Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trong tiếng Việt có một câu chúng ta mới nghe qua thì thấy nó có vẻ khá vô lý và ngộ nghĩnh, đó là câu thành ngữ “Mẹ tròn con vuông”.
Hàm ý “Một trường hợp sinh sản tốt đẹp bình thường, cả hai mẹ con đều khỏe mạnh. Đứa nhỏ không bị dị tật gì. Một kết quả đúng như người ta trông đợi.” Câu thành ngữ này nếu đem dịch nguyên văn ra tiếng nước ngoài, nhất là các ngôn ngữ Tây phương sẽ rất khó truyền đạt được cái ý nghĩa “tốt lành” của nó đến người nghe. Đơn giản là vì người Tây phương họ không có chung nhiều khái niệm về văn hóa và triết lý với chúng ta. Đối với họ, “vuông tròn” không mang một ý nghĩa hảo hợp, nếu không nói là còn không dung nạp được nhau. Về phương diện kỷ hà học, đó là những hình thể khác hẳn nhau. Nếu đặt cạnh nhau chỉ gợi ra ý tương phản. Đặt vào nhau không khớp.
Trái lại, trong văn hóa Việt Nam, hai hình thể đó trong nhiều trường hợp đi đôi, gắn liền với nhau lại biểu thị cho một sự kết hợp thuận lẽ trời, và cho ra một kết quả tốt lành.
Vì sao vậy? Đương nhiên, điều nghịch lý đó phải mang một ý nghĩa tích cực có thể giải thích được. Nó phải bắt nguồn từ những khái niệm cơ bản xuất phát từ trong dân gian; được người đời chấp nhận như những yếu tố cấu thành tốt đẹp. Cái “thiện căn” ấy khi được kết hợp sẽ cho ra những thành tố thiện. Thật vậy, sinh hoạt văn hóa Việt ảnh hưởng sâu đậm của ba tôn giáo lớn hiện hữu từ lâu đời trong đời sống dân chúng. Ảnh hưởng của “Tam giáo” (Phật, Lão, Khổng) tiềm tàng trong nền nếp sinh hoạt, trong ngôn ngữ dân gian. Thấm vào da thịt, luân lưu trong huyết quản người Việt chúng ta. Tam giáo có tiến trình thâm nhập từ hàng ngàn năm. Lý nhân quả trong nhà Phật được chấp nhận như một tiền đề của nhiều quan niệm sống trong dân gian. Do đó, từ những nhân tố được thừa nhận là tốt đẹp dẫn đến thành tố tốt lành theo định luật nhân quả: Cây nào quả nấy, hay cha nào con nấy là điều tất nhiên.
Vậy thì khái niệm vuông tròn dựa trên cái gì để trở thành các yếu tố “cơ bản thiện” trong triết lý cũng như văn hóa Việt? Trước hết, tưởng không cần phải đi truy tầm đâu cho xa. Ta hãy lấy ngay những câu chuyện mô tả sinh hoạt văn hóa để tìm hiểu nguồn gốc những khái niệm cơ bản này. Chứng cứ đầu tiên có thể rút ra từ câu chuyện bánh chưng bánh dày. Sự tích mang tính lịch sử này rất nhiều người đã biết. Nó xuất phát từ câu chuyện một vị Vua Hùng, dòng vua đầu tiên của giống Việt. Câu chuyện kể lại việc nhà vua “ra đề thi” cho các con để chọn người kế vị. Một trong những người con, vốn cảnh nhà đạm bạc, không có cao lương mỹ vị để dâng vua cha, nên mới sáng chế ra hai thứ bánh chưng bánh dày để làm quà dâng cha mẹ. Hai thứ bánh đơn sơ và đầy tính dân dã ấy đã được nhà vua nhiệt liệt khen ngợi tán thưởng. Và ông hoàng bé được vua cha truyền ngôi. Dĩ nhiên để được vua cha chấp nhận, ông hoàng con phải mặc cho hai món bánh đơn sơ ấy một ý nghĩa nào đó mà vua cha nghe chẳng những “lọt tai” mà còn đồng ý là nó mang một ý nghĩa cao đẹp tuyệt vời mới mong được thừa nhận và truyền ngôi cho.
