Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
có vua hùng , có mị nương công chúa , có bão lũ hằng năm , có núi tản viên
< TD tự làm nha mk ngu lắm >
Sự thật lịch sử trong truyện Sơn Tinh,Thủy Tinh được thể hiện rõ nhất qua những chi tiết,hình ảnh:Thời vua Hùng,vua Hùng gả con gái,mưa bão mà Thủy tinh gây ra chính là mùa bão hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ xưa,Sơn Tinh làm núi để tránh nước.Đó là hình ảnh nhân dân ta đắp đê chống lũ hằng năm
học tốt
Cốt lõi lịch sử của Sơn Tinh Thủy TInh là:giải thích hiện tượng lũ lụt xảy ra ở vùng châu thổ thường xuyên bắc bộ thời xưa và thể hiẹn khát vọng chế ngự lũ lụt,bảo vệ cuộc sống của nhân dân ta và khen vua Hùng có công lao dựng nước của ch ông ta trong thời vua Hùng
a,
- Nhân vật Sơn Tinh: "vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi". Sơn Tinh có thể "dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành luỹ đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu". Đây là nhân vật tượng trưng cho khát vọng và khả năng khắc phục thiên tai của nhân dân ta thời xưa. – Nhân vật Thủy Tinh: "gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về"; có thể "hô mưa, gọi gió làm thành giông bão rung chuyển cả đất trời". Đây là nhân vật tượng trưng cho mưa bão, lũ lụt thiên tai uy hiếp cuộc sống của con người. b,giải thích hiện tượng lũ lụt , thể hện sức mạnh , mong ước của người Việt cổ muốn chế ngự thiện tai.đồng thời suy tôn , ca ngợi công lao dựng nước của các vua hùng .sơn tinh vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi thủy tinh gọi gió gió đến hồ mua mua về sự thật lịch sử thời hùng vương thứ 18
su that lich su trong truyn duoc the hien qua cac chi tiet:thoi vua Hung , vua Hung ga con gai,mua bao ma Thuy Tinh gay ra do chinh la mua bao hang nam o dong bang Bac Bo xua , Son Tinh lam nui de tranh nuoc do la hinh anh nhuoi nhan dan ta dap de trong lut
Ở đây, như tất cả những nơi thờ phụng Sơn Tinh trên đất nước, có rất nhiều thần phả ghi lại công đức và sự nghiệp của Ngài, nhưng sinh động nhất vẫn là kho tàng truyền thuyết dân gian truyền miệng từ đời này sang đời khác với tất cả lòng say mê và thành kính.
Đó là những truyện kể về vô vàn sự tích kỳ lạ của Sơn Tinh gắn liền với các địa danh, địa hình, địa vật: những rừng núi, gò đồi, sông suối, bờ bãi, đầm hồ; những đình đền miếu mạo, những thôn xóm và những con người ở vùng xung quanh núi Tản.
Đỉnh núi Tản Viên Trong ký ức nhân dân vùng chân núi Ba Vì, Sơn Tinh trước hết là hình tượng người Anh hùng trị thủy, người đã chiến thắng oanh liệt Thủy Tinh, cứu dân thoát khỏi nạn lụt. Chuyện Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh chiếm một phần lớn nhất trong các truyền thuyết về Ngài.
Thủy Tinh và thuộc hạ đã gây cho dân vùng này biết bao tai họa tàn bạo và khủng khiếp, đến mức hàng năm nhân dân phải cống nạp cho chúng những người con gái còn trinh như các chuyện kể ở Tây Đằng, Vật Lại, Cam Thượng Đường Lâm.
Sức mạnh của Thủy Tinh thật là ghê gớm. Hắn phá tung những dẫy gò đồi phía bắc Ba Vì tạo thành suối Di, sới tung ruộng đồng phía đông tạo thành sông Tích. Hắn húc nghiêng cả núi Chàng Rể ở phía tây, đến bây giờ trái núi này vẫn gù lưng, không ngửng lên được nữa. Thậm chí Thủy Tinh còn dâng nước lên tận Ao Vua, Khoang Xanh ở ngang sườn núi Tản.
Chỉ có sức lao động thần kỳ và trí tuệ phi thường của Sơn Tinh mới chống được Thủy Tinh. Những quả đồi Mòm và dãy gò Choi ở vùng Tòng Lệnh phía bắc núi Ba Vì hay những trái núi vùng Sụ Đá, La Phù và Thạch Khoán, những hòn núi Chẹ, núi Đá Chèm ở phía tây thuộc mạn sông Đà, những dãy đồi Máng Sòng, đồi Giếng ở phía đông núi Ba Vì đều do Sơn Tinh ngày đêm gánh đất đắp nên để chặn dòng nước lũ của Thủy Tinh. Sự tích "đồi Đùm đứt quai, đồi Vai lọt sọt" kể rằng trái đồi Vai cao nhất xã Kim Sơn là tảng đất rơi vì thủng sọt, còn dãy đồi Đùm san sát kéo dài ở xã Xuân Sơn là do đứt quang, đất đổ ra nhiều dọc con đường Ngài gánh đất ngày xưa.
