K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

2 tháng 1 2018
- Đường về đất đỏ miền Đông
Cao su bao lá hận lòng bấy nhiêu.
- Trần gian địa ngục là đây
Đồn điền Đất Đỏ nơi Tây giết người. Vũng Tàu núi lớn, vũng sâu
Khoan xuống một cái là dầu trào lên.
Vũng Tàu đất chật người đông Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều!
2 tháng 1 2018

Vũng Tàu núi lớn, vũng sâu
Khoan xuống một cái là dầu trào lên.

Đường về đất đỏ miền Đông
Cao su bao lá hận lòng bấy nhiêu.
- Trần gian địa ngục là đây
Đồn điền Đất Đỏ nơi Tây giết người. Vũng Tàu đất chật người đông
Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều!
11 tháng 1 2018

nói vê đồ sơn là ở hải phòng nha

Đồ Sơn là nơi có vốn văn vần dân gian phong phú với những ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ, phương ngôn, hò, vè phản ánh đậm cảnh vật và cuộc sống người Đồ Sơn xưa và nay. Thiên nhiên đã tạo cho Đồ Sơn một hình dáng và vị trí địa lí độc đáo:

Chín con theo mẹ dòng dòng

Còn một con út ra lòng bất nhân

Đong kia núi Đọc phản thân

Tây kia núi Mẫu chin lần ôm con

Đồ Sơn cũng là nơi có địa hình hiểm trở:

Đồ Sơn bát quái

Tứ hải thành xây

Ai mà tới đây

Đừng hòng trở lại

Ngạn ngữ, phương ngôn. Tục ngữ, ca dao nói về phong cảnh, về nghề nghiệp,…nhiều câu chứa chan tình người, tình thương yêu gắn bó cộng đồng xã hội , tình yêu nam nữ và tinh thần lao động cần cù chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt , với thú rừng , với giặc dã .Nhiều bài ca dao đúc kết kinh nghiệm sản xuất , kinh nghiệm đi biển để phổ biến cho nhau và truyenf lại cho đời sau . Nhiều câu phương ngôn nói về nghề khai thác biển ở Đồ Sơn , chỉ ra những địa danh tiêu biểu của mỗi nghề truyền thống :

Bắt ốc Mái nhà

Đánh hà Bờ giữa

Xin lửa ông Rao

Cạo ngao Vạn Bún

Bắt cụm Hang Trê

Chạy về Đầu Độc

Làm chủ kỹ thuật và những phương tiện của nghề biển , ấy là những con người có một bản sắc tinh thần , thể chất đặc biệt kiểu Đồ Sơn. Người Đồ Sơn thường có dáng vóc to lớn , da săn lại vì nhuộm nắng vàng và ngâm muối mặn biển Đông .Con người ở đây có dáng đi mạnh mẽ , hành động kiên quyết m giọng có âm lượng lớn và tính tình bộc trực.Vì vậy , ngạn ngữ Đồ Sơn có câu “Ăn sóng , nói gió”.

Cuộc sống vật lộn với biển khơi đã tạo cho họ lòng dũng cảm phi thường :

Gặp giông tố chẳng rời tay lái

Làn sóng dâng hang hái vượt qua

Mênh mông mặt nước bao la

Cánh buồm không gió thì rat ay chèo

Người Đồ Sơn hiểu biết thiên nhiên khá phong phú , đặc biệt là việc việc dự báo thời tiết .Những câu tục ngữ của Đồ Sơn phần nào nói lên điều đó :

-Chớp Gôi bỏ nồi rang thóc

-Chớp Đầu Độc bỏ thóc ra phơi

Người Đồ Sơn thường nói: dũng cảm và thông minh là cần thiết , nhưng chưa đủ .Khi đã lên con thuyền , điều cần nhất đối với những người có mặt ở đó phải là một tập thể có cùng chung ý chí:

Chém nhau đằng mũi , hòa nhau đằng lái

Trong đời sống hàng ngày, người Đồ Sơn biểu hiện thế ứng xử rất văn hóa .Ăn trông nồi ngồi giữa thuyền .Và một tinh thần rất mực lạc quan yêu đời :

Quanh năm đánh cá trăm nghề

Đến lúc nước kém lại về vui chơi

Qua lao động sản xuất , người Đồ Sơn đã xây dựng nên một sắc thái văn minh tinh thần phong phú .Với tất cả bản tính tốt đẹp của người lao động , thanh niên Đồ Sơn đã từng là mơ ước của các cô gái vùng duyên hải:

Trai lấy vợ sang huyện Hoa Phong

Gái lấy chồng Đồ Sơn –Bát Vạn

Nghề muối vốn là nghề thủ công cổ truyền mang tính thời vụ .Từ bao đời nay , người làm muối Bàng La luôn vất vả , cực nhọc , giành giật với thiên nhiên từng ngày nắng để sản xuất .Quanh năm với 2 vụ muối mùa (tháng 5-8) và vụ đông hanh (tháng 10-12); năm thời tiết thuận lợi nhất được chừng 155 dến 165 ngày , còn bình thường chri đạt 120-130 ngày năng .Trong những ngày nắng như đổ lửa , khi mọi người lao động khác tranh thủ nghỉ ngơi dưới những bóng cây xum xuê mát dịu , bà con nghề muối lại phải đổ ra đồng thu cát , chở cát , lọc chạt , phơi ẻ…

