố trong một động thái tĩnh hóa đế gắn vĩnh viễn nó với phông nền rực rỡ của bức tranh. Một vật thể mang độ bền cao mới “quái” được, đằng này Bộc Bố là thác nước rất khả động. Thủ pháp tính hóa này được tạo dựng bởi hai lẽ: Thứ nhất, hình ảnh dòng sông là động khi so sánh với đôi bờ, so với núi non. Nhưng vì so với một con thác kỳ vĩ như từ trên trời trôi xuống thì sống là sự phẳng lặng, sự bình yên như bất biến. Thứ hai, ở tư thế nhìn từ xa của tác giả thì dòng thác sẽ là một thảm nước trắng dựng đứng giữa hai bờ núi non, “Bộc Bố quải tiền xuyên” đó là một khoảnh khắc cố định hóa, tạo hình hóa thuộc trạng thái tĩnh. Bút pháp tác giả tựa hồ như một lần bán máy chip lại một khoảnh khắc đẹp, một khoảnh khắc tuôn trào đổ ầm ầm xuống tạo thành một dải lụa trắng treo giữa vách núi thật tráng lệ. – Chỉ một câu thơ bảy chữ, Lí Bạch đã diễn tả sự quy mô khổng lồ và tốc độ ghê gớn của thác nước. Một trạng thái tĩnh đầy thế năng. trong tĩnh chất chứa cái động lớn lao. Câu thơ thứ 3, tác giả sử dụng, nghệ thuật lay động tả tĩnh. “Phi lưu”: tuôn xuống như bay. Phải cộng cả hai động từ lại để nói lên tốc độ, năng lượng kì diệu của dòng thác. Hướng đổ là thẳng xuống (trực hà). Chảy thẳng từ một độ cao vòi vọi, chóng mặt “tam thiên xích”. Một độ cao có thể vừa thực vừa ảo. Đứng mà ngắm thì quả là như tuôn từ trời cao xuống vậy. Dẫu độ cao này là tượng trưng đi chăng nữa nhưng nhà thơ đã diễn đạt nó bằng số từ và bằng đại lượng đo lường đã tạo nên cảm giác cụ thể, có thật, khả tin. Ấy vậy mà, tác giả đã bị khuất phục tiếp nhận dòng thác trong một trạng thái đây nghi ngơ như là giải Ngân Hà, dòng sông tưởng tượng của huyền thoại đang hiện hữu tức khắc ở trốn trần gian. Biện pháp khoa trưởng mạnh bạo đã được ông thể hiện để miêu tả dòng thác núi Lư, một thủ pháp quen thuộc trong thơ của Lí Bạch. Thác Bộc Bố có thật đã được huyền thoại hóa, tưởng như một giải Ngân Hà với hàng trăm triệu vì sao lấp lánh kéo dài. Tầm vóc hoành tráng của nó đã ngang tầm vũ trụ. Cách so sánh vừa độc đáo, vừa hợp lý làm cho người đọc rất bất ngờ. Bằng lối miêu tả kết hợp so sánh khiến hình ảnh núi Lư hiện lên vẫn rất chân thực, nó thể hiện một tâm hồn thần tiên của Lí Bạch đã sáng tạo một chi tiết vừa thực vừa hư.
Nghệ thuật miêu tả của ông trong thơ sâu sắc lại tinh tế, độc đáo và hấp dẫn gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc. Một con người với tâm hồn lãng mạn, bay bổng, phóng khoáng, trang nghiêm mới có được bút pháp miêu tả tưởng tượng phong phú khác thường như thế.