Sơn tinh còn nghĩ ra trăm phương ngàn kế để chiến thắng Thủy Tinh, từ việc cắm chông chà ở bãi Đá Chông, thả rong rào, chăng lưới ở vùng suối Cái, cho quân gieo hạt thành rừng quanh ngọn U Bò, ném lạt tạo thành lũy tre dày ở ngòi Lặt, lao gỗ đá từ trên núi xuống đánh tan quân Thủy Tinh, chạy thành mười sáu ngả ở đầm Đượng.
Trên bãi chiến trường xưa của Sơn Tinh, vẫn còn đó những dấu vết tàn binh bại tướng của Thủy Tinh: Rùa,Cá Sấu ở Vân Sơn; Rắn và Giải ở Phụ Khang và Sơn Lộc;Thuồng luồng ở cầu Hang và thủy quái ở ghềnh Bợ trên sông Đà... Có đứa xác biến thành đá, thành đồi, có đứa sống sót tìm vực sâu ẩn nấp, chờ chủ tướng hàng năm lại trở về quấy đảo trong mùa nước lũ.
Đường lên núi Tản Trong các truyền thuyêt về Sơn Tinh trị thủy, hình tượng Sơn Tinh là người anh hùng có vóc dáng khổng lồ, có thể quẩy núi, ngăn sông. Phải chăng chỉ có hình tượng kỳ vỹ của người khổng lồ mới phản ánh được hiện thực lớn lao và sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta trong công cuộc chinh phục tự nhiên,dọc theo quá trình tiến từ rừng núi xuống đồng bằng trong lịch sử xa xưa của dân tộc? Chắc chắn rằng để tồn tại được ở vùng đất thâp, cuộc chiến đấu ác liệt nhất của tổ tiên ta phải là cuộc chiến đấu chống lại nạn lụt hoành hành dữ dội theo chu kỳ mùa nước hàng năm.
Cho đến hôm nay, nạn lụt vẫn còn là mối đe dọa lớn đối với nhân dân ta. Vì vậy, có thể nói truyền thuyết Sơn Tinh thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân muốn chế ngự được thảm họa lũ lụt, đồng thời cũng là lời cảnh báo tự muôn đời không bao giờ được lơ là đối với thủy tai.
Sơn Tinh
Trong các truyền thuyết sưu tầm được ở xứ Đoài, Sơn Tinh còn xuất hiện với tính cách người Anh hùng khai sáng. Từ quê cũ Lăng Xương, Sơn Tinh vượt sông Đà sang núi Tản khai phá vùng đất mới rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây. Ngài đưa cả mẹ già và công chúa Ngọc Hoa về vùng núi Ba Vì. Ở đây, Sơn Tinh trở thành ông tổ trăm nghề. Vùng ven sông Tích vẫn lưu truyền việc Sơn Tinh dạy dân làm ruộng. trong các truyền thuyết ở Ao Vua, Quy Mông, Sơn Tinh lại dạy dân đào giếng lấy nước ăn và chống hạn. Sơn Tinh chỉ bảo phường săn ở rừng Măng cách chăng lưới và làm bẫy để bắt chim, săn thú; dạy dân Cung Sơn cách làm "dập", một công cụ bắt cá chỗ nước sâu, nơi hội tụ của nhiều nhánh sông. Công chúa Ngọc Hoa, vợ của ngài thì dạy dân trồng dâu chăn tằm, ươm tơ dệt lụa.
Sơn Tinh - Ngọc Hoa
Không chỉ dạy dân cách làm ăn để dân no ấm, Sơn Tinh còn dạy dân múa hát để vui sống sau những giờ lao động nhọc nhằn. Hội múa Dô ở Liệp Tuyết chính là hình thức kỷ niệm việc Sơn Tinh dạy dân nghệ thuật. Các làng Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thuần Nghệ, Phú Nhi lại truyền tụng những câu chuyện Sơn Tinh dạy dân lễ giáo, trau dồi phong hóa, mong muốn mọi người sống với nhau đầm ấm chan hòa, có nghĩa, có nhân. Nhiều nơi, Sơn Tinh để lại dấu chân trên đường làm thuốc trị bệnh cứu người.