Tình cảnh lam lũ , đơn điệu của người làm muối Bàng La trước đây đã từng được phản ánh trong ca dao:

Đời ông cho chí đời cha

Có một đống cát xe ra , xe vào…

Không chỉ cần cù vật lộn với biển khơi , muối mặn ,người Đồ Sơn còn biết tận dụng nghề nghiệp để rèn luyện sức khỏe chống chọi với thiên nhiên .Bài ca dao sau đây đã nói lên điều đó:

Đồ Sơn có ba môn này

Không thày mà học đố mày làm nên

Đấu kỳ , lao phóng như tên

Phi trùy trúng huyệt hồn lên thiên đàng

Thủ thì chùa Độc , chùa Hang

Thắng thì giữ lấy xòm làng thành công

Văn vần dân gian Đồ Sơn giúp chúng ta thêm hiểu non nước Đồ Sơn kể từ khi con người đến “khai sơn , phá thạch”đến nay.

1.2 Văn xuôi dân gian:

Văn xuôi dân gian ở Đồ Sơn bao gồm những huyền tích , thần thoại và truyền thuyết … Những tác phẩm này có nhiều yếu tố hoang đường , nhưng đều chứa đựng những nhân tố hiện thực .Đó là sự tích những vị thần hoàng làng , những nhân vật lịch sử , những người có công đến “Khai thiên , lập địa” vùng đất này.

Sự tích lục vị Tiên Công

Tuy rằng , hiện nay còn có những ý kiến khác nhau về những người đầu tiên đến Đồ Sơn sinh cơ lập nghiệp , nhưng người Đồ Sơn đều tôn vinh 6 cụ của sáu dòng họ có công đầu khai phá mở mang đất đai .Đó là các cụ:lương Nuôi Nường, Lê Hải Bộ, Đinh Chàng Ngọ, Hoàng Đại Hùng, Nguyễn Thanh Sam và Phạm Cao Sơn. Sáu cụ đều được người Đồ Sơn lập đền thờ và về sau được phong tôn thần là Lục vị Tiên công (xem thêm phần tín ngưỡng).

Vị thần họ Lương do có công tiễu trừ giặc biển có tài trị an và quân sự lên được giao trách nhiệm coi sóc toàn hạt .Họ Lương lúc đầu định cư ở thôn Đông .Vị thần họ Lê định cư ở Ngọc Xuyên .Vị thần họ Đinh định cư ở làng Ngọc Xuyên .Vị thần họ Hoàng định cư ở Đồ Hải .Vị thần họ Nguyễn định cư ở thôn Nam .Vị thần họ Phạm định cư ở núi Cao.Ngày nay cả 6 dòng họ này đều phát triển thành nhiều chi.

Trước kia , vị thần họ Lương được thờ ở núi Độc , vị thần họ Hoàng thờ ở Đồ Hải , vị thần họ Đinh thờ ở Ngọc Xuyên và vị thần họ Phạm thờ ở Vũng Ngọc .Các đền thờ này bị hỏng dần , đến năm 1988 dân sở tại rước cả 6 vị về thờ ở đền Nghè (thuộc phường Vạn Hương bây giờ).

Truyền thuyết Nam hải Lão Đảo thần vương

Truyền thuyết Nam hải Lão Đảo thần vương .Người Đồ Sơn có nhiều truyền thuyết về vị thần được tôn thờ này .Ngôi đền xây từ bao giờ vừ thờ vị thần nào , hiện nay chưa có những ghi chép có tính khoa học .Song căn cứ và dấu tích và truyền thuyết lịch sử , dân sở tại cứ quen gọi vị thần đó là Lão Đảo thần vương .Có truyền thuyết kể rằng thời dân tộc ta chống quân xâm lược Mông Nguyên , một đêm thấy có xác người không đầu dạt vào bờ biển Hòn Dáu .Quan sát áo quần người ta cho rằng đây là một vị tướng nhà nhà Trần tử trận .Thi hài vị tướng được đưa lên bờ khâm liệm , chờ tới sáng thì chôn cất . Sáng hôm sau , khi lên bờ đã thấy mối đùn ở nơi đặt thi hài vị tướng thành mộ .Mọi người tạ lễ và sửa sang phần mộ .Những ngày sau đó , vị võ tướng hiển linh thành 1 cụ già râu tóc bạc phơ ngồi câu cá , lúc ẩn lúc hiện .Hỏi tên , cụ chỉ cười không nói , vì thế người ta gọi cụ là Lão Đảo thần vương .Để tưởng nhớ công ơn của vị tướng, nhân dân đặt đền thờ tại đảo Dáu .Ngôi đền trở nên linh thiếng .Thuyền bì các nơi qua lịa đấy đều ghe vào đảo cũng lễ cầu may .Từ đó , hàng năm dân làng mở Hội vào các ngày từ mùng 8 đến mùng 10 tháng 2 âm lịch .Đêm mùng 9 là đêm Thần hiển linh về phán bảo những điều tốt lành cho dân làng .Lễ vật dâng lên vị thành trong những ngày này phải có 1 áo , 1 nón 1 rỏ , 1 cần câu , những lễ vật đó mỗi năm phải thay đổi 1 lần.

