Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nguyễn Hữu Thỉnh có bút danh là Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 21 tuổi, ông gia nhập quân đội, là chiến sĩ của binh chủng Tăng Thiết giáp. Cuộc đời binh nghiệp đã khơi dậy một hồn thơ chiến sĩ. Ông có viết trường ca, nhưng người đọc chú ý nhiều ở những bài thơ ngũ ngôn như “Sang thu”, “Chiều sông Thương”, v.v...
Cảm xúc bâng khuâng, nhẹ nhàng, thoáng hiện. Một số hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo, thi vị. Đó là ấn tượng về dư vị văn chương khi ta đọc tập thơ “Từ chiến hào tới thành phố" cùa Hữu Thỉnh.
-Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh. Ông sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
-Ông sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học nhưng ông đã trải qua một cuộc sống vô cùng vất vả.
-Nhận xét về hồn thơ của Hữu Thỉnh, có người viết: “Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh phong phú đa dạng và mang dấu ấn rõ nét. Đó là thành quả của một tư tưởng nghệ thuật chính xác, cao đẹp, một tư duy nghệ thuật mạnh mẽ, hiệu quả. Và cũng là của một bản lĩnh nghệ thuật kiên định, vững vàng, một thi pháp năng động, biến hóa, một phong cách đa dạng, sáng tạo”. Trong sự nghiệp cầm bút “nhà thơ đã có những thành tựu đặc sắc rất đáng trân trọng. Hữu Thỉnh chọn thơ, và thơ đã chọn đúng tài năng. Dọc đường thơ, Hữu Thỉnh đã nỗ lực tìm kiếm, khám phá không ngừng theo định hướng đầy triển vọng. Đó là đổi mới sáng tạo từ truyền thống đến hiện đại, thích ứng tiến bộ nghệ thuật với lý tưởng nhân văn cách mạng cao đẹp”.
-sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà .
gió se có ý nghĩa là cơn gió heo may lành lạnh đủ để dậy cảm súc ở trong ta kiến ta cảm thấy một chút dễ chịu, một chút lâng lâng lúc thiên nhiên đổi mùa
Đầu tiên là sự cảm nhận về hương vị. Cái hương ổi chín thường khó đọng lại trong những cơn gió nồm nam thổi mạnh của mùa hè, giờ đây bỗng “phả vào trong gió se”, đem đến hương vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu khiến nhà thơ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trước sự thay đổi của thiên nhiên. Động từ “bỗng” đặt đầu câu như một sự ngạc nhiên kỳ lạ của nhà thơ về thời khắc giao mùa đầy xao xuyến này của tác giả. Từ “phả” là động từ mạnh diễn tả dư vị nồng nàn, đậm đà mùi hương ổi đang lan tỏa trong. Gió se là gió nhẹ, khô và hơi lạnh – gió của mùa thu, gió báo hiệu mùa thu đã đến. Gió se mang theo hương ổi của đồng quê.
Chép lại chính xác khổ thơ cuối bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
HS nêu cảm nhận về đoạn thơ đó, về cơ bản phải nêu được những nét sau:
- Vẻ đẹp của sự giao mùa, của tâm hồn con người giao cảm với thiên nhiên và mang đầy dự cảm, thể hiện sự chiêm nghiệm và suy tư của nhà thơ.
- Những tia nắng hạ vẫn còn, cơn mưa ồ ạt cũng vơi dần đi. Nắng – mưa là hai hình ảnh tương phản chuyển giao của đất trời trước thời khắc giao mùa.
- Hai dòng thơ cuối vừa mang nét nghĩa tả thực, vừa là hình ảnh ẩn dụ :
+ Ý nghĩa tả thực: sấm gắn với cơn mưa mùa hạ cũng đã bớt dần.
+ Ý nghĩa ẩn dụ: Sấm - những gì bất thường dữ dội trong cuộc sống, hàng cây đứng tuổi - người từng trải. Con người từng trải sẽ bình thản hơn, trưởng thành hơn, điềm đạm chín chắn hơn với những bão tố của cuộc đời.
- Tác giả: Hữu Thỉnh.
- Một vài nét về tác giả:
• Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội.
• Là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng.
• Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung cảm.
Trong phạm vi khổ một bài thơ "Sang thu", Hữu Thỉnh đã viết:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về".
