K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

NV
7 tháng 4 2019

Gọi số khách mời là \(x\), số mâm cỗ là \(y\) (x;y>0)

Ta có hệ phương trình: \(\left\{{}\begin{matrix}\frac{x}{5}=y-1\\\frac{x-4}{4}=y\end{matrix}\right.\)

\(\Rightarrow\left\{{}\begin{matrix}x=5y-5\\x-4=4y\end{matrix}\right.\) \(\Rightarrow\left\{{}\begin{matrix}x=40\\y=9\end{matrix}\right.\)

8 tháng 4 2019

Ê anh hai, em kêu anh giải bằng thơ nha. Hổng dễ ăn đâu =))

13 tháng 3 2017

Gọi số người đến dự là x
Số mâm cỗ là y
vì 5 người một cỗ thừa 3 cỗ nên ta có
(y-3)5= x
vì 3 người một cỗ 9 nguời người không ta có
3y +9 = x
Giải hệ phương trình trên ta có y =12; x=45
Vậy đám cưới trên có 12 mâm cỗ và 45 người đến dự.

13 tháng 3 2017

ôi thật cám ơn bạn gái nào đó . hay chị gì đó nhiều lắm . yêu nhayeuhihi

Câu 4: Ta có 1 khúc vải và cần cắt ra 100 miếng. Vậy nếu cắt liên tục không ngừng nghỉ thì bao lâu mới xong, biết thời gian cắt 1 miếng vải là 5 giây.Câu 7: Một người đi lên cầu thang dài 40 bậc. Nếu tiến một bước rồi lùi một bước thì đến bao lâu mới tới. Biết mỗi bước đi hết 5 giây.Câu 1: Ông chủ cửa hàng đá quý bán cho khách một sợi dây chuyền bằng ngọc trai với giá 300 nghìn...
Đọc tiếp

Câu 4: Ta có 1 khúc vải và cần cắt ra 100 miếng. Vậy nếu cắt liên tục không ngừng nghỉ thì bao lâu mới xong, biết thời gian cắt 1 miếng vải là 5 giây.

Câu 7: Một người đi lên cầu thang dài 40 bậc. Nếu tiến một bước rồi lùi một bước thì đến bao lâu mới tới. Biết mỗi bước đi hết 5 giây.

Câu 1: Ông chủ cửa hàng đá quý bán cho khách một sợi dây chuyền bằng ngọc trai với giá 300 nghìn đồng và nhận từ khách một tờ 500 nghìn. Vì không có tiền lẻ nên ông sang tiệm kế bên đổi và dùng tiền đó để thối lại 200 nghìn cho khách. Hôm sau chủ quán bên phát hiện ra tiền đó là giả và đòi ông đổi lại tiền. Hỏi ông chủ tiệm đá quý đã bị mất bao nhiêu tiền?

Câu 2: Tại một vị trí trên Trái đất, khi bạn đi 1km về phía nam, sau đó đi 1km về phía đông, rồi đi 1km về phía bắc thì trở lại vị trí ban đầu. Hỏi bạn phải ở đâu trên Trái đất?

Câu 10: Làm sao để cái cân tự cân chính nó?

Câu 11: Có một người đứng ở chân cầu. Ở giữa cầu có một con gấu rất hung dữ không cho ai qua cầu hết. Người đó sẽ mất hết 5 phút để đi từ chân cầu cho đến giữa cầu và con gấu cũng chỉ ngủ có 5 phút là tỉnh dậy. Hỏi người đó làm sao để qua được bên kia?

Câu 12: Một cầu thủ bóng đá nổi tiếng có đứa em trai, nhưng người này không nhận cầu thủ đó là anh. Vì sao thế?

Câu 13: Một con ngựa được cột vào sợi dây dài 3m. Hỏi làm sao nó có thể ăn đống cỏ cách xa nó 5m?

4
22 tháng 11 2016

Câu 4 500 giây

Đúng ko?

Do em là hs lớp5 nên tính lụi đúng thì gửi hồi đáp cho em nha

22 tháng 11 2016

Câu  4: Cắt ra 100 miếng vải thì phải cắt 99 lần => 5.99= 495

Câu 1: Tổng số tiền giả là 500 nghìn, nhưng thối lại khách 200 nghìn, nên ông chủ mất 300 nghìn.