Huyền thoại Bà Đế

Huyền thoại Bà Đế được một nhà nghiên cứu người Pháp là Paul Munier căn cứ vào lời nhân dân địa phương kể và nội dung tấm bia đá ở đền biên soạn thành sách “La lesgende de BaDe”,nhà xuất bản IDEO, Hà Nội , 1930 .Dựa vào tài liệu của P.Munier , năm 1942 G.Specht soạn thành kịch bản phim và dựng phim câm .Thời Pháp tạm chiếm Hải Phòng , đoàn Chuông Vàng soạn ca kịch cải lương , gần đây cũng có kịch bản chèo vè đề tài này và đều đã công diễn.

Nội dung chuyện kể về một cô thôn nữ tên là Ngô (hay Phạm ) Thị Đế xinh đẹp và hát rất hay .Nàng thường lên núi cắt cỏ và hát :

Tay cầm bán nguyệt xênh sang

Muôn vàn cây cỏ lại hàng tay ta

Một lần , nàng cất giọng hát , vua Thủy Tề ngồi dưới thuyền nghe hát , vội lên núi tìm người .Thấy một cô gái đẹp đang cắt cỏ , trên đầu có may vàng che phủ biết không phải là người thường , Vua liền đón xuống thuyền .Hai người ân ái với nhau suốt ngày hôm đó , mãi đến tối mới chia tay .Đế về nhà , thời gian sau , nàng sinh 1 con trai .Dân làng không biết cuộc tình duyên của Đế với vua Thủy Tề neen đã đuổi cô khỏi làng .Ngày ngày Đế phải đi mót thóc , kiếm khoai về nuôi con … Nhưng rồi một số kẻ độc ác muốn được ăn uống bèn kiếm kế phạt vạ , rồi mang Đế ra biển dìm.Nhưng khi chúng trói chặt Đế bằng dây thừng vào đá rồi đẩy nàng xuống biển thì lạ thay , Đế vẫn nổi người lên ,Thấy lạ , bọn sát nhân hoảng hốt bỏ chạy (có dị bản kể rằng mấy tên chở Đế kêu oan cho dến lục chết chìm dưới biển).Theo truyền thuyết Đế không chết , nhưng không bao giờ nó trở về quê hương xứ sở nữa .Nàng đã được vua Thủy Tề - chồng nàng đón về thủy cung.

Thật hết sức khó khan để tìm ra cốt lõi trong huyền thoại Bà Đế khi chúng ta có rất ít tư liệu đối chứng .Dù sao thì giá trị nhân văn trong huyền thoại Bà Đế cần được trân trọng

2. Văn học thành văn.

Cùng với truyền thống sáng tạo văn học dân gian bền vững của người Đồ Sơn xưa, trên vùng đất này lực lượng văn học thành văn đã bắt đầu xuất hiện những Nguễn Quang Khuê, Nguyễn Văn Liêm, Ngô Quốc Côn v.v… Văn học thành văn tuy không nhiều, nhưng những tác phẩm còn lại đến nay đã in sâu trong ký ức người Đồ Sơn và dược truyền tụng qua nhiều thế hệ (xem thêm phần phụ lục cuối sách).

Đó là các bài thơ: Trần Tình Văn (của Nguyễn Quang Khuê), Đồ Sơn phong cảnh ngâm, Đồ Sơn bát vạn (khuyết danh), Đồ Sơn ký (của Nguyễn Bình Kiêm)…, Đặc biệt có tám bài thơ vịnh cảnh Đồ Sơn (Đồ Sơn bát vịnh) của Hoàng Văn Hoàn… Tám bài thơ đó là: Đông Sơn thừa lương (Hóng mát ở núi Đông); Long tỉnh quán trạc (tắm giếng Rồng); Cốc tự tham thiền (Thăm chùa Hang); Thạch phố quan ngư (Xem đánh cá bến Đá); Tháp sơn hoài cổ (Thăm núi tháp nhớ về xưa); Phật tích tầm u (Tình cảnh u hyền ở hàng Phật tích); Đăng Đông Sơn tự kiến ký (Lên chùa Đông Sơn ghi lại) và Khánh Minh cảm tự (Cảm hứng khi lên chùa Khánh Minh).

Tương truyền khi đến Đồ Sơn, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lấy vợ lẽ có tên là Nguyễn Thị Minh Nguyệt và ông ứng tác đôi câu đôi:

- Trai Đồ Sơn đứng núi Đồ Sơn.

Sơn sơn xuất anh hung hào kiệt.

- Gái cổ Nguyệt tắm hồ Cổ Nguyệt.

Nguyệt Nguyệt bằng tài tử giai nhân.