Ai cũng biết, bánh chưng có hình vuông, bánh dày hình tròn. Bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dày tượng trưng cho trời. Theo quan niệm cổ, từ Đông sang Tây, người ta vẫn tin rằng trái đất là một phiến phẳng hình vuông. Còn trời là một cái quả tròn rỗng như cái chuông chụp lên cái phiến đất hình vuông, trong đó vạn vật gồm cả con người sinh sống. Theo quan niệm đó, khi ta đi bộ hay đi thuyền, nếu cứ đi mãi, có lúc người ta sẽ tới cùng trời cuối đất và rơi vào khoảng không vô tận. Trời đất là hai khái niệm đầu tiên về thế giới quan.
Chẳng những thế, trời đất còn mang ý nghĩa của nguồn gốc sự sống, sinh vật. Những câu nói như “Trời đất sinh ra ta”, “Ông Trời” vừa nhân cách hóa hai thực thể tự nhiên vừa hàm ý giải thích nguồn cội con người. Trời là cha, Đất là mẹ. Gặp nguy biến, lúc đau khổ người ta nghĩ đến hai đấng sinh thành. Họ kêu lên “Trời đất ơi!” Hoặc đôi khi cả Trời đất lẫn cha mẹ “Trời đất cha mẹ ơi!” Trong vũ trụ quan của người Á Đông, khái niệm vuông tròn chính là khái niệm về Trời Đất, về Càn Khôn, về Âm Dương. Trong kiến trúc Đông phương, bao giờ cũng là những đường nét pha trộn giữa Âm và Dương. Ngoài những đường thẳng cần thiết phải có, bao giờ người ta cũng đưa những đường cong, những vòng tròn vào, để tạo nên một tổng thể hài hòa giữa Âm và Dương. Cái mái ngói cong cong, cái cửa sổ tròn. Trong kiến trúc Tây phương ít khi ta gặp những đường nét tròn như thế. Nhà cửa theo kiến trúc Tây phương phần lớn có dạng hình hộp là vậy. Dưới thời phong kiến, những đồng tiền kẽm lưu hành trong triều Nguyễn chẳng hạn có hình dáng mang ý nghĩa của càn khôn. Đồng tiền kẽm hình tròn, chính giữa có cái lỗ hình vuông, bốn góc có bốn chữ nho nằm bên mỗi cạnh hình vuông. Cái lỗ vuông là để người ta xỏ dây xâu thành từng xâu khi cất giữ hoặc mang trong người cho tiện. Mua bán gì thì cởi đầu dây, lấy ra từng đồng mà chi trả. Khi thiết kế mẫu tiền có thể người ta đã gửi gấm vào hình thể đồng tiền cái ngụ ý công ơn của triều đình, tức như cha mẹ, đối với thần dân. Quan đã là cha mẹ dân rồi, nói chi vua. Hoàng hậu được coi là bậc mẫu nghi thiên hạ, và hai tiếng “con dân” chẳng phải hàm cái ý đó sao? Ngoài ra, cái hình thể vuông tròn còn chứa đựng sự mong muốn chúc tụng vương triều sẽ trường cửu như trời đất.
Trong mắt một người bình thường không có gì tốt đẹp hoàn hảo hơn cha và mẹ. Trời đất ngoài khái niệm là cha mẹ, còn mang ý nghĩa lâu bền vĩnh cửu, hoặc rộng lớn phong phú dồi dào vô kể.
Những câu nói như “Công ơn cha mẹ như trời như biển”, “Sống lâu cùng trời đất” v.v... Chứng minh điều đó. Trời đất thường đi đôi với nhau, kết hợp thành một khái niệm thiện, tốt lành, trường cửu. Từ khái niệm “Trời Đất” trở ngược lại khái niệm “vuông tròn” phải chăng người ta muốn làm cho cái khái niệm trên trở thành gần gũi với cuộc sống hơn.
Từ khái niệm vuông tròn biểu trưng của Trời Đất, đến khái niệm vuông tròn của Âm Dương có một sự khác biệt: tròn tượng trưng cho Âm tính, vuông tiêu biểu cho Dương tính. Điều này sẽ được chứng minh bằng những thí dụ tiếp sau đây. Tuy nhiên, sự kết hợp hài hòa giữa Âm Dương bao giờ cũng được xem là một kết hợp thuận tự nhiên. Một kết hợp như thế luôn luôn mang lại kết quả tốt đẹp. Một khái niệm thiện. Hãy lấy một thí dụ, câu tục ngữ “Đầu tròn gót vuông”. Theo quan niệm trong Đông y, cơ thể con người ta nửa phần trên, tận cùng bằng cái đầu mang tính Âm (đầu tròn). Phần dưới tận cùng bằng đôi chân (gót vuông), mang tính Dương. Khi một người bị bệnh, thày thuốc sờ đầu sờ chân, thấy đầu mát (Âm), chân ấm (Dương) là thuận Âm Dương, không có gì phải ngại. Nếu ngược lại là không ổn. Các thày thuốc cũng khuyên nên luôn luôn giữ cho cái đầu mát và đôi chân ấm thì sẽ được khỏe mạnh.