Câu 12: Cầu thủ bóng đá đó là nữ.

Câu 13: Sợi dây có được cột vô cái gì đâu, cứ đi mà ăn thôi.

4 tháng 4 2018

Gọi vận tốc của người đi xe đạp là y km/ phút và vận tốc của xe khách là z km/ phút.

Xét trường hợp các xe khách đi cùng chiều với người đi xe đạp

Giải sách bài tập Toán 9 | Giải bài tập Sách bài tập Toán 9

Giả sử xe khách thứ nhất vượt người đi xe đạp ở điểm B thì khi đó xe thứ hai đang ở điểm A. Như vậy, quãng đường AB là quãng đường mà xe khách phải đi trong x phút: AB = xz (km)

Gọi điểm mà xe thứ hai vượt người đi xe đạp là C thì quãng đường BC là quãng đường người đi xe đạp đi trong 15 phút: BC = 15y (km).

Quãng đường AC là quãng đường xe khách đi trong 15 phút nên AC = 15z (km).

Ta có phương trình: 15z = xz + 15y (1)

Xét trường hợp các xe khách đi ngược chiều với xe đạp

Giải sách bài tập Toán 9 | Giải bài tập Sách bài tập Toán 9

Giả sử người đi xe đạp gặp xe khách thứ nhất đi ngược chiều tại D thì xe thứ hai đi ngược chiều đang ở E. Hai xe khởi hành cách nhau x phút nên quãng đường

DE = xz (km)

Sau đó 10 phút người đi xe đạp gặp xe đi ngược chiều thứ hai nên đoạn DF là quãng đường xe đạp đi trong 10 phút: DF = 10y, đoạn FE là quãng đường xe khách đi được trong 10 phút: FE = 10z. Ta có phương trình: 10y + 10z = xz (2)

Từ (1) và (2) ta có hệ phương trình:

Giải sách bài tập Toán 9 | Giải bài tập Sách bài tập Toán 9

Vậy cứ 12 phút lại có một xe khách xuất phát và vận tốc xe khách gấp 5 lần vận tốc người đi xe đạp.

26 tháng 7 2016

ai cần link nhanc one piêc thì bảo tui nha

tui có mấy cái link nhạc oánh nhau vs cả nhạc trong heart of gold nữa

26 tháng 7 2016

Luffys Fierce Attack-One Piece

10 tháng 6 2017

Hệ hai phương trình bậc nhất hai ẩn

Hệ hai phương trình bậc nhất hai ẩn

BCó người kể rằng:ơn cánh đồng dứa có một ngôi nhà ma nọ.Vì sao lại gọi là nhà ma bởi vì một ngày nọ,cô gái tên họ vũ (ko nhớ) đã chết vì tai nạn giao thông.Người yêu cô ta vì đau khổ nên cũng tự tử theo bạn gái mình. Từ đó hai linh hồn gặp lại nhau vào ngày ánh cổng địa  ngục mở,2 người họ đã ám lấy ngôi nhà nhỏ mà cô gái đã từng sinh sống.Rồi đến ngày cánh cổng địa...
Đọc tiếp

BCó người kể rằng:ơn cánh đồng dứa có một ngôi nhà ma nọ.Vì sao lại gọi là nhà ma bởi vì một ngày nọ,cô gái tên họ vũ (ko nhớ) đã chết vì tai nạn giao thông.Người yêu cô ta vì đau khổ nên cũng tự tử theo bạn gái mình. Từ đó hai linh hồn gặp lại nhau vào ngày ánh cổng địa  ngục mở,2 người họ đã ám lấy ngôi nhà nhỏ mà cô gái đã từng sinh sống.Rồi đến ngày cánh cổng địa ngục mở làn thứ hai,cậu con trai đó ko gặp lại bạn gái mình ,anh ta cảm thấy như bị phản bội,nhưng vì hiền lành nên đến trời tối ,linh hồn anh ta lặng lẽ đến bên mộ bạn gái ,nhưng là linh hồn nên ko thể chạm vào vật gì cả nên anh ta nhập vào xác một người nọ qua đường vào trời tối rồi điều khiển linh hồn đi hái hoa rồi gói lại đến bên mộ bạn gái rồi thắp hương.Làm xong linh hồn rời ra xác của người đó rồi trở về địa ngục.Còn về người đàn ông kia thì sau khi tỉnh dậy thì bị điên rồi ko lâu sau rồi cũng chết.Đến ngày nay ngôi nhà vẫn còn,một hôm tôi cùng bạn đi qua cánh đồng dứa đó thì bỗng dưng con bạn tôi mất giác mà đi vào ngôi nhà đó,vì hoảng quá nên tôi chạy một mạch đi nên ko để ý.