Có người Đồ Sơn cho rằng những câu này không phải của Nguyễn Bình Kiêm, mà là một câu đối khuyết danh, dùng phương pháp chơi chữ có liên quan đến nữ sĩ Hồ Xuân Hương:

Hai chữ “Sơn” ghép lại thành chữ “xuất”,

Hai chữ “Nguyệt” ghép lại thành chữ “bằng”.

Và chữ “Cổ” ghép với chữ “Nguyệt” thành chữ “Hồ”.

Trước cách mạng tháng Tám (1945), văn học thành văn của Đồ Sơn cũng không nhiều. Đặng Xuân Thiều trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình có dịp qua Đồ Sơn cũng không nhiều. Đặng Xuân Thiều trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình có dịp qua Đồ Sơn và sáng tác những vần thờ đặc sắc. Chính tại Đồ Sơn và Hải Phòng, Đặng Xuân Thiều đã viết “Vô sản diễn ca” (dài 400 câu) để truyền bá tư tưởng Lê Nin và kêu gọi cách mạng vô sản. Bên cạnh những vần thờ cách mạng ấy, người Đồ Sơn còn có những vần thơ nói về tinh thần đấu tranh chống áp bức cường quyền, chống sưu cao thuế nặng. Thơ ca của tác giả không chuyên Bàng La đã tố cáo cảnh thực dân Pháp bóc lột cấm đoán nghề làm muối một thời của họ:

Em là con gái Bàng La

Vốn nghề làm muối ông cha gia truyền.

Nhớ xưa giặc Pháp cầm quyền.

Lòng em căm tức lo phiền lắm nao.

Bất kỳ muối mắn là bao,

Đổ đi thì tiếc trông vào càng thương.

Ơn trời ngày nắng đêm sương

Gánh vào kho đổ cho phường thực dân.

Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ (1946), vùng đất Đồ Sơn là một trong những nơi đi về thân thiết của một số nhà văn, nhà thơ như Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng… Nhưng rất tiếc chưa có tác phẩm nào viết về Đồ Sơn; đến nay, chỉ mới sưu tầm lẻ tẻ được một số bài thơ của các tác giả không chuyên người Đồ Sơn viết về tinh thần đấu tranh anh dũng trong những ngày đầu kháng chiến của vùng đất này:

Bãi trường bay mấy lần vọng gác,

Bốn xung quanh dây thép gai rào,

Đội quân cảm tử mưu cao

Đêm hai tám (28) Tết lọt vào tiến công

Trung đội Ngô Chủng xung phong,

Lưu Tình, Đỗ Phấn quyết lòng hy sinh

Thời kỳ này, chính quyền các làng xã Đồ Sơn vận động nhân dân “lá lành đùm lá rách”, nhường cơm sẻ áo cho nhau và noi gương Hồ Chủ Tich, 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, lập “hũ gạo tiết kiệm” ủng hộ tài sản, tiền, vàng… Tập trung cho cuộc kháng chiến nuôi quân đánh giặc. Nhiều bài thơ ở Bàng La phản ánh điều đó:

Nhà em có cái nồi đồng

Bây giờ nó thủng còn mong gì hàn

Đem ra mà cúng Ủy ban

Để mà đúc đạn bắn tan quân thù

Đáng chú ý là hai cuốn sách: Non nước Đồ Sơn của Trịnh Cao Tưởng xuất bản năm 1978 và Lưu Văn Khuê xuất bản năm 1997. Đây là những sách tham khảo cứu công phum nhưng còn những điểm cần được đính chính bổ sung để hoàn chỉnh hơn.

3. Phong trào văn hóa quần chúng

Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ (1946), Đồ Sơn còn là một trong những địa bàn có phong trào ca hát…động viên phục vụ người ra trận. Ngay từ những năm đầu kháng chiến, mỗi địa phương làng, xã Đồ Sơn đã thành lập tổ xung kích để mang lời ca, tiếng hát phục vụ ngay tại địa phương mình. Bằng những “tác phẩm” tự biên, tự điễn đã góp phần nhỏ bé động viên người thân lên đường vì cuộc kháng chiến trường kỳ và anh dũng của dân tộc. Mãi đến năm 1954, Đồ Sơn mới thành lập đội nhạc có 10 người, do Đinh Xuân Ngọ phụ trách. Nhạc cụ bao gồm đàn ghi ta, sáo, đàn măng đô lin, nhị, đàn an tô, ác mô ni ca… Đội nhạc chuyên phục vụ trong các lễ chào cờ và mít tinh.

Sau ngày Đồ Sơn hoàn toàm giải phóng, đội văn nghệ được thành lập. Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển sâu rộng.

Ở Bàng La, năm 1955 cũng thành lập một đội. Đội văn nghệ này được lập trên cơ sở đội văn nghệ xung kích quần chúng thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đội đã từng biểu diễn vở kịch “Nhật – Pháp bắn nhau” được lãnh đọc Ủy ban hành chính kháng chiến huyện Hiến Thụy khen ngợi.