Chỉ qua hai câu thơ đầu của khổ, với việc sử dụng từ chỉ cảm xúc như "bỗng" cộng với động từ mạnh "phả" và hình ảnh "gió se", tác giả đã cho người đọc thấy được cảm xúc ngỡ ngàng của mình khi nhận ra mùa thu đã về qua các dấu hiệu của mùa thu. Dấu hiệu đầu tiên của mùa thu đã được tác giả thể hiện bằng sự bất ngờ khi nhận ra hương ổi bằng khứu giác, mà ở đây hương ổi ấy chính là một nét đặc trưng và bình dị của vùng Đồng bằng sông Hồng. Tiếp đến chính là hình ảnh "ngọn gió se" của mùa thu thật đặc trưng và thú vị làm sao (1). Được cảm nhận bằng xúc giác, tác giả ngoài ra còn dùng động từ mạnh "phả" để gợi nên sự thơm nồng, mạnh mẽ của hương ổi và sự vận động của gió đưa hương. Không chỉ vậy, ngoài ra tác giả còn sử dụng từ láy và phép nhân hóa với làn sương khiến cho làn sương như có tâm hồn mà xao xuyến, khiến cho làn sương như có tâm hồn mà xao xuyến trước ngưỡng cửa mùa thu. Từ đó, tác giả đã kết luận:
"Hình như thu đã về".
Với việc sử dụng thành phần tình thái "hình như" cùng cụm từ "đã về", tác giả đã thể hiện một cảm xúc mong manh, mơ hồ và đồng thời cũng rất quen thuộc, gần gũi mỗi khi đến - gợi nên sự bâng khuâng, xao xuyến của lòng người. Tác giả không thể hiện cảm xúc rõ ràng về sự hiện diện của mùa thu như là để cho người đọc thấy rõ về sự chuyển giao giữa mùa hạ và mùa thu (2). Như vậy, chỉ trong khổ một của bài thơ, tác giả Hữu Thỉnh đã khắc họa rõ nét cảm xúc của mình những tín hiệu thu về trong không gian gần và hẹp mới thật tinh tế biết bao.
*Chú thích:
(1): Thành phần cảm thán
(2): Câu phủ định
1.Tác giả:
- Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ.
- Là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng.
- Ông đã tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khoa III,IV,V.
- Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng thứ kí Hội Nhà văn Việt Nam.
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ sáng tác năm 1977.
- In trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”
b. Bố cục: 3 phần tương ứng với ba khổ thơ.
- Khổ 1: Những tín hiệu giao mùa
- Khổ 2: Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa
- Khổ 3: Những suy tư và chiêm nghiệm của nhà thơ.
c. Nội dung bao trùm:
Bài thơ thể hiện những cảm nhận tinh tế và giàu cảm xúc của một tâm hồn nhạy cảm trước sự biến đổi của thiên nhiên tạo vật lúc giao mùa ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Thông qua đó biểu lộ sâu kín tình yêu thiên nhiên, cuộc đời, tha thiết với sự yên bình của quê hương, đất nước.
d. Nghệ thuật:
- Hình ảnh vừa gần gũi, thân thuộc, vừa mới mẻ, lạ lẫm.
- Ngôn từ giản dị mà gợi cảm, vừa miêu tả chính xác trạng thái của tạo vật, vừa thổi hồn vào tạo vật những cảm giác rất người.
- Thể thơ 5 chữ, cách thể hiện mộc mạc, tự nhiên như lối nói của người thôn quê.
- Mạch thơ: mạch chảy tự nhiên của cảm xúc: từ ngỡ ngàng, bâng khuâng trước những tín hiệu giao mùa nơi thôn xóm đến say mê trước những cảnh vật sang thu xa rộng, và rồi trầm ngâm trước những biến đổi bên trong của thiên nhiên và con người.
II.Đọc – hiểu văn bản:
“Sang thu” được viết vào cuối năm 1977, in lần đầu trên báo Văn nghệ, sau đó được tác giả chọn đưa vào một số tập thơ. Bài thơ cho thấy những cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh về sự biến chuyển của đất trời từ hạ sang thu ở vùng đồng bằng nông thôn Bắc bộ. Đặc sắc nổi bật dễ thấy ở “Sang thu” là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình gắn liền với sự biến chuyển của thiên nhiên – thời điểm chuyển giao hai mùa làm nên kết cấu chặt chẽ của bài thơ; bài thơ cũng là mạch cảm xúc ngỡ ngàng đến suy tư của nhà thơ.
- Sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về giây phút thu đã về (nhận ra qua khứu giác, xúc giác và thị giác: hương ổi, gió se và sương qua ngõ;Diễn đạt qua các từ ngữ: bỗng,nhận ra, phả, hình như, chùng chình…)
- Cảm nhận tinh tế của nhà thơ về biến chuyển trong không gian ( từ vườn, ngõ, sông , mây, sấm, hàng cây…)
- Chút nghĩ suy về con người và cuộc đời qua cách khép lại với hình ảnh tiếng sấm vừa thực vừa hàm ẩn suy tư.
Bài thơ tự nhiên, gợi cảm, giản dị và thi vị. Cảm xúc về sự chuyển mùa tinh tế. Qua bài thơ, thấy lòng yêu thiên nhiên quê hương và một tâm hồn có những trải nghiệm sâu sắc.
III.Một số dạng đề tự luận cơ bản:
Bài tập 1: Bằng đoạn văn khoảng 8 câu, hãy phân tích sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về biến chuyển trong không gian lúc sang thu ở khổ thơ:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
(Sang thu – Hữu Thỉnh)
Bài tập 2: Theo cách diễn dịch (hoặc qui nạp) viết đoạn văn cảm nhận vẻ đẹp của đoạn thơ sau:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
(Sang thu – Hữu Thỉnh)
Bài tập 3: Viết đoạn văn khoảng 6 câu trình bày cách hiểu của em về hai câu thơ cuối bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Bài tập 4: Viết đoạn văn khoảng 6 câu giải thích ý nghĩa ẩn dụ của hình ảnh “tiếng sấm” trong câu thơ “Sấm cũng bớt bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi”.
Bài tập 5: Mùa thu quê hương qua bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Bài tập 6: Cảm nhận của em về khổ 1 và 2 trong bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Gió chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Bài tập 7: Phân tích cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh trước những biến đổi của đất trời qua bài “Sang thu”.
Bài tập 8:
“Sang thu” của Hữu Thỉnh không chỉ có hình ảnh đất trời nên thơ mà còn có hình tượng con người trước những biến chuyển của cuộc đời ở thời khắc giao mùa.
Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài tập 9: Cảm nhận của em về vẻ đẹp bài thơ “Sang thu” (Hữu Thỉnh)
Bài tập 10:Cảm nhận của em về vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa trong đoạn thơ sau:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Gió chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
(Sang thu – Hữu Thỉnh)
Gợi ý và đáp án.
Bài tập 1:
*Về nội dung:
- Phân tích để thấy biến chuyển trong không gian được nhà thơ cảm nhận tinh tế qua hương ổi chín đậm, nồng nàn phả vào gió se, lan tỏa trong không gian và qua làn sương mỏng “chùng chình” chuyển động chầm chậm, nhẹ nhàng đầu ngõ, đường thôn.
- Trạng thái cảm giác về mùa thu đến của nhà thơ được diễn tả qua các từ: “bỗng”,”hình như” mở đầu và kết thúc khổ thơ, đó là sự ngạc nhiên thú vị như còn chưa tin hẳn.
*Về hình thức:
- Trình bày một đoạn văn khoảng 8 câu, có thể dùng đoạn diễn dịch, quy nạp, hoặc tổng – phân – hợp.
- Diễn đạt mạch lạc, tự nhiên, không mắc lỗi.