Chỉ một trong hai cái ấy không tạo được hiệu ứng tương tự. Vuông đứng một mình chỉ là vuông. Tròn đi một mình chỉ là tròn. Nhưng “vuông tròn” sẽ tạo nên khái niệm trời đất, Âm Dương hài hòa, mang tính “Thiện”, hảo hợp và trường cửu. Khi nói “mẹ tròn con vuông” là người ta muốn nói một kết quả tốt đẹp. Chứ mẹ đâu có tròn. Trong thời gian đang mang bầu thì còn cái bụng tròn. Nhưng sau khi sanh rồi đâu còn tròn nữa. Còn con thì nhất định không thể vuông được. Trên thực tế, nếu một sản phụ không may đẻ ra một đứa trẻ có hình dạng thực sự vuông là điều thậm vô phúc. Cả mẹ lẫn con sẽ trở thành đề tài thời sự ngay.
Thử hình dung ra tình cảnh của hai trường hợp sinh đẻ. Nếu bác sĩ ra báo cho ông bố bằng câu sau đây: “Bà nhà sanh rồi. Mẹ tròn con vuông. Chúc mừng ông” thì là bình thường. Nhưng nếu câu nói chỉ thiếu đi một chút xíu thôi: “Xin báo cho ông rõ. Bà nhà sinh rồi. Đứa trẻ vuông”. Chắc có lẽ ông bố sẽ choáng váng mặt mày, xỉu liền tại chỗ.
Chẳng hạn như trong câu nói sau đây: “Anh chị tính sao thì tính. Miễn sao mọi sự vuông tròn là được.” Câu nói hàm ý miễn sao kết quả tốt đẹp, không có gì trục trặc, điều tiếng là được.
Hãy lấy một câu khác: “Trăm năm tính chuyện vuông tròn”, “Chuyện vuông tròn” là chuyện lứa đôi, chuyện âm dương kết hợp để tồn tại và tiếp nối dòng sinh hóa.
Có âm dương, có vợ chồng
Dẫu rằng thiên địa cũng vòng phu thê
Hoặc:
Đấy mà xử ngãi (nghĩa) vuông tròn
Ngàn năm ly biệt vẫn còn đợi trông (Ca dao)
“Ngãi vuông tròn” là nghĩa vợ chồng, nghĩa thủy chung.
Đó là chuyện ăn đời ở kiếp với nhau. Ngoài khái niệm vuông tròn là đất trời, là mẹ cha, là trường cửu. Như trên đã viết, khái niệm vuông tròn còn là âm dương, nam nữ, vợ chồng. Chỉ khác một điều là trong sự tích bánh chưng bánh dày, nếu trời có hình ảnh tượng trưng là tròn, đất có hình vuông. Thì trong quan niệm về hai giới tính nam nữ, đực cái, âm dương, vuông lại thường tiêu biểu cho nam tính, và tròn tiêu biểu cho nữ tính.
Phụ nữ thân thể phải tròn trịa, chứa đựng nhiều đường cong mới đẹp, mới tiêu biểu cho nữ tính. Đàn bà con gái mặt mũi người ngợm nhiều nét gẫy, nhiều góc vuông quá đương nhiên trông không hấp dẫn tí nào, chưa nói là rất thô. Một thân thể như thế thường xương nhiều thịt ít. Nếu không to xương thì cũng quá gầy. Mình hạc cũng được nhưng phải xương mai. Còn những chỗ khác đặc biệt trời dành riêng cho nữ giới như một thứ vũ khí dùng để chinh phục nam giới thì dứt khoát là phải tròn. Nếu không phải là một vòng tròn khép kín như đôi gò bồng đảo, mà trong văn chương có khi được ví von như cặp dừa xiêm, hai trái bưởi, hoặc trái banh v.v... thì cũng phải là một phần của vòng tròn. Những đường cong. Chứ không được gẫy. Hãy nhìn những cô người mẫu thì biết. Cô nào cô nấy ốm tong ốm teo, nhưng ngực và mông thì cứ ngồn ngộn. Còn đối với các bà các cô bình thường, ai có sẵn, nhưng không nhiều, thì dùng thủ thuật đùn lên cho cao, mà mắt thiên hạ. Nếu chẳng may không có thì mượn cái ở ngoài đưa vào cho có. Khi làm như thế chẳng qua họ chỉ muốn khẳng định cái nữ tính của mình mà thôi. Chẳng có gì khiến các ông phải phàn nàn việc các bà đi đến các mỹ viện giải phẫu thẩm mỹ..