Những năm 1957 – 1958 các làng xã ở Đồ Sơn đều thành lập các đội văn nghệ. Làng, xã, địa phương nào cũng có tên riêng cho đội văn nghệ của mình như “Sóng biển”, “Bông lúa”.v.v…

Đến những năm 1960 -1965 , khi Đồ Sơn thành lập các tiểu khu thì mỗi khu có một đội văn nghệ. Xã Bàng La lập một đội. Các đội văn nghệ ở đây ngoài luyện tập, phục vụ biểu diễn ở địa phương vào các ngày lễ, ngày tết, ngày hội họp liên hoan hàng quý, hàng năm còn tham gia thi biểu diễn ở cấp huyện, cấp tỉnh. Trong những đội văn nghệ ấy có đội Bông Lúa(xã Ngọc Tuyền cũ) đi biểu diễn ở tỉnh Kiến An và mọt số địa phương bạn đã được nhiều giải thưởng. Đặc biệt năm 1964, đội Bông lúa đã giành giải nhất trong đợt thi biểu diễn văn nghệ xung kích, dùng lời ca tiếng hát phục vụ các trận địa pháo của bộ đội, phục vụ các đợt đào giao thông hào trên núi của địa phương. Bằng những tác phẩm văn nghệ tự biên tự diễn, đội văn nghệ xung kích đã đem đến các mặt trận một sức mạng tinh thần, một nguồn cổ vũ lớn lao quyết đánh và quyết thắng để quốc Mỹ xâm lược.

Từ năm 1970 đén năm 1975, thực hiện cơ cấu tổ chức mới của Nhà nước, Đồ Sơn đã thành lập ban văn hóa trực thuộc ủy ban hàng chính thị xã. Chức năng của Ban bấy giờ không chỉ là tuyên truyền phục vụ văn hóa văn nghệ quần chúng mà còn là nhệm vụ theo dõi chỉ đạo giúp Ủy ban thị xã xây dựng công tác đời sống văn hóa cơ sở, thực hiện nếp sống văn hóa mới ở các tiểu kh, làng, xã.v.v…

Sau khi đất nước thống nhất, đầu năm 1967 thành lập phòng văn hóa thông tin – thể thao Đồ Sơn, trực thuộc Ủy ban nhân dân thị xã. Chức năng và nhiệm vụ của phòng bây giờ à giúp Ủy ban theo dõi chỉ đạo hai mảng công việc văn hóa thông tin và thể thao của thị trấn. Nhiệm vụ chủ yếu vừa tuyên truyền văn hóa thể thao cơ sở, vừa chỉ đạo xây dựng phong trào văn hóa thể thao cơ sở, vừa chỉ đạo xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ thể thao từng tiểu khu, phường, xã.

Năm 1980, Đồ Sơn sát nhập với huyện Kiến Thụy thành huyện Đồ Sơn. Năm 1988, tái lập thị xã Đồ Sơn. Phong trào văn hóa thông tin thị xã trong những năm 1988-1992 đã đạt được nhiều thành tích. Qua các kỷ biểu diễn cấp thành phố, cấp quốc gia đã đạt nhiều huy chương, bằng khen các loại. Đó là 16 Huy chương “Hoa phượng đỏ” hạng nhất (Huy chương càng cấp thành phố).

Cũng năm 1992, Đồ Sơn thành lập thêm nhà văn hóa thể thao, trực thuộc Ủy ban nhân dân thị xã. Nhiệm vụ là triển khai hai mảng công việc: xây dựng đời sống văn hóa thể thao cơ sở các phường xã theo sự chỉ đạo của các ngành văn hóa cấp trên, đồng thời triển khai xây dựng mạng lưới văn hóa thể thao không chuyên của thị xã, như văn nghệ, thư viện sách báo, lễ hôi, du lịch v.v…Trong những băn từ 1994 đến nay, phong trào văn nghệ dưới sự chỉ đạo của Phòng văn hóa thông tin và Nhà văn hóa thể thao càng phát triển, Đội văn nghệ quần chúng Đồ Sơn đã đem về quê hương 21 Huy chương vàng cấp thành phố.

Từ 1988, dưới cơ sở phường, xã Đồ Sơn đã thành lập Ban văn hóa và người phụ trách (Trưởng ban) được hưởng chế độ lương. Từ năm 2000 trờ lại đây, các cơ sở phường, xã lại có thêm Nhà văn hóa. Với cơ cấu tổ chức mới này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Đồ Sơn có quyền bổ nhiệm chức danh Chủ nhiệm Nhà văn hóa cấp phường, xã . Hiện nay, phường Vạn Hương là đơn vị có nhà văn hóa đầu tiên của Đồ Sơn, đồng thời cũng là nơi đầu tiên có Nhà văn hóa cấp phường của thành phố Hải Phòng.