Trải qua bao thế hệ, trong trí nhớ của nhân dân, Sơn Tinh bao giờ cũng là vị thủ lĩnh có đức độ cao cả, có lòng cứu nhân độ thế, là người anh hùng hộ quốc an dân, tế bần cứu khổ,lấy việc chăm lo cho dân làm mục đích tối thượng. Có phải đó là biểu hiện lý tưởng, là mong ước từ xưa của quần chúng về người lãnh tụ chân chính của nhân dân?
Ở một số truyền thuyết, Sơn Tinh lại giữ vai trò của người Anh hùng liên minh các bộ tộc, giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Sơn Tinh đã thân hành dẫn dân Cẩm Lĩnh ở chân núi Ba Vì về gặp dân Tòng Bạt ở hạ lưu sông Đà để kết nghĩa làm anh em. Tinh thần hòa hợp và thống nhất của Sơn Tinh đã thu phục được cả những vị thủ lĩnh ở các vùng xa tìm đến kết giao, như truyền thuyết về các ông thánh Miễu, ông Ba Bể cảm phục đức tài thánh Tản.
Tuy hùng cứ một phương, có thế lực và quyền uy rất lớn, song Sơn Tinh vẫn thần phục Hùng Vương, xin được làm rể và bề tôi của nhà vua.Việc cầu hôn công chúa Ngọc Hoa phải chăng thể hieenjtuw tưởng kết liên, nhằm mở rộng bờ cõi, hòa nhập với bộ lạc Văn Lang, tăng cường sức mạnh khối đoàn kết nhân dân?
Trong tình hình các thị tộc, bộ lạc có khuynh hướng cát cứ, phân lập và kình địch lẫn nhau, việc thống nhất lực lượng của Sơn Tinh thật có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử.
Rải rác trong một số chuyện, Sơn Tinh đã đánh giặc để giữ gìn bờ cõi. Ở những chuyện này, Sơn Tinh lại được ngợi ca như một ngườiAnh hùng bảo vệ đất nước.
Truyền thuyết vùng Tản Lĩnh kể rằng Sơn Tinh đem quân đuổi giặc, gấp đến nỗi phải cho quân ăn nồi cơm sống dở, về sau, trong những ngày lễ hội, đồ hiến tế bao giơ cũng có ván sôi tráng lớp mật, trên rắc ít hạt gạo sống tượng trưng cho nồi cơm đuổi giặc chưa kịp chín năm xưa. Vùng Thanh Lạng lưu truyên khúc dân ca kể rằng dân làng gói bánh chưng giữa tháng mười khao quân của ngài ăn tết sớm kịp đi đánh giặc.
Giống như nhiều nơi khác, ở Ba Vì cũng có truyền thuyết về Sơn Tinh đánh giặc Thục. Trong các trận giao chiến dữ dội với quân Thục rất đông và mạnh, Sơn Tinh bao giờ cũng chiến thắng vẻ vang, cuối cùng chúa Thục phải cầu hòa và rút quân. Ở đây, chưa biết sự thật lịch sử hư thực ra sao, nhưng truyền thuyết về Sơn Tinh đánh giặc thể hiện rất rõ ý chí kiên cường bất khuất và lòng tự hào về khả năng bảo vệ vững chắc lãnh thổ thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc.
Sơn Tinh còn rất chăm lo rèn quân luyện võ để không ngừng nâng cao khả năng phòng thủ đất nước. mỘt số nơi còn giữ được tục lệ đầy tinh thần thượng võ như lễ hội làng Khê Thượng diễn lại tích Sơn Tinh luyện võ ngày xưa.
Trong truyền thuyết dân gian, hình tượng Sơn Tinh mang tính nhân dân rất đậm nét . Tuy ở địa vị tôn quý, ngài vẫn ăn ở chan hòa bình dị với dân. Ngài cùng làm việc với mọi người, cũng gánh đất chống lụt, tắm rửa ven sông như một nông dân. Sơn Tinh cũng kéo vó bên sông Tích, ăn gỏi cá ở Bằng Tạ như một ngư dân. Ngài cùng đi săn với phường săn, cùng ngủ rừng với ông già tiều phu ở Cẩm Đảivà cùng ông kéo ống giang với bùi nhùi đốt lửa sưởi trong đêm. Sơn Tinh còn thường xuyên đi thăm hỏi dân các làng quê, cùng vui chơi múa hát trong các ngày lễ hội.