Đoạn văn mẫu:
Mở đầu “Sang thu” là những cảm nhận tinh tế, bất ngờ của nhà thơ Hữu Thỉnh trước không gian nơi đồng quê êm đềm, dịu dàng mà thơ mộng(1):
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Đặt từ “bỗng” ở đầu khổ thơ, tác giả cho thấy, mùa thu đến khá bất ngờ và đột ngột, dường như không hẹn trước(2). Bắt đầu mùa thu không phải là nét đặc trưng của trời mây hay sắc vàng hoa cúc như trong thơ cổ mà là “hương ổi” nơi vườn quê(3). Cái hương thơm nồng nàn ấy, thân thuộc ấy đang “phả vào trong gió se” – thứ gió heo may, khô lạnh, dịu dàng chỉ xuất hiện độ giao mùa ở miền Bắc(4). Dùng từ “phả” tác giả gợi hương thơm ngan ngát của ổi chín như lắng đọng, sánh lại, lan tỏa trong không gian, thấm vào tâm tưởng, đánh thức những kỉ niệm tuổi thơ(5). Từ láy gợi hình cùng nghệ thuật nhân hóa – “sương chùng chình qua ngõ” gợi hình ảnh làn sương duyên dáng, yểu điệu như đang đợi chờ, đang lưu luyến nửa ở, nửa đi(6). Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác, và thị giác, tác giả cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện(7). Phút giây giao mùa của thiên nhiên, cảm thấy rồi, nhìn thấy rồi, vậy mà thi nhân vẫn sững sờ, khó tin: “Hình như thu đã về”.(8)
Bài tập 2: Đoạn văn có thể gồm các ý:
- Hình ảnh được cảm nhận tinh tế kết hợp với trí tưởng bay bổng của nhà thơ.
- Diễn tả hình ảnh đám mây mùa hạ còn sót lại trên bầu trời thu trong xanh, mỏng, kéo dài, nhẹ trôi rất hững hờ như còn vương vấn, lưu luyến không nỡ rời xa, cảnh có hồn.
- Đó là hình ảnh gợi cảm giác giao mùa, hạ đã qua mà thu chưa đến hẳn.
Bài tập 3: Viết đoạn văn:
Cần trình bày được cách hiểu hai câu thơ cả về nghĩa tả thực và nghĩa ẩn dụ:
- Tầng nghĩa thứ nhất (nghĩa tả thực): là hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong mưa. Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi. Hàng cây không còn bị giật mình vì những tiếng sấm bất ngờ nữa.
- Tầng nghĩa thứ hai (nghĩa ẩn dụ): Thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ, nhà thơ thể hiện suy ngẫm của mình về con người và cuộc đời: “Sấm” là những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời ; “hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải. Khi con người đã trưởng thành, đã trải nghiệm trong đường đời thì bản lĩnh càng vững vàng hơn trước những thử thách, những bão giông bất thường. Đó chính là sự khẳng định sức sống mãnh liệt của tâm hồn, dù đã “sang thu” những vẫn rạo rực và nồng nàn.
Bài tập 4: Tham khảo bài tập 3.
Bài tập 5:
I. Mở bài:
- Mở bài 1: Mùa thu luôn là đề tài, là cảm hứng quen thuộc lâu đời của thơ ca.Trong kho tàng dân tộc ta đã từng biết đến một mùa thu trong veo trong thơ Nguyễn Khuyến, thu ngơ ngác trong thơ Lưu Trọng Lư, dào dạt và đượm buồn trong thơ Xuân Diệu.Và thật bất ngờ khi ta gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang thu”.
- Mở bài 2: Mùa thu bước vào thơ ca thật tự nhiên, gần gũi, trở thành một thi đề quen thuộc. Các bài thơ viết về đề tài này đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai. Nói đến mùa thu, ta không thể không nhắc tới chùm thơ ba bài “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm” của cụ Tam Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến; không thể không xao xuyến với “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, “Đây mùa xuân tới” của Xuân Diệu,… Là nhà thơ viết hay, viết nhiều về mùa thu với những cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng, Hữu Thỉnh cũng góp vào thơ thu đất nước một “Sang thu” tinh tế mà sâu sắc.
II. Thân bài:
1.Khái quát( Dẫn dắt vào bài):
-“Sang thu” được viết vào cuối năm 1997, in lần đầu trên báo Văn nghệ, sau đó được tác giả chọn đưa vào một số tập thơ. Bài thơ cho thấy nét đặc trưng của mùa thu vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ lúc giao mùa, có chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt. Từ đó, mở rộng ra với những trải nghiệm về mùa thu đời người.
