Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Răng và tóc là 2 bộ phận quan trọng của con người.Con người muốn đẹp muốn xinh thì đầu tóc phải gọn gàng,sạch sẽ.Răng thì phải đều đặn,trắng trẻo.
("Góc" ý ở đây là nói vẻ đẹp)
dạ bạn có thể viết thành một bài văn chứng minh được ko ạ
refer
-Giải thích:
“Cái răng, cái tóc” đều là những bộ phận trên cơ thể con người. Thể hiện vẻ đẹp ngoại hình của con người.“Góc con người”: là tính cách, phẩm chất làm nên con người.-Ý nghĩa: Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chăm chút ngoại hình bên ngoài thể hiện đến tính cách bên trong.
-Lời khuyên: Con người phải biết chăm sóc đến vẻ bên ngoài hơn.
Cái răng cái tóc là góc con người” là câu tục ngữ xưa nói về vẻ đẹp. Người xưa đề cao việc chăm sóc răng và tóc đến mức chỉ nhìn vào đấy là có thể đánh giá được nhan sắc, thậm chí cả tính cách nữa. Cái răng có dụng cụ chăm sóc không cầu kì lắm.
REFER
Dân tộc ta là dân tộc có lịch sử phát triển dài cả nghìn năm, với rất nhiều các truyền thống, đạo lí tốt đẹp. Trong đó, Uống nước nhớ nguồn và Ăn quả nhớ kẻ trồng cây là đạo lí được phổ biến vô cùng rộng rãi.
Hai câu tục ngữ ấy đều sử dụng hình ảnh ẩn dụ để chỉ về đạo lí cần truyền tải. Đó chính là truyền thống nhớ ơn, biết ơn dành cho các thế hệ đi trước, những người đã cống hiến, xây dựng nên thế giới ngày hôm nay cho chúng ta được sống và hưởng thụ. Đạo lí tốt đẹp ấy đã có từ thời xa xưa, và cho đến nay vẫn được nhân dân ta gìn giữ và phát huy mạnh mẽ.
Những thứ đang hiện diện xung quanh chúng ta, dù to lớn hay nhỏ bé thì đều là công sức, thành quả của những người khác. Con đường có người quét dọn mới trở nên sạch sẽ. Vườn rau có người tưới nước chăm bón mới trở nên xanh tươi. Máy tính, điện thoại có người nghiên cứu sản xuất mới ngày càng hiện đại. Ngôi nhà có bác thợ xây mới được cứng cáp, vững chãi. Đất nước có các chú bộ đội bảo vệ mới được bình yên, toàn vẹn. Chính vì thế, mỗi khi được sử dụng hay tận hưởng bất kì điều gì, chúng ta cần phải nhớ đến, biết ơn, kính trọng những người tạo ra nó.
Lòng biết ơn ấy, được thể hiện qua suy nghĩ, qua tình cảm và hành động của mỗi con người. Nó hiện diện qua những lời cảm ơn, những cái cúi đầu vòng tay. Người ta cảm nhận được truyền thống nhớ ơn ấy đang chảy trong lòng dân tộc ta, qua những ngày lễ, ngày tết, ngày tưởng nhớ các thế hệ đi trước, những người có công với đất nước. Đó là ngày Tết Nguyên Đán với tập tục thờ cúng tổ tiên. Là các ngày vinh danh các thầy cô, y bác sĩ, bố mẹ, bác thợ xây… Tất cả đều được người dân làm mâm cúng với lòng thành kính vô tận.
Truyền thống biết ơn ấy không chỉ dừng lại ở các biểu hiện bên ngoài. Mà còn góp phần thúc đẩy những hành động ý nghĩa hơn. Với lòng nhớ ơn, chúng ta sẽ thêm trân trọng những gì mình đang có. Từ đó, tạo nên khát vọng được cống hiến, được ghi danh, được tạo dựng nên những điều có thể để lại cho các thế hệ sau. Như cha ông mình đã làm từ trước đó.