Khuôn mặt của Thúy Vân trong Đoạn Trường Tân Thanh: “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”, cho dẫu không đẹp lắm, nhưng phúc hậu. Trong khoa tướng số, phúc hậu cũng là một khía cạnh đẹp của phụ nữ. Khuôn mặt tròn có thể không đẹp bằng khuôn mặt trái xoan, nhưng phúc hậu. Vẻ đẹp của phụ nữ có nhiều loại; đẹp lộng lẫy, đẹp sắc xảo, đẹp phúc hậu. Đẹp phúc hậu là vẻ đẹp vượng phu ích tử (chồng con nhờ đó mà phất lên). Muốn biết rành về chuyện này, phải đọc cụ Vũ Tài Lục. Đàn bà mặt mũi gồ ghề chẳng những không có vẻ hiền hậu thùy mị, mà còn bị xem như khuôn mặt khắc sát (chồng con). Cho nên mặc dù Thúy Kiều đẹp hơn em, nhưng Thúy Vân cũng không kém là bao. Ở chỗ: “Kiều càng sắc xảo mặn mà”, tuy so với Thúy Vân: “So bề tài sắc lại là phần hơn.” Kiều đẹp hơn. Vì nàng có nhân dáng của một cô “mô đồ” ngày nay, “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Đành rằng thế. Nhưng so ra Thúy Vân không kém chị nhiều lắm. Vì thi hào đã khẳng định “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.
Ngược lại, nét vuông trên thân thể đàn ông lại được xem như ưu điểm. Mặt vuông chữ điền là bảnh trai. Đàn ông miệng vuông là kẻ thét ra quyền uy. Nếu đàn bà mặt mũi thân hình gồ ghề là không tốt thì ở đàn ông lại là một nét hấp dẫn. Đàn ông không cần có khuôn mặt phúc hậu, mà cần “gồ ghề”; tức nhiều nét vuông. Từ mặt cho đến vai. Đàn bà mặt tròn, cổ tròn, đôi gò bồng đảo, mông miếc gì cũng phải tròn trịa thì mới hấp dẫn. Ngược lại, đàn ông hấp dẫn phải có một bộ ngực vạm vỡ, nhưng khuôn ngực phải vuông, mới ngầu. Đàn ông mà ngực cũng tròn trịa như đàn bà thì trông bẩn lắm. Đàn ông to vú chẳng khác gì đàn bà rậm râu. Đó là một chứng trạng cho thấy anh đàn ông phát triển bất bình thường, cơ thể nhiều chất oestrogen (Kích thích tố nữ). Còn nếu không, thì cũng là một anh chàng bệu, lười luyện tập. Vai u thịt bắp nếu không phải ưu điểm tuyệt đối của đàn ông con trai thì nó cũng hứa hẹn anh ta nhiều khả năng bảo vệ phụ nữ khi cần.
Tả người phụ nữ, các nhà văn thường cho nàng những đường nét tròn trịa. Nhưng một anh đàn ông tròn trịa rất nhiều khi chỉ gợi ra cái ý niệm mập béo phì nộn mà thôi.
“Có mực anh tình phụ son,
Có kẻ đẹp tròn, anh phụ người duyên”
(Ca dao)
Người Á đông nói chung, người Nhật nói riêng, họ thấu hiểu được vẻ hấp dẫn của những đường cong nên từ những đường nét trong kiến trúc, trang trí đến hình dáng các vật dụng họ sử dụng khá nhiều những đường cong. Chiếc xe hơi của Nhật ngoài ưu điểm máy móc bền, tốt còn một điểm khác hấp dẫn người mua, nhất là dân châu Á, đó là cái hình dáng thon thả nhiều đường cong hơn nét gẫy của nó. Ta gọi cái xe, với tiếng “cái” đi trước; hẳn cũng hàm cái ý giống cái của nó. Cũng có khi xe được gọi là “con” như “con xe” trong bàn cờ tướng (Thí con chốt, hốt con xe, chẳng hạn). Nhưng khi xe được gọi với tiếng “con” thì lại khác. Đó là một thứ xe để ra trận đánh nhau. Mà nói đến trận mạc là nói đến đàn ông con trai, nói đến cái dương tính của nó.