Một số hình ảnh lễ hội Sơn Tinh ở đền Và - thị xã Sơn Tây:Căn cứ vào truyền thuyết ở vùng Ba Vì thì có lẽ vào thời Hùng Vương, sự phân hóa giai cấp còn chưa rõ nét. Hình ảnh Sơn Tinh không có dáng dấp đặc trưng của giai cấp thống trị như trong các thời kỳ lịch sử sau này.Quan hệ giữa Sơn Tinh với nhân dân là bình đẳngvà dân chủ. Sơn Tinh không có đặc quyền đặc lợi nào cả, cũng không có sự ngăn cách, phân biệt nào giữa thủ lĩnh với quần chúng nhân dân.
Có thể nói hình ảnh núi sông, đất nước và nhân dân của cả một vùng sông Đà - núi Tản được sử dụng như những chất liệu cơ bản để khắc họa hình tượng Sơn Tinh: một cô gái cắt cỏ trên đồng, một cụ già kéo cá bên sông Tích, một trái đồi Vai, một giếng Mùi gươm trên đỉnh U Bò, một xóm Rủa, xóm Cua ở chân núi Tản, một ghềnh Bợ ở quãng sông chảy xiết, một con nước "hoa mơ" màu trắng xuất hiện trên sông cho đến mẩu gỗ trôi theo dòng nước lũ... hầu như tất cả thiên nhiên, sản vật, con người ở khắp nơi trn đất Ba Vì đều được gắn liền với cuộc đời và những chiến công của người Anh hùng bất tử.
Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt cổ, nếu như Đức Chử Đồng Tử có công khai mở bờ cõi, Đức Phù Đổng Thiên vương có công bảo vệ non sông, Giáng Tiên Liễu Hạnh dạy dân về thuần phong mỹ tục, thì với Sơn Tinh, ngài bao trùm tất cả những công đức ấy. Ngài xứng đáng đứng đầu trong các vị thần bất tử.
Thực tế là hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ, cứ đến mùa mưa bão là nước dâng to, nhưng chưa bao giờ làm ngập nổi núi đồi. Cuối mùa lũ, nước rút đi, sông suối trở lại hiền hòa. Người xưa cho rằng đó là Thần Nước đánh nhau Với Thần Núi để giành lại Mị Nương… Quả là trí tưởng tượng của họ vô cùng phong phú và bay bổng.
Truyện có hai nhân vật: Sơn Tinh – chúa tể của vùng non cao và Thủy Tinh – chúa tể của vùng nước thẳm. Cả hai đều có tài năng phi thường. Sơn Tinh vẫy tay vá phía đông, phía đông nổi lên cồn bải, vẫy tay về phía tây, phía tây lập tức hiện ra những dãy núi đồi. Thủy Tinh gọi gió, gió tới; hô mưa, mưa về. Cả hai vị thần đều tài giỏi. Điều ấy khiến nhà vua băn khoăn không biết chọn ai, đành ra điều kiện: Ngày mai, nếu ai mang lễ vật đến sớm thì được cưới Mị Nương.
Ngay trong chuyện thách cưới, có lẽ ý nhà vua đã nghiêng về phía Sơn Tinh. Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Rồi trăm ván cơm nếp, trăm nệp bánh chưng… Tất cả đều là sản vật của đồng ruộng, núi rừng. Vì vậy, kẻ thắng cuộc tất nhiên phải là Sơn Tinh. Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, cưới được Mị Nương và đưa nàng về núi Tản Viên. Sơn Tinh thật xứng đôi với nàng công chúa xinh đẹp.
Không cưới được Mị Nương, Thủy Tinh đùng đùng nổi giận. Chàng phô bày hết sức mạnh tàn bạo của mình trong cuộc giao tranh với Sơn Tinh. Gió bão rung chuyển cả đất trời. Mưa làm nước sông hồ dâng lên cuồn cuộn, ngập tràn đồng ruộng, mùa màng, cuốn phăng cây cối, nhà cửa, súc vật. Nước dâng lên sườn đồi, sườn núi làm tróc cây, lở đá… Thủy Tinh muốn nhấn chìm đỉnh núi để tiêu diệt Sơn Tinh, cướp lại Mị Nương.
Nhưng Sơn Tinh cũng trổ hết tài bốc đồi, dời núi, dựng thành ngăn nước. Nước dâng cạo bao nhiêu, núi đồi cao lên bấy nhiêu. Suốt mấy tháng trời, cuộc tấn công của Thủy Tinh thật là dữ dội: giông bão, sấm chớp, mưa như trút nước, đồng ruộng hóa thành sông, sông thành biển cả. Ấy vậy nhưng Sơn Tinh không hề nao núng, vẫn bình tĩnh, sáng suốt chống trả một cách quyết liệt và thắng lợi. Cuối cùng kiệt sức, Thủy Tỉnh phải rút lui.