Như vậy, đạo lí nhớ ơn qua hai câu tục ngữ Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây đã thực sự khắc họa và lan tỏa mạnh mẽ trong lòng người dân Việt Nam ta.
tk
Dân tộc ta là dân tộc có lịch sử phát triển dài cả nghìn năm, với rất nhiều các truyền thống, đạo lí tốt đẹp. Trong đó, Uống nước nhớ nguồn và Ăn quả nhớ kẻ trồng cây là đạo lí được phổ biến vô cùng rộng rãi.
Hai câu tục ngữ ấy đều sử dụng hình ảnh ẩn dụ để chỉ về đạo lí cần truyền tải. Đó chính là truyền thống nhớ ơn, biết ơn dành cho các thế hệ đi trước, những người đã cống hiến, xây dựng nên thế giới ngày hôm nay cho chúng ta được sống và hưởng thụ. Đạo lí tốt đẹp ấy đã có từ thời xa xưa, và cho đến nay vẫn được nhân dân ta gìn giữ và phát huy mạnh mẽ.
Những thứ đang hiện diện xung quanh chúng ta, dù to lớn hay nhỏ bé thì đều là công sức, thành quả của những người khác. Con đường có người quét dọn mới trở nên sạch sẽ. Vườn rau có người tưới nước chăm bón mới trở nên xanh tươi. Máy tính, điện thoại có người nghiên cứu sản xuất mới ngày càng hiện đại. Ngôi nhà có bác thợ xây mới được cứng cáp, vững chãi. Đất nước có các chú bộ đội bảo vệ mới được bình yên, toàn vẹn. Chính vì thế, mỗi khi được sử dụng hay tận hưởng bất kì điều gì, chúng ta cần phải nhớ đến, biết ơn, kính trọng những người tạo ra nó.
Lòng biết ơn ấy, được thể hiện qua suy nghĩ, qua tình cảm và hành động của mỗi con người. Nó hiện diện qua những lời cảm ơn, những cái cúi đầu vòng tay. Người ta cảm nhận được truyền thống nhớ ơn ấy đang chảy trong lòng dân tộc ta, qua những ngày lễ, ngày tết, ngày tưởng nhớ các thế hệ đi trước, những người có công với đất nước. Đó là ngày Tết Nguyên Đán với tập tục thờ cúng tổ tiên. Là các ngày vinh danh các thầy cô, y bác sĩ, bố mẹ, bác thợ xây… Tất cả đều được người dân làm mâm cúng với lòng thành kính vô tận.
Truyền thống biết ơn ấy không chỉ dừng lại ở các biểu hiện bên ngoài. Mà còn góp phần thúc đẩy những hành động ý nghĩa hơn. Với lòng nhớ ơn, chúng ta sẽ thêm trân trọng những gì mình đang có. Từ đó, tạo nên khát vọng được cống hiến, được ghi danh, được tạo dựng nên những điều có thể để lại cho các thế hệ sau. Như cha ông mình đã làm từ trước đó.
Như vậy, đạo lí nhớ ơn qua hai câu tục ngữ Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây đã thực sự khắc họa và lan tỏa mạnh mẽ trong lòng người dân Việt Nam ta.
Đồng nghĩa:
-Uống nước nhớ nguồn.
-Ăn cây nào, rào cây ấy.
Trái nghĩa:
-Qua cầu rút ván.
-Aưn cháo đá bát.
1.đồng nghĩa:Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng 2.trái nghĩa:Ăn cháo đá bát
Tham Khảo
“Cái răng, cái tóc” đều là những bộ phận trên cơ thể con người, thuộc về ngoại hình bên ngoài. Còn “góc con người” ở đây chính là nét tính cách, phẩm chất của mỗi người. Như vậy, câu tục ngữ trên muốn nhấn mạnh rằng đôi khi ngoại hình bên ngoài cũng phần nào thể hiện được nét tính cách bên trong.
bạn tham khảo nha
Khi nhắc đến yếu tố ngoại hình của con người, cha ông ta từ xa xưa đã có câu tục ngữ “Cái răng cái tóc là góc con người” - một lời khuyên đầy quý giá.