Bên cạnh nghệ thuật miêu tả đã làm nên thành công cho bài thơ thì ngôn ngữ điêu luyện, chính xác và giàu hình ảnh cũng làm nên thành công rực rỡ này. Trong mỗi câu thơ Lí Bạch dùng một “thi nhãn” để miêu tả. “Thi nhãn” ở đây là những động từ “sinh”, “quái”. Hai động từ “phi lưu”đặt ở đầu câu 3 diễn tả tốc độ mạnh mẽ, ghê gớm của dòng thác. Hai tính từ nối tiếp “trực há”gọn, dứt khoát, miêu tả tư thế thiên nhiên của thác núi Lư. Nếu sự bất ngờ đột biến của từ ngữ được Lí Bạch thể hiện ở 3 câu thơ trên, thì đến câu thơ cuối động từ “lạc” được tác giả sử dụng tài tình, khéo léo làm nổi bật nội dung của toàn bộ bài thơ. Thác núi Lư từ trạng thái “treo” (quải), “bay chảy” (phi lưu) và cuối cùng Lí Bạch có cảm giác nó như một giải Ngân Hà từ bầu trời “rơi tuột” (trực há) xuống trần gian.
Trí tưởng tượng hiếm có, nét vẽ thậm xưng tráng lệ, cảm hứng lãng mạn dạt dào là những yếu tố làm nên cốt cách áng thơ kiệt tác này.
Lí Bạch, nhà thơ nổi tiếng đời Đường Trung Quốc là bậc thầy của chủ nghĩa lãng mạn tích cực. Ông có tiếp thu ảnh hưởng của Thi kinh nhưng ảnh hưởng sâu sắc nhất với ông là “Sở từ” của Khuất Nguyên. Lí Bạch kế thừa Khuất Nguyên nhưng cao hơn với tinh thần cách tân sáng. tạo. Bút pháp khoa trương và trí tưởng tượng phong phú trong mọi đề tài, đặc biệt là đề tài về thiên nhiên. Thiên nhiên như một người bạn tri ân trí đắc, niềm vui là sự động viên lớn trong tinh thần ông. Và trong bài “Xa ngắm thác núi Lư”, một tình yêu thiên nhiên đến sâu thẳm, trân trọng và ca ngợi thiên nhiên quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình với một tâm hồn tự do, phóng khoáng là những gì mà người đọc đã cảm nhận được trong linh hồn bài thơ. Bên cạnh đó, ông đã khéo kết hợp các cách thể hiện tính lãng mạn như thần thoại hóa, nhân cách hóa, khoa trương cùng với một thứ ngôn ngữ hào phóng, khi thì tung hoành mạnh. mẽ như “nộ đào hồi lãng”khi thì dịu dàng hư ảo như “huyền ngoại âm,vị ngoại vị” để tạo nên những hình tượng nghệ thuật kì vĩ, biểu hiện những lí tưởng và nguyện vọng đẹp đẽ cũng như lòng yêu ghét mãnh liệt do hiện thực gây ra.
Trong thơ Đường, bên cạnh Lí Bạch còn có Đỗ Phủ. Nếu như Lí Bạch được mệnh danh là Tiên thơ thì Đỗ Phủ được mệnh danh là Thánh thơ. Nếu như Lí Bạch sống trong thời kì Trung Quốc đang phồn vinh, quyền lợi thống trị và quyền lợi nhân dân được thống nhất, cảm hứng của con người lúc này được bay bổng lên cao trong tâm hồn của tự do, phóng khoáng thì Đỗ Phủ lại sống trong thời kì của ung nhọt chế độ phong kiến Trung Quốc, thời kì của những cuộc chiến tranh tranh chấp địa vị, cản hứng của con người lúc này lại bị dồn nén cùng lòng thương cảm cho cái nghèo, cái khổ… trong tâm trạng của bức bối. Tóm lại, Lí Bạch là một nhà thơ phóng khoáng bay bổng, ít chịu ảnh hưởng của Nho gia mà chịu ảnh hưởng nhiều hơn ở Đạo gia và Du hiệp, bởi thế ông là người theo chủ nghĩa lãng mạn tích cực.
Thơ của ông đã đề cập đến nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước Trung Hoa để từ đó đi sâu vào lòng người khắp mọi nơi trên hành tinh. “Xa ngắm thác núi Lư” đã mở rộng tầm nhìn, làm phong phú hơn tâm hồn chúng ta trong cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, nâng tâm hồn ta lên tầm cao nhân văn khi tiếp cận các danh lam thắng cảnh trong và ngoài nước.
#Trang