Chuyện này hoàn toàn có thật nhe,ko tin thì đến cánh đông dứa tam điệp mà gần với xưởng sản xuất chân đệm tam điệp mà xem.Ngôi nhà đó vẫn còn đó!

Bình luận nhanh tay mi tích cho!

4
16 tháng 1 2017

I. Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"

1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các bài toán hay lên diễn đàn;

2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.

3. Không "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.

Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.

16 tháng 1 2017

truyện đó mình tin cũng có thật đấy! cũng hay

Giả thuyết PoincaréHenri Poincare (1854-1912), là nhà vật lý học và toán học người Pháp,một trong những nhà toán học lớn nhất thế kỷ 19. Giả thuyết Poincarédo ông đưa ra năm 1904 là một trong những thách thức lớn nhất của toán học thế kỷ 20Lấy một quả bóng (hoặc một vật hình cầu), vẽ trên đó một đường cong khép kín không có điểm cắt nhau, sau đó cắt quả bóng theo đường vừa vẽ:...
Đọc tiếp
  1. Giả thuyết Poincaré
    Henri Poincare (1854-1912), là nhà vật lý học và toán học người Pháp,
    một trong những nhà toán học lớn nhất thế kỷ 19. Giả thuyết Poincarédo ông đưa ra năm 1904 là một trong những thách thức lớn nhất của toán học thế kỷ 20