“Cái răng, cái tóc” chỉ là những bộ phận nhỏ trên cơ thể, gương mặt của con người nhưng chúng lại là điểm nhấn quan trọng để tạo nên vẻ đẹp và tính cách của mỗi người. “Góc con người” là một phần làm nên con người. Câu tục ngữ muốn nhấn mạnh tới việc, con người phải biết chú ý đến vẻ bên ngoài của mình, biết quan tâm, chăm sóc bản thân mình từ những thứ nhỏ bé như vậy. Đó cũng là yếu tố để khẳng định tính cách của mình.
Nếu chúng ta nhìn vào một con người, muốn đánh giá họ có sạch sẽ, gọn gàng, thậm chí đẹp đẽ hay không chỉ cần nhìn vào răng, vào tóc. Với những người chu đáo, quan tâm đến bản thân mình, họ sẽ chú trọng khi xuất hiện trước người khác. Còn những người xuề xòa, luộm thuộm, họ chẳng cần điều ấy. Bởi vậy, cái “góc con người” ở đây là tính cách, phẩm chất mà câu tục ngữ muốn đề cập tới. Cuộc sống hiện đại ngày nay rất dễ dàng giúp con người cải thiện hơn về vẻ bên ngoài. Không thể phủ nhận những dịch vụ chăm sóc sắc đẹp về răng và tóc ngày càng phát triển. Cho nên “góc con người” không khó để trở nên đẹp. Nhưng cái đẹp sẽ chẳng bao giờ trường tồn, cũng chẳng mãi mãi y nguyên như vậy, nếu chúng ta không biết chăm sóc chúng.
Câu tục ngữ vẫn là lời nhắc nhở về cách ăn ở, về những chú ý nho nhỏ làm nên tích cách tốt đẹp ở con người.
Câu 2 Đói cho sạch là lúc thiếu thốn, không được làm điều gì trái lương tâm không buông xuôi theo kiểu "Đói ăn vụn, túng làm liều"
Rách cho thơm. làm gì có tiền mua dầu thơm khi bụng đói? nên chỉ là tiếng thơm khi nhà nghèo, không làm điều bậy bạ...
Diển hình các gương nghèo hiếu học, nhặt của rơi trả người đánh mất, không bị đồng tiền cám
Câu 3 Dân gian xưa đã để lại cho đời sau những câu nói thật hay, thật đẹp: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”Đây là lời răn dạy của cha mẹ đối với con cái trong gia đình, dòng tộc. Ăn thế nào cho có văn hoá? Nói thế nào cho lễ phép, lịch thiệp? Gói, mở thế nào cho nó đẹp về hình thức, có ý nghĩa về nội dung? Đó chính là vấn đề nề nếp gia phong của gia đình, dòng tộc, có ảnh hưởng lớn đến xã hội. Nói một cách khác là con người phải có hiểu biết, có văn hoá, có nhận thức thì giải quyết vấn đề “Học ăn, học nói, học gói, học mở” sẽ có hiệu quả vì nó là một vấn đề rất tế nhị của đời sống xã hội. Cuộc sống rất phong phú, cái gì muốn biết ta cũng phải học, từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, từ không biết đến biết... đó chính là kinh nghiệm sống của dân gian truyền lại cho con cháu, một bài học mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Tham khảo:
Tục ngữ luôn gửi gắm đến con người những bài học trân quý. Trong đó, câu “Có công mài sắt, có ngày nên kim” là lời khuyên nhủ của ông cha ta về lòng kiên trì vượt khó khăn trong cuộc sống.
Từ câu tục ngữ, chúng ta thấy được hình ảnh quen thuộc. Từ thanh sắt to lớn, người thợ có thể rèn thành cây kim nhỏ bé, sắc bén. Chúng ta vận dụng điều đó để nói về con người biết kiên trì, nỗ lực không ngừng sẽ hoàn thành mục tiêu, đạt được thành công.