2. Cảm nhận về làng quê lúc sang thu:
- Mở đầu bài thơ là những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về giây phút thu đã về:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
+ Mùa thu đến khá bất ngờ và đột ngột, dường như không hiện trước.Từ “bỗng” thông báo về sự xuất hiện đột ngột của sự vật trong không gian. Khác với những thi liệu thơ thu, dấu hiệu của mùa thu không phải là “Sen tàn, cúc lại nở hoa” như trong thơ Nguyễn Du;cũng không phải là “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang. Tóc buồn rơi xuống lệ ngàn hàng” như trong thơ Xuân Diệu hay những nét đặc trưng của trời mây trong thơ Nguyễn Khuyến;…ít nhiều mang tính ước lệ, đặc trưng. Thì hương ổi trong thơ Hữu Thỉnh là một sự khám phá mới mẻ. Đó là hương thơm quen thuộc, đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ mỗi dịp thu về. Hương vị ấy “phả” vào trong “gió se” – thứ gió heo may, lạnh và khô chỉ xuất hiện vào độ giao mùa ở miền Bắc. Dùng từ”phả” tác giả gợi hương thơm như lắng đọng, như sánh lại. Nó sánh bởi mùa hạ đã lặn vào quả ngọt, đã dâng hiến hết mình để bây giờ gió heo may đầu mùa đem hương thơm ngan ngát của ổi chín lan toả vào không gian, thấm vào tâm tưởng đánh thức những kỉ niệm tuổi thơ. Có thể nói, trước Hữu Thỉnh có rất nhiều nhà thơ viết về mùa thu nhưng đây là một phát hiện tinh tế của hồn thơ xứ sở.
+ Tiếp theo là hình ảnh màn “sương” giăng trước “ngõ”.Vào mỗi buổi sớm thu , sương trắng như tấm voan mỏng, chùm lên vạn vật. Và mùa thu không chỉ được cảm nhận qua khứu giác, cảm giác mà còn được nhận ra qua thị giác với hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ”. Từ láy gợi hình của nghệ thuật nhân hoá, người đọc hình dung cảnh độ chớm thu thật mờ ảo khói sương. Sương như ngưng lại, kết thành hình khối trong con ngõ nhỏ ở làng quê. Nó như đang chờ đợi ai hay đang lưu luyến nửa ở nửa đi khi qua con ngõ nhỏ nhà ai.Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xan nhiều cảm xúc. Đã cảm nhận được thu sang qua “hương ổi”, “gió se”, “sương chùng chình”, mà thi nhân vẫn cảm thấy ngỡ ngàng, bâng khuâng:
“Hình như thu đã về”.
Cả đoạn thơ không chỉ đặc sắc ở tả cảnh mà còn là sự rung rinh cảm nhận trước một cái gì đó mơ hồ,như có, như không. Phải chăng, đó là những phút đầu tiên của mùa thu chợt tới trong cảm xúc xao xuyến của lòng người?
- Sau cái bỡ ngỡ ban đầu trước không gian làng quê sang thu là cảm nhận rõ nét về những chuyển biến của thiên nhiên:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã,
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.
+ Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sanh thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Như thế, thiên nhiên đã được quan sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Và bức tranh sang thu từ những gì vô hình như “hương ổi” ,”gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời. Tác giả cảm nhận thu sang bằng cả tâm hồn. Dòng sông đã qua mùa lũ, giờ đây trôi nhẹ nhàng, êm ả đầy tâm trạng như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời. Đối lập là hình ảnh những cánh chim trời vội vã bay về phương Nam tránh rét. Hai tốc độ trái ngược nhau, giữa chậm và nhanh là quy luật của muôn loài, muôn vật ở vào thời điểm giao thoa giữa hai mùa hạ - thu.
+ Thu sang có hương ổi nồng nàn, có gió thu se lạnh, có dòng sông dềnh dàng, có cánh chim trời vội vã và ở đó:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.
Bằng sự liên tưởng của một hồn thơ độc đáo, người đọc cảm nhận: hình như trong đám mây kia còn vương vấn những tia nắng gay gắt của mùa hè và cả những tiềm ẩn cơn mưa nên mới chỉ “vắt nửa mình sang thu”. Ngôn ngữ giàu chất tạo hình. Dường như, thu và hạ là đầu của cầu thời gian, còn đám mây là nhịp nối giữa hai đầu cầu ấy. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây như mềm hơn, duyên dáng như một dải lụa vắt lên cái ranh giới lỏng lẻo giữa hai mùa hạ thu để rồi một thoáng qua đi nhường chỗ cho “ trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”. Có thể nói, sắc mùa và những chuyển động của mùa thu qua cảm nhận của nhà thơ Hữu Thỉnh thật quyến rũ, thật xốn xang lòng người!