Ngày chưa mất nước, những chiếc xe hơi đầu tiên lắp ráp ở Việt Nam là chiếc xe La Dalat. Có thể nói người thiết kế hình dáng chiếc xe kém về khoa thẩm mỹ. Nghe nói công ty gốc là hãng Citroen, cung cấp máy móc. Còn phần thân xe làm tại Việt Nam. Nhìn chiếc xe La Dalat thấy không mấy cảm tình, vì cái dáng thô kệch, nhiều nét gẫy tạo ra những góc vuông, rất ít đường cong của nó.
Ở một khía cạnh khác, tròn còn mang ý nghĩa là trọn vẹn, đầy đủ.
“Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Tròn đây chính là trọn vẹn, đầy đủ. Làm tròn bổn phận vừa là cách nói trại, vừa hàm cái ý trọn vẹn.
Người viết thủa trước vốn từng có thời khoác áo lính. Nên tiện đây cũng xin ghi lại những chiêm nghiệm thực tiễn về những nét gẫy, những hình thể vuông vức góc cạnh tiêu biểu cho tính cách mạnh mẽ của nam giới. Những vị nào từng xuất thân từ các quân trường đào tạo sĩ quan như Trường Võ Bị Đà-Lạt, Trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang, Trường Thủ Đức v.v... đều biết. Ở giai đoạn sơ khởi gọi là “Thời kỳ huấn nhục”, hay thời kỳ “Tân khóa sinh”, tại các quân trường kể trên người ta áp dụng một lề lối sinh hoạt tạm gọi là “sinh hoạt vuông góc” để đào luyện người thanh niên dân sự trở thành một người lính với nam tính mạnh mẽ. Trong thời kỳ này, ngoài những huấn luyện về thể chất, về nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy, về đạo đức chiến tranh, người thanh niên được rèn luyện một cung cách sống “vuông góc”. Đi đứng vuông góc, ngồi vuông góc. Thậm chí đưa chén cơm lên miệng ăn cũng phải theo một động tác vuông góc. Mọi sắp xếp trong phòng người Tân khóa sinh, từ gối chăn, áo quần, sách vở đều phải theo một lề lối chặt chẽ về vuông góc.
Để làm gì vậy? Mục đích của sự rèn luyện trên chính là để dần dần từng bước biến đổi phong cách ẻo lả yếu ớt của một con người dân sự trở thành một nhân dáng đàn ông đích thực. Tạo ra những góc cạnh vuông vức trên thân thể và cả trong tâm hồn người sĩ quan tương lai. Những phần thân thể bọc đầy mỡ tròn trịa dần dần biến đi để thay vào đó những đường nét góc cạnh. Chân tay, ngực vai đều trở thành vuông vắn. Cằm bạnh ra (kết quả của động tác gặp cằm), mái tóc hớt theo kiểu “bàn chải” tạo thành khuôn mặt vuông chữ điền (tương đối). Những nét vuông đó tạo cho người thanh niên vẻ cứng cát, mạnh bạo, dứt khoát, đầy dương tính. Những nhân dáng “vuông góc” đó có sức hút rất mạnh đối với các nhân dáng tròn trịa nhiều đường cong của nữ giới. Âm dương đối cực hút lẫn nhau.
“Trai khôn tìm vợ chợ đông,
Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân” là thế.
Tóm lại, nếu không hiểu được, không có được cái nhãn quan tổng hợp của triết lý Đông phương, sẽ khó mà thâm cảm được cái “khái niệm vuông tròn” trong ngôn ngữ và văn hóa Việt.
Đi từ cái khái niệm sơ khởi về trời đất, đến quan niệm về Âm dương đối đãi, hàm chứa dung nạp lẫn nhau, sau cùng dẫn đến một khái niệm rốt ráo về một trật tự tự nhiên. Từ đó khái niệm vuông tròn mới có thể hàm chứa một sự kết hợp tốt đẹp, đó chính là cái khái niệm “Thiện” đầu tiên (bổn thiện) vậy.