Lời khuyên từ câu tục ngữ trên hoàn toàn đúng đắn. Nhân vật Paven trong cuốn tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Nikolai A. Ostrovsky là m ột thanh niên giàu lý tưởng, được tôi luyện trong “lò lửa” của cách mạng. Dù trải qua rất nhiều khó khăn, thử thách thậm chí có lúc phải đối mặt với căn bệnh sốt thương hàn và bị bại liệt, phải ngồi xe lăn. Nhưng anh vẫn không lùi bước trước khó khăn, tin tưởng vào lí tưởng mà mình vẫn luôn theo đuổi. Ở cuộc đời thực, chúng ta chắc hẳn đều biết đến Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của Người đã cống hiến trọn vẹn cho đất nước, nhân dân. Khi còn là một chàng trai trẻ tuổi, Bác đã ra đi tìm đường cứu nước với một trái tim yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc. Hành trình hơn ba mươi năm bôn ba nước ngoài của Bác trải qua mọi khó khăn, nhưng vẫn không đánh bại được ý chí kiên cường. Để rồi cuối cùng, Bác đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Và ngày hôm nay, nhân dân Việt Nam mới được sống trong nền độc lập, tự do . Dù trong bất cứ lĩnh vực nào, kiên trì cũng là một đức tính rất quan trọng, đặc biệt là thể thao. Những vận động viên, họ không chỉ cần có tài năng, mà còn phải trải qua quá trình luyện tập bền bỉ hằng ngày. Những cái tên như Quang Hải, Công Phượng hay Hùng Dũng chắc hẳn đã quá quen thuộc với những người yêu mến bóng đá. Để có được thành công, những cầu thủ của chúng ta cũng đã từng trải qua thất bại, từng bị chỉ trích khi không giữ được phong độ. Nhưng không vì vậy mà họ từ bỏ đam mê, mà vẫn tiếp tục rèn luyện để vượt qua mọi giới hạn của bản thân. Họ cũng chỉ một trong số những cầu thủ, vận động viên đang trên hành trình nỗ lực vươn tới thành công.
Người Việt từ xa xưa rất coi trọng hàm răng và mái tóc. Đó là cái nhìn đầu tiên để đánh giá một người đẹp. Câu thành ngữ trên đã nói lên điều đó.
Thuở xưa, khi còn bé, con gái để tóc trái đào, nhưng đến tuổi trưởng thành thì không bao giờ cắt tóc nữa mà cứ để cho dài mãi. Có được một mái tóc dài và bóng mượt là niềm kiêu hãnh của người con gái. Xưa kia muốn giữ được một mái tóc đẹp thì phải năng gội bằng nước bồ kết cho sạch, gội xong phải xả lại bằng chanh cho mềm tóc. Muốn tóc thơm thì cho lá hương nhu hay lá sả, hạt mùi, đun cùng nước gội đầu. Đứng cạnh người đàn bà mới gội, ta ngửi thấy mùi hương thoảng thoảng của đồng nội, của cỏ cây lá ngàn, và có biết bao chàng trai chỉ vì những mùi hương ấy mà phải một thời say đắm không dứt ra được. Ở miền Nam trồng nhiều dừa, người ta còn bôi nhẹ một lượt dầu dừa lên mái tóc để lấy mùi thơm và làm bóng tóc. Ngày nay, những mùi hương đó có chăng chỉ còn lại trong hoài niệm của những người lớn tuổi.
Đến nay ta chỉ có những tấm ảnh chụp phụ nữ Việt Nam cuối thế kỷ 19, còn trước đó thì chỉ có những mô tả mơ hồ của các nhà du hành. Đầu thế kỷ 17, linh mục người Ý Chistophorro Borri (1583-1632) đã đến Bình Định, lúc đó thuộc lãnh thổ Đàng Trong dưới sự cai trị của các chúa Nguyễn. Viết về cách để tóc của phụ nữ Việt ông nói: “Họ để tóc xõa và bồng bềnh trên hai vai, tóc dài đến mức chấm đất, và tóc càng dài, người ta càng cho là đẹp. Trên đầu họ đội một thứ mũ rộng vành, rộng đến mức che lấp cả mặt, khiến cho mắt nhìn chỉ thấy được có ba bốn bước phía trước, và cái mũ đó được tết bằng lụa hay vàng tùy theo thứ bậc của người đội. Sau đấy, các phu nhân để chào hỏi một cách lễ độ, phải ngả mũ ra để người ta có thể nhìn thấy trước mặt.” Đoạn văn trên chỉ cho ta những thông tin mơ hồ về cách để tóc của người Việt ở miền Trung. Riêng cái mũ rộng vành thì có lẽ tác giả lầm cái nón chóp nhọn mà phụ nữ phía nam quen đội.