Bên cạnh những hoạt động văn nghệ văn hóa thể thao là các hoạt động như thư viện, dịch vụ văn hóa. Hiện tại, nhà Truyền thống, thư viện hoạt động rất có hiệu quả: tổ chức mở của phục vụ theo lịch, đạt tổng số 4000 lượt người/năm. Công tác thư viện sách báo được duy trì thường xuyên; tổ chức các cuộc thi kể chuyện sách báo thiếu nhi từ thị xã đến cở sở, tham gia thi với thành phố đã dành được một huy chương vàng; tổ chức những cuộc thi “Hùng biện” phòng chống HIV/AIDS trách nhiệm của toàn dân và xã hội.v.v… Công tác quản lý hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa cũng đã và đang làm có nề nếp, kết hợp với phòng chức năng Sở văn hóa thông tin thành phố hướng dẫn cấp giấy phép hoạt động cho những điểm bán và cho thuê băng hình, hát Karaoke, dịch vụ photocopy và văn hóa phẩm.v.v…

Nói tóm lại, trải qua hàng ngàn năm xây dựng và bảo vệ quê hương, người Đồ Sơn đã dày công tạo dựng, vun đắp đời sống văn hóa tinh thần phong phú với những giá trị văn hóa đặc sắc được bảo tồn, phát huy thành truyền thống và sống mãi với thời gian. Văn hóa truyền thống của người Đồ Sơn trải qua thử thách của thời gian và lịch sử, luôn được giữ gìn, phát triển và làm giàu thêm, thể hiện sự hòa đồng với trời mây, non nước, núi đồi, biển cả bằng tình yêu quê hương, đất nước của con người nơi đây. Biết trận trọng, giữ gìn, phát huy và làm giàu các giá trị văn hóa truyền thống là nguồn sức mạnh giúp người Đồ Sơn luôn đứng vững trước mọi thủ thách của lịch sử, là bải học nhân văn lớn cho hôm nay và mai sau.

27 tháng 12 2016

Phieu hoc tap 1:

(1)ve thien nhien,hien tuong.

(2)dua vao nhung su viec trog thuc te,cs cua con nguoi xung quanh.

(3)giup ta biet cach van dung tu nhien,thien nhien,thien van,...de du doan ap dung vao cs

Phieu hoc tap so 2:

(1)ve lao dong,san xuat

cau 2,3 deu giong nhu phieu hoc tap 1

29 tháng 12 2016

Viết dấu đi bạn

8 tháng 1 2018

Qua thời gian, nhờ sự sáng tạo của nhân dân, những câu nói thường ngày đó đã được thể hiện, bộc lộ dưới những câu từ vần điệu, âm sắc, ngắn gọn, giàu hình ảnh và có tính biểu trưng cao, phổ biến trong nhân gian. Đó chính là những “túi khôn” giúp chúng ta vận dụng trong đời sống, suy nghĩ, lời ăn tiếng nói ở mọi lúc, mọi nơi. Chúng như lời gợi ý, sự trợ giúp giúp chúng ta có thể định hướng được con đường đúng đắn, hợp lí nhất. Tục ngữ dân gian Việt Nam được chia làm nhiều nhóm như tục ngữ về thiên nhiên, lao động sản xuất ; tục ngữ về con người xã hội… Nó phản ánh chung về những kinh nghiệm, luân lí, công lí, cũng có khi là sự phê phán.

Trong lao động, lí trí của con người đã được tôi luyện, con người đã biết phân biệt cái tốt, điều xấu, ý thức được về thẩm mỹ. Những sáng tác dân gian truyền miệng sâu lắng, những tư tưởng, quan điểm mà dân gian ta gửi gắm vào đó, chúng chính là những suy nghĩ, những điều thấm thía mà ông cha ta đã cảm nhận được. Thời xưa, tuy chưa có khoa học, nhưng bằng kinh nghiệm, tổ tiên chúng ta cũng đã nắm được trong một chừng mực nhất định quy luật của thiên nhiên.

Giữa người với người xuất hiện những câu tục ngữ rút ra ở sinh hoạt, có tính chất nhận xét, giải thích, khuyên răn, theo một luân lí và thế giới quan cảm nhất định.

Trong những việc đối nhân, xử thế, những người có trí thức thời xưa thường mượn những lời lẽ thánh hiền hoặc của những bậc cao nhân được trọng vọng để củng cố, khẳng định ý kiến, đề nghị của mình. Trong trường hợp ấy, những người lao động không có sách vở, họ chỉ biết dựa vào những thực tế, nói lên những câu tục ngữ là người nghe sẽ đồng tình, vì đó là ý kiến tập thể chung đúc lại. Tục ngữ được cấu tạo nên bởi lí trí nhiều hơn là cảm xúc. Tư tưởng trong tục ngữ là những tư tưởng hùng hồn, đanh thép, sắc bén, nhạy cảm nhưng cũng có lúc mềm dẻo, yểu điệu nhưng vẫn thể hiện được tinh thần cương trực biết dựa vào lẽ phải. Thanh điệu trong tục ngữ luôn luôn có, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và một trong những hình thức thể hiện là vần. Vần trong tục ngữ thường là vần lưng tức vần giữa câu. Ví dụ:

Bút sa gà chết
Có tật giật mình.

Những câu năm chữ:

Cơm treo, mèo nhịn đói
Việc bé, xé ra to.

Những câu sáu chữ:
Một điều nhịn, chín điều lành

Hay những câu nhiều chữ, có vần cách nhau hai ba chữ như:
Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con
Gà cựa dài thì rắn, gà cựa ngắn thì mềm.
Đi sâu vào một vấn đề ta mới thấy được ý nghĩa của tục ngữ.