Hình vuông là hình có 4 cạnh bằng nhau và 4 góc.
Theo mk là vậy nha!
a. Truyện hiện đại
+ Khái niệm truyện:chỉ các tác phẩm tự sự nói chung, tuy nhiều khi hàm nghĩa và cách hiểu thuật ngữ tương đối khác nhau trong tiến trình lịch sử văn học.
+ Nhận diện các yếu tố: chi tiết tiêu biểu, ngoại hình của nhân vật, ngôn ngữ nhân vật, hành động của nhân vật, ý nghĩ của nhân vật
b. Thơ hiện đại:
+ Khái niệm thơ : hình thức nghệ thuật dùng từ trong ngôn ngữ làm chất liệu, và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới hình thức lôgíc nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹ cho người đọc, người nghe.
+ Nhận diện các yếu tố miêu tả, tự sự trong thơ, ngôn ngữ, hình ảnh thơ
c. Nghị luận
+ Khái niệm văn nghị luận : thể loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng nào đó đối với các sự việc, hiện tượng trong đời sống hay trong văn học bằng các luận điểm, luận cứ và lập luận.
+ Nhận diện các yếu tố lý lẽ, dẫn chứng trong văn nghị luận:
Em có thể tham khảo những ý này:
Cơ bản: lí lẽ và dẫn chứng nằm trong cách lập luận.
Lí lẽ: những lời lẽ, được triển khai trong toàn bài văn, đôi khi ta hiểu gọn hơn là cách hành văn của mình.
_ Lí lẽ trong nghị luận thường phải đan xen biểu cảm, phải làm sáng tỏ cho luận điểm và tránh dài dòng, khó hiểu.
Dẫn chứng: là những minh hoạ, ví dụ cụ thể được diễn đạt = lời, nhằm khắc họa lại sự vật, sự việc để giúp bài văn nghị luận có sức thuyết phục hơn.
_ dẫn chứng: thường xen tự sự và miêu tả.
=> Lí lẽ, dẫn chứng là yếu tố quan trọng giúp bài văn nghị luận hoàn chỉnh hơn.
uống nước nhớ nguồn: nhớ ơn tổ tiên người đã sinh ra dòng họ mình
mk nghĩ vậy
câu dưới chịu
k nhé
1) Uống nước nhớ nguồn là một câu tục ngữ đã trở nên quen thuộc với người Việt Nam bao đời nay. Dưới hình thức rất đỗi giản dị, câu tục ngữ này là bài giáo dục về nhân cách làm người của cha ông ta, thể hiện sâu sắc truyền thống đạo lí của người Việt Nam: luôn luôn trân trọng, biết ơn người đi trước.
Theo nghĩa đen, “nguồn” là nơi bất đầu cùa dòng nước. Theo nghĩa bóng, “nguồn” là ẩn dụ chỉ công lao tạo lập nên những thành quả của con người đi trước dành cho các thế hệ sau. “Nước có nguồn” nên “uống nước” hiểu theo nghĩa bóng là thừa hưởng thành quả mà người đi trước, thế hệ trước để lại. Câu tục ngữ mượn mối quan hệ khăng khít giữa “nguồn” và “nước” trong tự nhiên để nói với chúng ta một cách thấm thía về triết lí sống: Khi hưởng thụ một thành quả nào đó, người ta phải nhớ ơn và đền ơn xứng đáng những người đã đem lại thành quả mà mình đang được hưởng.
2)muốn tròn phải có khuông , muốn vuông phải có thước là con người muốn trở thành người có ích cho xã hội thì cần phải rèn luyện trong khuôn khổ nhất định của các quy định đạo đức, kỉ luật, pháp luật.
Hok tốt
Nhận diện các yếu tố: chi tiết tiêu biểu, ngoại hình của nhân vật, ngôn ngữ nhân vật, hành động của nhân vật, ý nghĩ của nhân vật
hận diện các yếu tố: chi tiết tiêu biểu, ngoại hình của nhân vật, ngôn ngữ nhân vật, hành động của nhân vật, ý nghĩ của nhân vật
1. Thánh Gióng là hình ảnh cao đẹp của người anh hùng đánh giặc theo quan niệm của nhân dân. Thánh Gióng là ước mơ của nhân dân về sức mạnh tự cường của dân tộc.