Cả hai vị thần đều có tài cao, phép lạ. Nhưng Thủy tinh dù phép thuật cao cường vẫn phải khuất phục trước Sơn Tinh dũng mãnh và mưu trí. Những chi tiết nghệ thuật kì ảo, hoang đường về Sơn Tinh, Thủy Tinh và khí thế hào hùng của cuộc giao tranh giữa hai vị thần thể hiện trí tưởng tượng phong phú của người xưa.
Cuộc giao tranh không chỉ xảy ra một lần mà nhiều lần, năm nào cũng vậy. Nhưng kết cục thì không thay đổi: thần Núi chiến thắng thần Nước. Mị Nương vẫn sống hạnh phúc bên Sơn Tinh trên đỉnh Tản Viên cao vời vợi. Thủy Tinh không sao giành lại được nàng.
Sơn Tinh, Thủy Tinh là những nhân vật hoàn toàn tưởng tượng nhưng lại có ý nghĩa rất thực vì đã khái quát được hiện tượng lũ lụt, đổng thời phản ánh những kì công trong sự nghiệp dựng nước của nhân dân ta dưới triều đại các vua Hùng.
Tất cả những chi tiết kì ảo trên đều nhằm để giải thích hiẹn tượng lũ lụt và việc chống lũ lụt hằng năm của nhân dân ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Có một chi tiết quan trọng là Sơn Tinh dựng thành ngăn nước. Đó là công việc đắp thành bằng đất của con người – khởi đầu cho những con đê lớn sau này chạy suốt hai bờ những con sông lớn để ngăn lũ. Người xưa để cho Sơn Tinh thắng Thủy Tinh là gửi gắm vào đó ước mơ có được sức mạnh thần kì để chế ngự được nạn lũ lụt – một tai họa lớn của con người.
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh có giá trị nội dung và nghệ thuật rất đặc sắc.
Thủy Tinh là hiện tượng mưa gió, bão lụt ghê gớm hằng năm đã được hình tượng hóa thành kẻ thù hung dữ, truyền kiếp của Sơn Tinh.
Sơn Tinh là hiện thân của người dân Việt cổ cần cù đắp đê phòng chống lũ lụt, là ước mớ chiến thắng thiên tai của người xưa. Tầm vóc vũ trụ, tài năng và khí phách của Sơn Tinh là biểu tượng sinh động cho chiến công của người Việt cổ trong cuộc đấu tranh chống bão lụt ở vùng lưu vực sông Đà và sông Hồng. Đây cũng là kì tích dựng nước của thời đại các vua Hùng và kì tích ấy cho đến nay vẫn được tiếp tục phát huy mạnh mẽ.
Ước mơ xưa giờ đây, đã thành hiện thực. Những công trình Thủy lợi lớn như hệ thống đê điều, mương máng, những hồ nước, đập nước điều hòa dòng chảy của sông Đà, sông Hồng đã thực sự chế ngự được sức tàn phá ghê gớm của nước lũ. Hạt lúa, củ khoai do bà con nông dân đổ mồ hôi làm ra đã được bảo vệ. Ngày nay, con cháu của Sơn Tinh đã và đang thực hiện ước mơ của tổ tiên ngày trước.
phat bieu cam nghi ve truyen son tinh thuy tinh
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nạn phá rừng, cháy rừng diễn ra rất nghiêm trọng trên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới sinh thái, môi trường của đất nước ta. Hiện tượng thiên tai lũ lụt xảy ra gây hậu quả rất nghiêm trọng, phần lớn nguyên nhân là do cháy rừng, phá rừng.
Mất rừng, Sơn Tinh sẽ mất hết sức lực và phép lạ, làm sao chống chọi được với Thủy Tinh?!
Nhà nước ta hiện nay đang có chủ trương vận động nhân dân tích cực xây dựng, củng cố đê điều; nghiêm cấm nạn phá rừng, đi đôi với việc trồng thêm hàng triệu héc-ta rừng phủ xanh đất trống, đồi trọc. Đây là chủ trương đúng đắn và hợp lí, được mọi người đồng tình.