Chẳng hạn trong vấn đề về thiên nhiên, phần nhiều các câu tục ngữ đều được dựa trên những hiện tượng thường xuyên của tự nhiên như sự vận động của Trái đất, của gió, của nắng mưa, bão táp, các hiện tượng xảy ra trong ngày, trong năm, trong tháng, trong mùa.

Ví dụ “Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt”, trong thực tế vào tháng bảy, tháng tám ở Bắc bộ thường xẩy ra những trận bão lụt, kiến là một loài nhạy cảm với thời tiết nên dự cảm trước, chúng bò lên cao, tránh chỗ thấp để không bị lụt cuốn trôi, ổn định được đời sống, và khi lụt xong đất ẩm, dễ đào lại tổ.

Hay câu tục ngữ: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối”. Theo tự nhiên hay sự vận động của Trái Đất quanh mặt trời và quay quanh trục, vào tháng năm, tháng mười, từng bộ phận, toạ độ trên trái đất có góc chiếu từ mặt trời đến lớn hoặc nhỏ, hơn nữa còn phụ thuộc vào nửa cầu nào ngả về phía mặt trời sẽ nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt nên dẫn đến các hệ quả là đêm, ngày, ngắn hoặc dài. Tuy nhiên ngày xưa, ông cha ta chỉ biết dựa theo những quy luật, những điều xảy ra mà mắt thấy, tai nghe mà phát thành lời. Do đó mà mới có câu tục ngữ trên.

Nói chung những câu tục ngữ không mang ý kiến của một riêng ai, nó không mang một tính chất, một đặc điểm của bất cứ một cá nhân nào, nó thể hiện những vấn đề trong xã hội, đề cập về nhiều mặt, nó còn như một hành trang kiến thức, một kiểu thể loại văn học dân gian, công chúng do thế hệ trước hay nói cụ thể hơn là ông cha ta để lại giúp chúng ta có thể sử dụng như một công cụ hữu ích về tinh thần, ý tưởng. Xét cho cùng tục ngữ có hình thức và nội dung cực kì hoàn hảo, vừa cân đối, hài hoà, lại vừa mang tính chất dân gian, dễ hiểu, gần gũi với đời thường. Có những câu tục ngữ chỉ hiểu theo nghĩa đen tức là nghĩa của chúng được cấu thành dựa trên nghĩa của từng từ tạo nên nó.

8 tháng 1 2018
a) Mở bài: - Dẫn dắt được vào vấn đề hợp lí. - Trích dẫn được nội dung cần chứng minh ở đề bài, đánh giá khái quát vấn đề. b) Thân bài: * Thơ ca dân gian là gì? (thuộc phương thức biểu đạt trữ tình của văn học dân gian gồm tục ngữ, dân ca, ca dao…; thể hiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động với nhiều cung bậc tình cảm khác nhau, đa dạng và phong phú xuất phát từ những trái tim lao động của nhân dân; là cách nói giản dị, mộc mạc, chân thành nhưng thể hiện những tình cảm to lớn, cụ thể; "ca dao là thơ của vạn nhà" - Xuân Diệu; là suối nguồn của tình yêu thương, là bến bờ của những trái tim biết chia sẻ.). * Tại sao thơ ca dân gian là tiếng nói trái tim của người lao động (lập luận): Thể hiện những tư tưởng, tình cảm, khát vọng, ước mơ.. của người lao động. * Thơ ca dân gian "thể hiện sâu sắc những tình cảm tốt đẹp của nhân dân ta": - Tình yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên (dẫn chứng). - Tình cảm cộng đồng (dẫn chứng: "Dù ai đi… mùng mười tháng ba; Bầu ơi thương … một giàn; Nhiễu điều phủ lấy ... nhau cùng; máu chảy ruột mềm, Môi hở răng lạnh.. "). - Tình cảm gia đình: + Tình cảm của con cháu đối với tổ tiên, ông bà (dẫn chứng: Con người có tổ .. có nguồn; Ngó lên nuột lạt.. bấy nhiêu; …). + Tình cảm của con cái đối với cha mẹ (dẫn chứng: Công cha như … là đạo con; Ơn cha … cưu mang; Chiều chiều ra đứng … chín chiều; Mẹ già như .. đường mía lau…). + Tình cảm anh em huynh đệ ruột thịt (dẫn chứng: Anh em như chân … đỡ đần; Anh thuận em hoà là nhà có phúc; Chị ngã em nâng…). + Tình cảm vợ chồng (dẫn chứng: Râu tôm … khen ngon; Lấy anh thì sướng hơn vua… càng hơn vua; Thuận vợ thuận … cạn…). - Tình bằng hữu bạn bè thân thiết, tình làng xóm thân thương (dẫn chứng: Bạn về có nhớ… nhớ trời; Cái cò cái vạc… giăng ca; …). - Tình thầy trò (dẫn chứng: Muốn sang thì bắc… lấy thầy…). - Tình yêu đôi lứa (dẫn chứng: Qua đình… bấy nhiêu; Yêu nhau cới… gió bay; Gần nhà mà …làm cầu; Ước gì sông … sang chơi….). c) Kết bài: - Đánh giá khái quát lại vấn đề.

- Bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của bản thân về vấn đề vừa làm sáng tỏ.
18 tháng 12 2021

Tham khảo!

Nhân dân Việt Nam vốn Ɩà những con người giàu tình cảm, từ xưa đến nay, họ đã biểu lộ những tình cảm tốt đẹp nhất c̠ủa̠ mình qua các bài ca dao, dân ca… Vì thế nên có ý kiến cho rằng: “Thơ ca dân gian Ɩà tiếng nói trái tim c̠ủa̠ người lao động.Nó thể hiện sâu sắc những tình cảm tốt đẹp c̠ủa̠ nhân dân ta”.

Đã Ɩà con người, ai cũng có những tình cảm, những tình cảm ấy có thể xấu hoặc tốt – Những con người Việt Nam, nhân dân Việt Nam hầu như có chung mọi tình cảm, những tình cảm cao quý.Họ quan hệ với nhau trong xã hội, trong cộng đồng, họ nảy sinh ra những tình cảm lớn, những tình cảm mà bất cứ một người nào cũng có: tình cảm cộng đồng.Nhân dân Việt Nam thương quý như anh em một nhà, tình thương ấy được biểu hiện rấт tự nhiên, thực tế mà cũng sâu sắc vô cùng: “Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” Hình ảnh c̠ủa̠ dây bầu, dây bí quấn quýt lây nhau sao mà thân mật đến thế, cách nói rấт mộc mạc, dân dã nhưng chứa bao ý nghĩa.Những tình cảm cao thượng, sáng trong thì phải đến câu ca dao tuyệt vời sau: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng”.Hình ảnh đẹp nói được một cách cụ thể lời khuyên răn chân tình ѵà chí lý.Tình cảm cộng đồng còn thể hiện một cách giản dị trong các câu tục ngữ xa xưa: “Máu chảy ruột mền” “Môi hở răng lạnh” Họ gắn bó với nhau như môi với răng, như máu trong cơ thể, gắn bó với nhau như từng bộ phận trong gia đình con người.Tình cảm lớn được bộc lộ chân thành với đại gia đình Việt Nam ấm cúng.Mỗi người có một cuộc sống riêng tư c̠ủa̠ mình, họ có một gia đình riêng, một tổ ấm riêng.Trong đó, những tình cảm ngọt ngào, bình dị được trau chuốt, dưỡng nuôi rấт nề nếp, tốt đẹp.  Tình cảm nhỏ bé ấy lại rấт đa dạng ѵà phong phú vì thế nên các câu ca dao ѵà tục ngữ, dân ca… đã phản ảnh khá phong phú, cách bày tỏ mộc mạc hơn, đơn giản hơn tình cảm cộng đồng.Ai cũng có một người mẹ, một người cha, người ta thường gọi Ɩà chữ hiếu, chữ đạo c̠ủa̠ con người trong đối xử, công lao các bậc sinh thành sâu nặng lắm:  “Công cha như núi Thái Sơn  Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra  Một lòng thờ mẹ kính cha  Cho tròn chữ hiếu mới Ɩà đạo con”.Bài học răn dạy tốt đẹp c̠ủa̠ các câu ca dao đều bộc lộ tình cảm kính thương cha mẹ – Người mang nặng đẻ dau, chịu bao đau khổ để tạo nên hình dáng cho con mình.Tình cảm thương yêu, kính trọng ấy còn giữ mãi trong lòng mỗi người cho đến hết đời.Nhất Ɩà những người con gái đã trưởng thành, đi lấy chồng nơi xa, tạo lập được một mái ấm ѵà trở thành người mẹ hiền c̠ủa̠ đứa con thơ nhưng lòng vẫn hướng về mẹ già.“Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.Những câu ca dao thật trữ tình ѵà buồn man mác.Một tình cảm ruột thịt, nhớ thương chồng chất, rấт đáng quý.Trong văn học dân gian bên cạnh chữ hiếu còn có chữ nghĩa, chữ nghĩa với anh em, chị em.Tình nghĩa huynh đệ cũng đằm thắm lạ thường.Có câu ca dao ví von thật sinh động, trong sáng đầy trách nhiệm.“An hem như thể chân tay Rách Ɩành đùm bọc, dở hay đỡ đần” Có cả câu khuyên răn như ước ao, khẳng định: “Anh thuận em hòa Ɩà nhà có phúc” Đấy Ɩà tình cảm an hem, còn tình chị em cũng thân thiết vô cùng nhưng thân thiết nhẹ nhàng, cụ thể hơn: “Chị ngã em nâng” Cách nói giản dị nhưng ý tứ sâu sắc.

Ngoài tình cảm gia đình yêu thương gắn bó, nhân dân Việt Nam vốn trọng nghĩa kim bằng, tình bằng hữu.Tình bạn bè thắm thiết keo sơn, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, yêu thương nhau như anh chị em một nhà.Tình cảm thắm thiết ấy dược diễn đạt khá sâu sắc: “Bạn bè Ɩà nghĩa tương tri Sao cho sau trước một bề mới nên”.