Hơn ba thế kỷ sau, bác sĩ quân y Charles-Édouard Hocquard theo quân viễn chinh Pháp đến Bắc Kỳ từ tháng 2-1884 đã ghi lại những trang về người phụ nữ mà ông đã gặp trong những ngày đầu đến Hà Nội: “Điều khiến tôi ngạc nhiên khi đến xứ sở kỳ lạ này, là khó khăn trong thời gian đầu để phân biệt đàn ông và đàn bà từ cái nhìn đầu tiên. Cả hai đều để tóc như nhau. Quần áo cũng gần như nhau. Đàn bà cũng quấn khăn như đàn ông […]” Tuy quan sát nhầm lẫn như vậy, nhưng Hocquard đã để lại cho chúng ta nhiều ảnh để có thể thấy cách để tóc của những đàn bà miền Bắc hồi đó.
Người phụ nữ đấtBắc thường buộc tóc về phía bên thành cuộn dài, bọc bên ngoài bằng một cái khăn hẹp mà dài rồi quấn quanh đầu từ phía trước ra phía sau. Đầu mối còn thừa thì giắt vào dưới vành khăn, để xõa sang bên một túm tóc nhỏ gọi là đuôi gà. Vì vậy mà câu “một thương tóc bỏ đuôi gà…” không phải xa lạ với các chàng trai xứ Bắc. Khi đi ra ngoài, để giữ cho tóc khỏi sổ người ta thường trùm một cái khăn vuông, vừa là để che nắng vừa chống rét. Người bình dân thường trùm khăn đen, phía trước trán gập nhọn giống như mỏ con chim nên được gọi là “khăn mỏ quạ”.
Trong khi đó ở miền Nam có lẽ do ảnh hưởng của người Hoa nhập cư ồ ạt từ các thế kỷ 17-18, nên phụ nữ lại bới tóc cao sau gáy rồi cài một cái trâm giữ cho tóc khỏi sổ. Khi ra ngoài thì quấn quanh đầu một cái khăn rộng dệt ô đen trắng giống như khăn của phụ nữ Khmer hay Mã Lai. Người ta gọi đó là chiếc khăn rằn với nhiều công dụng như che nắng, lau mặt hay quàng lên người... Vào buổi đầu, đàn bà Việt ở thành thị còn thua kém các thím Khách, cho nên cách bới tóc của người Hoa được coi là mẫu mực, đã được cụ Vương Hồng Sển mô tả như sau: “Các ỷ, các ý trong Chợ Lớn thì đầu bới tóc thả bánh lái “ba vòng một ngọn”, ăn trầu tích toát, để móng tay dài và mỗi lần xỉa thuốc thường vảnh ngón tay cho người ngoài thấy mình có cà rá hột xoàn bự, hay bộ nhẫn vàng quấn kiểu “cửu khúc liên hoàn”. Trên vai mấy ỷ thường giắt một cái khăn vằn Nam Vang dùng để lau trầu, khác với mấy cô vợ Tây thì quấn chuỗi hột vàng gần gãy cổ, tay đeo kiềng vàng chạm kiểu “nhứt thi nhứt họa”, thêm mặc áo mớ ba mớ bảy, tóc xức dầu thơm chánh hiệu “Cô Ba”.