3.Cảm nhận về hồn người:
- Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
+ Vẫn là nắng mưa, sấm chớp, bão giông như mùa hạ nhưng mức độ đã giảm dần, đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định. Ánh nắng nhạt dần không còn chói chang, mưa cũng đã ít dần và sấm không còn làm cho hàng cây đứng tuổi bất ngờ. Phép tiểu đối “nắng” và “mưa”, “vẫn còn” và “đã vơi” thể hiện sự phân hoá mong manh giữa hai mùa. Bởi vì làm sao có thể đong đếm đầy vơi những dấu hiệu của thiên nhiên lúc giao mùa. Và cái đứng tuổi của hàng cây là một cái chốt cửa để mở sang một thế giới khác: thế giới sang thu của hồn người. Hai hình ảnh “sấm” và “hàng cây đứng tuổi” người đọc cảm nhận bằng hai tầng ý nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hầm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. “Sấm” là những vang động, những sóng gió bất thường của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải thương điềm tĩnh hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh. Từ những thay đổi của mùa thu thiên nhiên, liên tưởng đến những đổi thay của mùa thu đời người, để rồi ta thấu hiểu ra rằng: “Hãy biết chấp nhận, bình tĩnh sống với niềm tin. Hãy mở rộng lòng mình để yêu thiên nhiên, đất nước, con người.”
4.Đánh giá:
Với giọng thơ êm ái, chậm rãi và nhẹ nhàng, bài thơ đã đưa người đọc vào thế giới tâm hồn nhạy cảm của thi sĩ. Đắm mình trong âm điệu, trong từng chữ, từng câu lắng lại với các hình ảnh thân thuộc, người đọc nhận ra những rung cảm tinh tế của nhà thơ về sự biến đổi nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời, của tuổi đời những con người từng trải. Đó là biểu hiện của một tâm hồn yêu sống, một tâm hồn không già theo năm tháng, một niềm tin vào cuộc đời, một hồn thơ, một nguồn thi cảm không bao giờ vơi cạn trước thiên nhiên.
III. Kết bài:
Nhẹ nhàng, êm ả, ngọt lành, sự tinh tế của tâm hồn biết nhìn, biết lắng nghe gợi lên trong lòng người đọc những rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời. Đó là tất cả những gì mà nhà thơ đem đến cho độc giả qua bài thơ “Sang thu”. Với “Sang thu”, Hữu Thỉnh đã để lại một dấu ấn khó phai tròng lòng người yêu thơ ca.
Bài tập 6:
I. Mở bài:
Mùa thu bước vào thơ ca thật tự nhiên, gần gũi – trở thành một thi đề quen thuộc. Các bài thơ viết về đề tài này đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai. Nói đến mùa thu, ta không thể không nhắc tới chùm thơ ba bài “Thu điếu”, “Thu vịnh”,”Thu ẩm” của cụ Tam Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến; không thể không xao xuyến với “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, “Đây mùa xuân tới” của Xuân Diệu,… Là nhà thơ viết hay, viết nhiều về mùa thu với những cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng, Hữu Thỉnh cũng góp vào thơ thu đất nước một “Sang thu” tinh tế mà sâu sắc. Để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc về bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp rất thực, rất riêng được vẽ bằng tâm hồn nhạy cảm một tình yêu thiên, yêu cuộc sống:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Gió chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
II.Thân bài:
1.Khái quát (Dẫn dắt vào bài):
- Nằm trong mạch cảm xúc của toàn bài, với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh, đoạn thơ đã gợi trước mắt chúng ta bức tranh thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu mơ màng, huyền ảo. Bức tranh đẹp, dung dị, mà duyên dáng. Và cũng hiểu thêm một hồn thơ, một tầm hồn chứa chan niềm tin yêu cuộc sống.
2.Phân tích, cảm nhận:
Luận điểm 1: Cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước những hình ảnh, hiện tượng thể hiện sự biến đổi của đất trời lúc sang thu:
- Cảm nhận về hương ổi
- Cảm nhận về làn sương chùng chình
- Những tín hiệu của mùa thu chưa rõ nét nhưng cũng đủ khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bâng khuâng: “bỗng”,”hình như”.
Luận điểm 2: Cảm nhận của nhà thơ về những biến chuyển trong không gian lúc sang thu.