Sự thật lịch sử trong truyện Sơn Tinh Thủy Tinh thể hiện rõ nhất qua những chi tiết, hình ảnh : Thời vua Hùng , Vua Hùng gả con gái , mưa bão mà Thủy Tinh gây ra chính là mùa bão hàng năm ở đồng bằng Bắc Bộ xưa , Sơn Tinh làm núi để tránh nước đó là hình ảnh nhân dân ta đắp đê chống lũ lụt hàng năm
Chúc bạn học tốt
Mình lấy trên mạng, bạn tham khảo nhé:
* Sự tích Hồ Gươm
Đây là một truyền thuyết lịch sử, gắn với cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, nằm trong chuỗi truyền thuyết về người anh hùng Lê Lợi. Nhưng đây cũng là truyền thuyết địa danh (loại truyền thuyết giải thích nguồn gốc trực tiếp của những tên núi, tên sông, tên hồ… nguồn gốc hình thành những vùng đất…). Vì thế, truyện không chỉ phản ánh, ca ngợi cuộc kháng chiến chính nghĩa, mang tính chất nhân dần do Lê Lợi lãnh đạo đánh đuổi giặc Minh xâm lược mà còn giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm, đồng thời cũng thể hiện khát vọng, ước mơ về hoà bình của dân tộc ta. Truyện kể gồm hai sự kiện: Long Quân cho Lê Lợi, người đứng đầu cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn, mượn gươm thần; Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại gươm thần và việc ra đời tên gọi hồ Hoàn Kiếm.
Sự kiện Long Quân cho mượn gươm thần đã chắp đôi cánh của trí tưởng tượng đầy thơ và mộng của dân gian cho tác phẩm nhằm thần kì hoá nguyên nhân dẫn đến thắng lợi vĩ đại của cuộc khỏi nghĩa’Lam Sơn. Cách cho mượn gươm của Long Quân cùng hệ thống chi tiết về các bước xuất hiện của gươm thần bao hàm nhiêu ý nghĩa sâu sắc. Lưỡi gươm tìm được từ dưới nước, chuôi gươm tìm thấy từ trên rừng, khi khớp lại thì thành thanh gươm thần hoàn chỉnh dùng đế đánh giặc. Điều đó nói lên một cốt lõi sự thực lịch sử là: khi có giặc ngoại xâm đến, nhân dân ta từ vùng rừng núi đến miền biển khơi đều nhất tề đứng lên đánh giặc, khi các phong trào lẻ tẻ ấy ở nhiều nơi liên kết lại, thống nhất vói nhau thì sẽ tạo thành sức mạnh to lớn để đánh thắng giặc ngoại xâm. Chi tiết này gợi cho chúng ta .nhớ đến bài học về tinh thần đoàn kết mà Long Quân (tức tổ tiên) đã dạy con cháu khi từ biệt về cõi thiêng: “Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì thì giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn” (Con Rồng cháu Tiên). Lời nói của Lê Thận khi dâng gươm cho Lê Lợi là lời của toàn dân, trên dưới một lòng, khẳng định vai trò lãnh đạo cuộc khỏi nghĩa của Lê Lợi. Câu nói đó cùng vói tên thanh gươm thần “Thuận Thiên” đã nhấn mạnh tính chất chính nghĩa của cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn: mục tiêu của cuộc khỏi nghĩa hoàn toàn phù họp với ý Trời, lòng Dân.
Sự kiện Long Quân đòi lại gươm thần trên hồ Tả Vọng, lúc đất nước đã sạch bóng quân thù mang nhiều hàm ý. Đất nước đã sạch bóng quân thù, giờ đây nhân dân ta bắt tay vào giai đoạn lao động, xây dựng cuộc sống hoà bình, phồn vinh. Nghĩa là giai đoạn “dụng võ” đã qua, giờ là lúc bắt đầu giai đoạn “dụng văn” (dùng trí tuệ để xây dựng đất nước). Gươm thần trao lại cho Long Quân giữ. Thanh gươm vẫn còn đó, khi nào đất nước bị ngoại xâm, Long Quân sẽ lại cho con cháu mượn gươm thần. Việc Lê Lợi cho đổi tên hồ từ hồ Tả Vọng thành hồ Hoàn Kiếm bao hàm lòng biết ơn tổ tiên và ý thức đề cao cảnh giác, răn đe những kẻ rắp tâm dọm ngó nước ta. Gươm thần từ Long Quân chuyển đến vị chủ tướng của cuộc khởi nghĩa để cùng ông và nghĩa quân làm nên chiến thắng, rồi gươm thần lại từ Lê Lợi chuyển về cho Long Quân. Vòng khép kín này tạo nên tính nhất quán của câu chuyện, vẻ đẹp hoàn mĩ của cấu tạo tác phẩm và hình ảnh lưỡi gươm thần. Tất cả nhằm thần thánh hoá một trong những chiến công chống ngoại xâm hiển hách của dân tộc, ca ngợi hết lời triều đại nhà Hậu Lê mở đầu bằng Lê Lợi – Lê Thái Tổ. Bên cạnh đó chi tiết trả gươm còn thể hiện khát vọng hoà bình của dân tộc Việt Nam, Khi đã đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, chiến tranh đã kết thúc thì tạm cất vũ khí đi để xây dựng đất nước thanh bình, vũ khí chỉ sử dụng vào mục đích tự vệ để bảo vệ Tổ quốc. Riêng hình tượng nhân vật Rùa Vàng nhắc ta nhớ tói hình tượng nhân vật Thần Kim Quy trong truyền thuyết về An Dương Vương xây thành cổ Loa và đánh thắng cuộc xâm lăng lần thứ nhất của Triệu Đà nhờ chiếc nồ thần. Sự xuất hiện nhiều lần của Rùa Vàng trong các sự kiện trọng đại của lịch sử được truyền thuyết kể lại nhằm nói lên truyền thống yêu nước của dân’tộc và cũng góp phần tô đẹp thêm cho vẻ đẹp nghệ thuật của thể loại truyền thuyết dân gian.