Dù để tóc bới, nhưng người phụ nữ Huế không quên quấn một chiếc khăn gợi nhớ lại mái tóc quấn của người xứ Bắc. Nhưng với phụ nữ quí tộc thì khi vào chốn cung đình hay trong các dịp lễ tết, bắt buộc phải quấn khăn vành dây, thân phận càng cao quí thì cái khăn càng phải to và rộng. Chiếc khăn vành tồn tại mãi cho đến ngày nay đối với phụ nữ khắp ba miền trong các nghi thức đặc biệt và nhất là trong đám cưới.
Sang đầu thế kỷ 20, khi cuộc sống đô thị phát triển, người phụ nữ bắt đầu tham gia công việc xã hội, dần dần có mặt ở trường học, bệnh viện và nhiều nơi công cộng khác, khiến họ phải tìm một kiểu tóc hợp lý hơn, thuận tiện trong công việc. Ngoài Bắc kiểu quấn tóc bằng khăn vải, dù là khăn nhung sang trọng hơn nhưng vẫn gây điều bất tiện, nên nhiều người đã chuyển sang quấn tóc trần khiến đầu tóc nhẹ nhàng mượt mà hơn. Việc quấn tóc trần khiến cho độn tóc bằng vải trở thành vô dụng, vì vậy những người tóc thưa phải dùng cái độn tết bằng tóc thật. Từ đấy xuất hiện cái nghề thu mua tóc rối để chải thẳng ra kết thành cái độn tóc, không những có các cửa hàng chuyên bán tóc độn, mà còn có những người đi dọc các phố phường mồm rao “ai tóc rối đổi kẹo không?”
Trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi tiếp đến đất nước bị chia cắt, miền Bắc Việt Nam bước vào một thời kỳ khắc khổ khiến cho việc để tóc của phụ nữ phải đơn giản hóa đến tận cùng. Tóc dài cặp sau lưng tuy đơn giản nhưng vẫn bị coi là vướng víu, không thích hợp với cuộc sống lao động. Tóc tết bím trở nên phổ biến từ thành thị đến thôn quê, vì nó gọn, đơn giản.
Trong khi ở miền Nam, do sự tiếp xúc thường xuyên với các mẫu tóc và các phương tiện làm tóc dồi dào, nên việc làm tóc của phụ nữ trở nên đa dạng, thì ở miền Bắc, do thiếu phương tiện và không có báo chí thời trang tóc, nên việc làm tóc chỉ có thể dựa vào những hình ảnh ít ỏi của các cô diễn viên điện ảnh các nước Đông Âu. Tuy các hiệu làm tóc cho phụ nữ ở Hà Nội hay Hải Phòng có thể đếm trên đầu ngón tay, nhưng một số người làm tóc đã có nhiều cố gắng, trong chừng mực cho phép, để đưa ra những kiểu đầu tóc đẹp. Trong thời buổi mà quần ống bó còn bị bài bác, quần ống loe cũng bị cắt, thì tóc phụ nữ muốn làm đẹp vẫn còn phải dè dặt, không dám đưa ra những mốt quá mới lạ. Đó cũng là những cố gắng của những người thợ làm tóc thời đó, biết sáng tạo trong khuôn khổ chật hẹp.
Phải đợi đến sau ngày đất nước thống nhất, rồi trải qua thời kỳ đổi mới, thì việc làm tóc của phụ nữ mới được phát triển một cách tự do. Đáng tiếc là trong những thời gian đầu, do không có những tạp chí thời trang tóc để hướng dẫn, nên các kiểu tóc đưa ra thường mang những cái tên quá thô thiển, như “tóc xù mì” (giống như mì ăn liền), “tóc xù tăm”… Đến nay thì đội ngũ những người làm tóc chuyên chăm sóc sắc đẹp cho phụ nữ đã trở nên đông đảo, người phụ nữ có thể lựa chọn bất cứ kiểu tóc nào cho hợp với dáng vẻ và tuổi tác của mình, không còn sợ những điều cấm kỵ của xã hội, họ chỉ theo một tiêu chí duy nhất là Đẹp.
ko chép mạng mà bạn , đây là bạn chép rồi còn gì