    Lấy một quả bóng (hoặc một vật hình cầu), vẽ trên đó một đường cong khép kín không có điểm cắt nhau, sau đó cắt quả bóng theo đường vừa vẽ: bạn sẽ nhận được hai mảnh bóng vỡ. Làm lại như vậy với một cái phao (hay một vật hình xuyến): lần này bạn không được hai mảnh phao vỡ mà chỉ được có một.
    Trong hình học topo, người ta gọi quả bóng đối lập với cái phao, là một về mặt liên thông đơn giản. Một điều rất dễ chứng minh là trong không gian 3 chiều, mọi bề mặt liên thông đơn giản hữu hạn và không có biên đều là bề mặt của một vật hình cầu.
    Vào năm 1904, nhà toán học Pháp Henri Poincaré đặt ra câu hỏi: Liệu tính chất này của các vật hình cầu có còn đúng trong không gian bốn chiều. Điều kỳ lạ là các nhà hình học topo đã chứng minh được rằng điều này đúng trong những không gian lớn hơn hoặc bằng 5 chiều, nhưng chưa ai chứng minh được tính chất này vẫn đúng trong không gian bốn chiều.
  2. Vấn đề P chống lại NP
    Với quyển từ điển trong tay, liệu bạn thấy tra nghĩa của từ “thằn lắn” dễ hơn, hay tìm một từ phổ thông để diễn tả “loài bò sát có bốn chân, da có vảy ánh kim, thường ở bờ bụi” dễ hơn? Câu trả lời hầu như chắc chắn là tra nghĩa thì dễ hơn tìm từ.
    Những các nhà toán học lại không chắc chắn như thế. Nhà toán học Canada Stephen Cook là người đầu tiên, vào năm 1971, đặt ra câu hỏi này một cách “toán học”. Sử dụng ngôn ngữ lôgic của tin học, ông đã định nghĩa một cách chính xác tập hợp những vấn đề mà người ta thẩm tra kết quả dễ hơn (gọi là tập hợp P), và tập hợp những vấn đề mà người ta dễ tìm ra hơn (gọi là tập hợp NP). Liệu hai tập hợp này có trùng nhau không? Các nhà lôgic học khẳng định P # NP. Như mọi người, họ tin rằng có những vấn đề rất khó tìm ra lời giải, nhưng lại dễ thẩm tra kết quả. Nó giống như việc tìm ra số chia của 13717421 là việc rất phức tạp, nhưng rất dễ kiểm tra rằng 3607 x 3808 = 13717421. Đó chính là nền tảng của phần lớn các loại mật mã: rất khó giải mã, nhưng lại dễ kiểm tra mã có đúng không. Tuy nhiên, cũng lại chưa có ai chứng minh được điều đó.
    “Nếu P=NP, mọi giả thuyết của chúng ta đến nay là sai” – Stephen Cook báo trước. “Một mặt, điều này sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề tin học ứng dụng trong công nghiệp; nhưng mặt khác lại sẽ phá hủy sự bảo mật của toàn bộ các giao dịch tài chính thực hiện qua Internet”. Mọi ngân hàng đều hoảng sợ trước vấn đề lôgic nhỏ bé và cơ bản này!
  3. Các phương trình của Yang-Mills
    Các nhà toán học luôn chậm chân hơn các nhà vật lý. Nếu như từ lâu, các nhà vật lý đã sử dụng các phương trình của Yang-Mills trong các máy gia tốc hạt trên toàn thế giới, thì các ông bạn toán học của họ vẫn không thể xác định chính xác số nghiệm của các phương trình này.
    Được xác lập vào những năm 50 bởi các nhà vật lý Mỹ Chen Nin Yang và Robert Mills, các phương trình này đã biểu diễn mối quan hệ mật thiết giữa vật lý về hạt cơ bản với hình học của các không gian sợi. Nó cũng cho thấy sự thống nhất của hình học với phần trung tâm của thể giới lượng tử, gồm tương tác tác yếu, mạnh và tương tác điện từ. Nhưng hiện nay, mới chỉ có các nhà vật lý sử dụng chúng…
  4. Giả thuyết Hodge
    Euclide sẽ không thể hiểu được gì về hình học hiện đại. Trong thế kỷ XX, các đường thẳng và đường tròn đã bị thay thế bởi các khái niệm đại số, khái quát và hiệu quả hơn. Khoa học của các hình khối và không gian đang dần dần đi tới hình học của “tính đồng đẳng”. Chúng ta đã có những tiến bộ đáng kinh ngạc trong việc phân loại các thực thể toán học, nhưng việc mở rộng các khái niệm đã dẫn đến hậu quả là bản chất hình học dần dần biến mất trong toán học. Vào năm 1950, nhà toán học người Anh William Hodge cho rằng trong một số dạng không gian, các thành phần của tính đồng đẳng sẽ tìm lại bản chất hình học của chúng…
  5. Giả thuyết Riemann
    2, 3, 5, 7, …, 1999, …, những số nguyên tố, tức những số chỉ có thể chia hết cho 1 và chính nó, giữ vai trò trung tâm trong số học. Dù sự phân chia các số này dường như không theo một quy tắc nào, nhưng nó liên kết chặt chẽ với một hàm số do thiên tài Thụy Sĩ Leonard Euler đưa ra vào thế kỷ XVIII. Đến năm 1850, Bernard Riemann đưa ra ý tưởng các giá trị không phù hợp với hàm số Euler được sắp xếp theo thứ tự. Giả thuyết của nhà toán học người Đức này chính là một trong 23 vấn đề mà Hilbert đã đưa ra cách đây 100 năm. Giả thuyết trên đã được rất nhiều nhà toán học lao vào giải quyết từ 150 năm nay. Họ đã kiểm tra tính đúng đắn của nó trong 1.500.000.000 giá trị đầu tiên, nhưng … vẫn không sao chứng minh được. “Đối với nhiều nhà toán học, đây là vấn đề quan trọng nhất của toán học cơ bản” – Enrico Bombieri, giáo sư trường Đại học Princeton, cho biết. Và theoDavid Hilbert, đây cũng là một vấn đề quan trọng đặt ra cho nhân loại. Bernhard Riemann (1826-1866) là nhà toán học Đức.
    Giả thuyết Riemann do ông đưa ra năm 1850 là một bài toán có vai trò cực kỳ quan trọng đến cả lý thuyết số lẫn toán học hiện đại.
  6. Các phương trình của Navier-Stokes
    Chúng mô tả hình dạng của sóng, xoáy lốc không khí, chuyển động của khí quyển và cả hình thái của các thiên hà trong thời điểm nguyên thủy của vũ trụ. Chúng được Henri Navier và George Stokes đưa ra cách đây 150 năm. Chúng chỉ là sự áp dụng các định luật về chuyển động của Newton vào chất lỏng và chất khí. Tuy nhiên, những phương trình của Navier-Stokes đến nay vẫn là một điều bí ẩn của toán học: người ta vẫn chưa thể giải hay xác định chính xác số nghiệm của phương trình này. “Thậm chí người ta không thể biết là phương trình này có nghiệm hay không” – nhà toán học người Mỹ Charles Fefferman nhấn mạnh – “Điều đó cho thấy hiểu biết của chúng ta về các phương trình này còn hết sức ít ỏi”.
  7. Giả thuyết của Birch và Swinnerton-Dyer
    Những số nguyên nào là nghiệm của phương trình x^2 + y^2 = z^2 ? có những nghiệm hiển nhiên, như 3^2 + 4^2 = 5^2. Và cách đây hơn 2300 năm, Euclide đã chứng minh rằng phương trình này có vô số nghiệm. hiển nhiên vấn đề sẽ không đơn giản như thế nếu các hệ số và số mũ của phương trình này phức tạp hơn… Người ta cũng biết từ 30 năm nay rằng không có phương pháp chung nào cho phép tìm ra số các nghiệm nguyên của các phương trình dạng này. Tuy nhiên, đối với nhóm phương trình quan trọng nhất có đồ thị là các đường cong êlip loại 1, các nhà toán học người Anh Bryan Birch và Peter Swinnerton-Dyer từ đầu những năm 60 đã đưa ra giả thuyết là số nghiệm của phương trình phụ thuộc vào một hàm số f: nếu hàm số f triệt tiêu tại giá trị bằng 1 (nghĩa là nếu f(1)= 0), phương trình có vô số nghiệm. nếu không, số nghiệm là hữu hạn.
    Giả thuyết nói như thế, các nhà toán học cũng nghĩ vậy, nhưng đến giờ chưa ai chứng minh được…