* Sơn Tinh - Thuỷ Tinh
Thông qua cuộc thi tài – cầu hôn và quyết chiến để tranh giành nàng Mị Nương của thần Sơn Tinh, Thuỷ-Tinh, truyện nhằm giải thích hiện tượng lũ lụt hằng năm ở đồng bằng châu thổ sông Hồng. Được hình thành bằng con đường gia tăng yếu tố lịch sử cho thần thoại (lịch sử hoá thần thoại), cho nên truyền thuyết Son Tinh, Thuỷ Tinh không chỉ dừng lại ở mục đích giải thích các hiện tượng tự nhiên nói chung (nguồn gốc ngọn núi, dòng sông; nguồn gốc nạn lụt hàng năm), cũng không chỉ phản ánh ước mơ chinh phục các hiện tượng tự nhiên ấy, truyện còn hướng đến một mục đích có ý nghĩa phản ánh lịch sử: ca ngợi công cuộc chinh phục thiên nhiên. Cụ thể ở đây là chinh phục nạn lũ lụt hằng năm trên vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng – một phương diện chủ yếu trong công cuộc dựng nước của tổ tiên chúng ta ở vào một thời đại lịch sử huy hoàng – thời đại dựng nước của. các vua Hùng. Cuộc’xung đột được kể trong truyện là cuộc xung đột nói chung và muôn đời giữa nước với núi. Đó là cuộc xung đột giữa thần núi Tản Viên với thần nước sông Đà, cuộc xung đột vừa liên quan đến chuyện hôn nhân của nàng công chúa con vua Hùng thứ mười tám (con số ước lệ), vừa ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người Việt cổ trên địa bàn Phong Châu nói riêng, nước Văn Lang nói chung.
Các chi tiết nghệ thuật có. giá trị đựợc truyện dùng để xây dựng hình tượng nhân vật chính, đó là những chi tiết về cuộc thi tài và cầu hôn, những chi tiết về cuộc giao tranh cùng chi tiết về cách kết thúc cuộc giao tranh ấy. Những chi tiết này vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng mang đậm tính chất thần kì vừa không thoát li thực tế (là thần Núi, Sơn Tinh chỉ có thể điều khiển được đồi núi, cồn bãi; còn Thuỷ Tinh là thần Nước nên chỉ có thể gọi được gió bão, hô được mưa lũ). Hai thần đều tài giỏi ngang nhau nhưng không thể đổi được tài nghệ cho nhau. Những lễ vật mà Hùng Vương thách cưới tất cả đều kì lạ và khó kiếm nhưng đó cũng lại là những thứ hoặc là sản phẩm của nghề trồng lúa nước (com nếp, bánh chưng – vốn là món ăn truyền thống của người Việt ngay từ thời Văn Lang), hoặc là dựa trên cơ sở thành tựu thuần hoá những động vật hoang dã thành vật nuôi trong nhà. Sở dĩ chỉ riêng Sơn Tinh kiếm đủ lễ vật là vì những lễ vật đó đều ở trên cạn. Thế là dân gian đã mượn lời thách cưới của Hùng Vương để bộc lộ tình cảm, sự thiên vị đối với Sơn Tinh. Rõ ràng, ở đây có sự kết họp của trí tưởng tượng kì diệu với hoàn cảnh thực tế. Thần thoại trở thành truyền thuyết gắn bó với cuộc đời là như thế.