- Cảnh rộng dần và rõ nét.
- Dòng sông “được lúc dềnh dàng”, êm ả sau mùa bão lũ. Đối lập là hình ảnh “chim bắt đầu vội vã”. Bức tranh không gian cao rộng, trong sáng.
- Hình ảnh đám mây: được gọi “mây mùa hạ” chuyển động mềm mại, lưu luyến “vắt nửa mình sang thu”. Hình ảnh mang nét đặc trưng lúc giao mùa, hạ chưa qua hết mà thu cũng chưa đến hẳn.
3.Ý kiến đánh giá, bình luận: về nội dung và nghệ thuật.
III.Kết bài: Kết thúc vấn đề.
Do mk ms chỉ hc lớp 6 lên lớp 7 thôi, nên ko bk cái này nên đã nhờ mạng, bn thông cảm
Tham khảo nha em:
“Sang thu" là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, lao vật trong buổi đầu thu - thu mới về, thu chợt đến.
tk
“Sang thu" là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, lao vật trong buổi đầu thu - thu mới về, thu chợt đến. Với áo mơ phai dệt lá vàng." Phả và trong gió se."
Viết bài văn nghị luận văn học. Yêu cầu: biết dùng từ, đặt câu, viết văn lưu loát. Bài văn có đầy đủ kết cấu 3 phần, hành văn lưu loát, sinh động. Về cơ bản, phải nêu được các nội dung sau:
a. Mở bài (0.5đ)
- Giới thiệu bài thơ Sang thu, nêu ý kiến khái quát của mình về sự cảm nhận tinh tế của tác giả khi đất trời có dấu hiệu chuyển mình sang thu và những chiêm nghiệm quý giá của ông về đời người.
b. Thân bài (9đ)
- Phân tích sự cảm nhận tinh tế của tác giả khi đất trời sang thu trong khổ 1, 2 của bài thơ (6đ)
Khổ 1: (3đ)
+ Bỗng nhận ra => sự bất ngờ, sửng sốt, chưa được báo trước. Sự bất ngờ đó là cơ duyên nhưng đồng thời cũng là may mắn khi tác giả được trực tiếp ngắm nhìn sự chuyển biến của đất trời giao mùa từ hạ sang thu.
+ Mùi hương đặc biệt báo hiệu mùa thu: hương ổi phả vào trong gió se, sương giăng mắc ngoài ngõ…là những dấu hiệu đặc trưng báo hiệu khoảnh khắc giao mùa, rằng thu đã về!
+ Phả: động từ diễn tả sự chủ động tác động của mùa thu vào cảnh vật.
+ Hình như diễn tả tâm trạng còn chưa chắc chắc, ngỡ ngàng, chưa thể tin được vì những cảm nhận ở trên còn rất mơ hồ.
→ Tâm hồn thi sĩ có sự cảm nhận thật tinh tế.
Khổ 2 (3đ)
+ Cảm nhận về bức tranh mùa thu được miêu tả ở tầm cao, xa. Dòng sông mùa thu cũng trôi chậm rãi, không bị những cơn mưa mùa hạ thúc giục hối hả nữa. Ngược lại là đàn chim hối hả bay về phương Nam chuẩn bị tránh rét. Nghệ thuật đối “dềnh dàng” >< “hối hả” => trạng thái chủ động.
+ Đám mây mùa hạ được nhân hóa, diễn tả sự dùng dằng, luyến tiếc, thể hiện sự níu kéo thời gian.
→ Mùa thu đặc trưng của miền Bắc
- Chiêm nghiệm về cuộc đời của tác giả qua khổ thơ số 3 (3đ)
Khổ 3
+ Những tia nắng hạ vẫn còn, cơn mưa ồ ạt cũng vơi dần đi. Nắng – mưa là hai hình ảnh tương phản chuyển giao của đất trời trước thời khắc giao mùa.
Hai dòng thơ cuối vừa mang nét nghĩa tả thực, vừa là hình ảnh ẩn dụ :
+ Ý nghĩa tả thực: sấm gắn với cơn mưa mùa hạ cũng đã bớt dần.