    Người ta thấy vắng bóng ngành Giải tích hàm (Functional analysí) vốn được coi là lãnh vực vương giả của nghiên cứu toán học. Lý do cũng đơn giản : những bài toán quan trọng nhất của Giải tích hàm vừa mới được giải quyết xong, và người ta đang đợi để tìm được những bài toán mới. Một nhận xét nữa : 7 bài toán đặt ra cho thế kỉ 21, mà không phải bài nào cũng phát sinh từ thế kỉ 20. Bài toán P-NP (do Stephen Cook nêu ra năm 1971) cố nhiên là bài toán mang dấu ấn thế kỉ 20 (lôgic và tin học), nhưng bài toán số 4 là giả thuyết Riemann đã đưa ra từ thế kỉ 19. Và là một trong 3 bài toán Hilbert chưa được giải đáp !
    Một giai thoại vui: Vài ngày trước khi 7 bài toán 1 triệu đôla được công bố, nhà toán học Nhật Bản Matsumoto (sống và làm việc ở Paris) tuyên bố mình đã chứng minh được giả thuyết Riemann. Khổ một nỗi, đây là lần thứ 3 ông tuyên bố như vậy. Và cho đến hôm nay, vẫn chưa biết Matsumoto có phải là nhà toán học triệu phú đầu tiên của thế kỉ 21 hay chăng..
9
17 tháng 3 2016

đền tiền thuốc mắt đi ! đọc xong hoa hít mắt rùi

17 tháng 3 2016

hay quá, h em rồi em h lại cho