Những chi tiết về cuộc giao tranh, đánh ghen của Thuỷ Tinh và cuộc chống trả của Sơn Tinh cũng có tính chất hai mặt như những chi tiết về cuộc thi tài và cầu hôn. Thuỷ Tinh hô mưa, gọi gió thì tạo nên bão dông, lũ lụt “rung chuyển cả đất trời… nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước”. Nhưng những hình ảnh tưởng tượng dữ dội, kì vĩ ấy vẫn dựa trên những kinh nghiệm, quan sát thực tế về những trận lũ lụt khủng khiếp trên dọc hai bờ sông Hồng, sông Đà trong mùa mưa bão hằng năm. Sơn Tinh dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành luỹ đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Tài năng đắp đất cao để ngăn nước đó một phần có cơ sở ở quá trình trị thuỷ của tổ tiên người Việt, nhưng một phần (và là phần chủ yếu nằm ở một tác phẩm văn học) bắt nguồn từ ước mơ của nhân dân muốn có sức mạnh phi thường, khả năng to lớn để chiến thắng nạn lụt. Ước mơ ấy, suy cho cùng cũng nảy sinh từ thực tế lao động sản xuất và đấu tranh với thiên nhiên. Những điều này nói lên giá trị phản ánh hiện thực của những chi tiết nghệ thuật tưởng như hoang đường và cũng thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa sáng tác văn học dân gian với đời sống của nhân dân.
Những chi tiết về cách kết thúc cuộc giao tranh là chiến thắng của Sơn Tinh đối vói Thuỷ Tinh – không thể không như vậy vì thực tế là nước lũ dâng cao đến đâu rồi cũng đến lúc phải rút. Nhưng Sơn Tinh đã thắng mà chưa thắng hẳn, Thuỷ Tinh dẫu thua mà chưa chịu thua hẳn, hằng năm vẫn “làm mưa gió, bão lụt, dâng nước đánh Sơn Tinh”. Và rồi lần nào cũng vậy, Thuỷ Tinh “đánh mỏi mệt, chán chê… đành rút quân về”. Tuy nhiên, cách kết thúc ấy còn tổng kết một bài học kinh nghiệm lớn: con người không bao giờ chịu ngồi yên khoanh tay nhìn và đợi chờ bị động trước thiên nhiên; sức người hoàn toàn có thể chiến thắng được thiên tai lũ lụt.
Với cách kết thúc như vậy, truyện còn là lời thế hệ trước nhắn nhủ, gửi gắm cho thế hệ sau nhiệm vụ tiếp tục vươn lên chinh phục tự nhiên, làm chủ đất nước. Công trình thuỷ điện sông Đà với nhà máy thuỷ điện Hoà Bình và sắp tới đây là nhà máy thuỷ điện Tà Bú, Sơn La (cùng các công trình thuỷ điện, đê điều khác), sự nghiệp trồng rừng và giữ gìn, bảo vệ rừng chính là việc làm thực tế của các thế hệ ngày nay để tiếp tục sự nghiệp trị thuỷ, xây dụng đời sống ấm no, phồn vinh của cha ông ta.
Sự thật thì nên nói là liên quan đến yếu tố lịch sử bạn nhé :
Các yếu tố liên quan đến lịch sử trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh là:
- Đời Vua Hùng thứ 18 có người con gái nhan sắc tuyệt trần tên là Mỵ Nương.
- Khi Mỵ Nương đến tuổi cập kê, Vua Hùng ban truyền trong dân gian tìm nhân tài kén phò mã.
- Hàng năm, cứ vào khoảng tháng 7 âm lịch là lũ lụt lại kéo về.
- Từ xưa, nhân dân ta đã có truyền thống chống lũ chống lụt.
Sự thật lịch sử trong tác phẩm này thể hiện ở các chi tiết sau:
- Truyện được gắn với một giai đoạn lịch sử: Thời đại Hùng Vương. Đây là giai đoạn mở đầu trong quá trình dựng nước của dân tộc ta.
- Lũ lụt là một hiện tượng tự nhiên xảy ra ở vùng Bắc Bộ xưa. Các địa danh trong truyện đều thuộc vùng Bắc Bộ: núi Tản Viên (thuộc địa phận Ba Vì - Hà Tây), Phong Châu (kinh đô của Vua Hùng),... Hiện tượng lũ lụt và sức mạnh tàn phá của nó được khái quát hóa thành hình tượng Thủy Tinh.
- Ngay từ buổi đầu dựng nước, người Việt cổ không những phải chống lại kẻ thù "hai chân" mà còn phải chống lại kẻ thù "bốn chân" (thiên nhiên, thú dữ). Nhân dân Bắc Bộ phải thường xuyên đắp đê chống lụt (dựng lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ). Sự thật lịch sử ấy đã khái quát qua hình ảnh Sơn Tinh.