+ Ý nghĩa ẩn dụ: Sấm - những gì bất thường dữ dội trong cuộc sống, hàng cây đứng tuổi - người từng trải. Con người từng trải sẽ bình thản hơn, trưởng thành hơn, điềm đạm chín chắn hơn với những bão tố của cuộc đời.
c. Kết bài (0.5đ)
- Cả bài thơ là những cảm nhận đầy tinh tế của tác giả khi đất trời giao mùa. Đồng thời với những suy tư, ông gửi vào trang thơ của mình đầy những trạng thái chiêm nghiệm về nhân sinh.
1. Bản thân.
- Sinh 3.1.1766 (Năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng) Mất 16.9.1820. Tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên.
- Quê Tiên Điền, Nghi Xuân , Trấn Nghệ An. 10 tuổi mồ côi mẹ.
- Là một trong năm người nổi tiếng đương thời.
2. Gia đình.
- Đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống khoa bảng. Có thế lực bậc nhất lúc bấy giờ.
- Cha là Nguyễn Nghiễm – nhà văn – nhà nghiên cứu sử học- nhà thơ và từng làm tể tướng.
- Mẹ là Trần Thị Tần xuất thân dòng dõi bình dân, người xứ Kinh Bắc, là vợ thứ ba và ít hơn chồng 32 tuổi.
- Thuở niên thiếu Nguyễn Du chịu nhiều ảnh hưởng của mẹ.
3. Thời đại.
- Cuối Lê đầu Nguyễn – thời kì phong kiến Việt Nam suy tàn, giai cấp thống trị thối nát, đời sống xã hội đen tối, nhân dân nổi dậy khởi nghĩa – Khởi nghĩa Tây Sơn.
4. Cuộc đời.
- Từng làm quan cho nhà Lê, chống lại Tây Sơn nhưng thất bại, định trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh nhưng không thành, bị bắt rồi được thả.
- Sống lưu lạc ở miền Bắc, về quê ở ẩn, nếm trải cay đắng
- Năm 1802 làm quan cho triều Nguyễn, tài giỏi được cử đi sứ sang Trung Quốc hai lần.
5. Sự nghiệp thơ văn.
- Ông để lại một di sản văn hóa lớn cho dân tộc:
+ Thơ chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập, Bắc hành tạp lục, Nam Trung tạp ngâm.
+ Thơ chữ Nôm: Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều),Văn chiêu hồn,Văn tế sống hai cô gái trường lưu.
6. Tư tưởng tình cảm
- Đối với những kẻ thuộc tầng lớp trên, tướng lĩnh hay quan lại cao cấp Nguyễn Du vạch trần tội ác của chúng.
- Đối với những con người bất hạnh... ông dành hết tình thương đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
* Tóm lại:
- Sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du từ chữ Hán đến Truyện Kiều, văn chiêu hồn đều sáng ngời chủ nghĩa nhân đạo. Mặc dù sinh ra trong gia đình quý tộc, Nguyễn Du lăn lộn nhiều trong cuộc sống, yêu thương quần chúng, lắng nghe tâm hồn, nguyện vọng của quần chúng nên ông ý thức được những vấn đề trọng đại của cuộc đời.Với tài năng nghệ thuật tuyệt vời ông đã làm cho vấn đề trọng đại càng trở nên bức thiết hơn, da diết hơn, nóng bỏng hơn.Thơ Nguyễn Du dù chữ Hán hay Nôm đều đạt tới trình độ điêu luyện. Riêng truyện Kiều là một cống hiến to lớn của ông đối với sự phát triển của văn học dân tộc.
- Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc – người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc – một danh nhân văn hóa thế giới.
- Thơ Nguyễn Du là niềm tự hào dân tộc – Niềm tự hào của văn học Việt Nam.
- Tố Hữu ca ngợi:
Tham khảo: Hữu Thỉnh (Nguyễn Hữu Thỉnh) sinh năm 1942, quê Vĩnh Phúc. Ông là nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Từ một cán bộ văn hóa, tuyên huấn và sáng tác thơ, ông đã làm Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội, Tổng biên tập báo Văn nghệ…. Từ năm 2000, ông là Tống thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.
Tham khảo:
Hữu Thỉnh (Nguyễn Hữu Thỉnh) sinh năm 1942, quê Vĩnh Phúc. Ông là nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Từ một cán bộ văn hóa, tuyên huấn và sáng tác thơ, ông đã làm Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội, Tổng biên tập báo Văn nghệ…. Từ năm 2000, ông là Tống thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.