2. Truyện giải thích hiện tượng lũ lụt thường xuyên xảy ra ở đồng bằng Bắc Bộ nước ta thuở các vua Hùng dựng nước. Đồng thời ước mơ có sức mạnh chế ngự thiên tai, bảo vệ cuộc sống người Việt cổ.
chúc bn hok tốt ~
Trl :
Thánh Gióng là hình ảnh cao đẹp của người anh hùng đánh giặc theo quan niệm của nhân dân. Thánh Gióng là ước mơ của nhân dân về sức mạnh tự cường của dân tộc. tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn.( tráng: Khoẻ mạnh, to lớn, cường tráng. Sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung.
Study well
Bài làm 1:
Vua Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn tìm người nối ngôi. Nhưng nhà vua có tới hai mươi người con, không biết truyền ngôi cho con nào cho xứng. Không như những đời vua Hùng trước chỉ truyền ngôi cho con trưởng, vua Hùng thứ sáu nghĩ rằng, người nối ngôi phải là người có tài, nối được chí vua, biết thương yêu dân chúng, không nhất thiết cứ phải là con trưởng. Nghĩ mãi, nghĩ mãi. cuối cùng, vua gọi các con đến và nói:
– Giặc vẫn nhiều lần sang xâm lược nước ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, ta đều đánh đuổi được. Đất nước đã thanh bình. Nay ta đã già rồi, không còn sống bao lâu được nữa. Ta muốn tìm người nối ngôi để chăm lo cho dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người nối ngôi phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho người đó. Xin Tiên vương chứng giám.
Nghe vua nói, các lang ai cũng muốn ngôi báu về tay mình nhưng không ai biết ý vua như thế nào. Họ chỉ biết đua nhau làm cỗ thật ngon, đầy sơn hào hải vị cho vua cha vừa lòng.
Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám của vua Hùng. Mẹ mất sớm, chàng ra ở riêng từ nhỏ, suốt ngày chăm việc cấy cày. Trong khi các anh em sai người đi tìm của ngon vật lạ dâng vua thì Lang Liêu chẳng có gì. Trong nhà chàng chỉ có khoai và lúa. Nhưng những thứ đó thì tầm thường quá.
Một hôm, chàng mơ thấy thần đến và bảo:
– Trên đời này, không gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo là hạt ngọc của trời. Hăy lấy gạo làm bánh để tế lễ Tiên Vương.
Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Chàng suy nghĩ hồi lâu rồi lấy thứ gạo nếp trắng tinh, vo thật sạch, lấy đậu xanh và thịt lợn làm nhân, lấy lá dong xanh gói bánh. Để đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đổ lên giã nhuyễn. Bánh làm xong. Lang Liêu phân vân không biết gọi tên bánh là gì.
Đến ngày lễ Tiên vương, các lang đem đến biết bao sơn hào hải vị, nem công chả phượng… Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng chân trước chồng bánh của Lang Liêu. Rất vừa ý, vua cha cho gọi chàng lên để hỏi. Lang Liêu bèn đem giấc mộng gặp thần ra kể. Vua ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Lang Liêu đã làm vừa ý ta, Lang Liêu sẽ nối ngôi ta. Xin Tiên vương chứng giám.
Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy. Thiếu chúng là thiếu hẳn hương vị ngày Tết.
Bài làm 2:
Vua Hùng Vương thứ sáu mở cuộc thi chọn người nối ngôi. Vua ra điều kiện: trong lễ tế Tiên vương, ai làm vua hài lòng, người đó sẽ được truyền ngôi. Các lang liền toả đi khắp nơi tìm bạc vàng, châu báu, của ngon vật lạ để dâng lên. Thấy thế, Lang Liêu rất bối rối. Là con trai nhà vua nhưng chàng rất nghèo, không thể tìm được những đồ quý hiếm. Chàng băn khoăn, trằn trọc suy nghĩ…
Thế là sắp đến ngày lễ Tiên vương rồi. Ngày kia trong triều sẽ mở đại tiệc. Hẳn các lang anh đã chuẩn bị được nhiều của ngon vật lạ lắm. Nào là nem công chả phượng, nào là yến huyết, vi cá… Vua cha rồi sẽ khen nức nở, chỉ việc chọn món nào ngon nhất mà thôi. Mình không ham gì ngôi cao, chỉ mong ước được sống bình yên như thế này. Nhưng, dẫu sao cũng là tấm lòng, giá như mình có một món gì đó thật ý nghĩa tế lên Tiên vương và cũng là để thể hiện lòng thành kính đối với vua cha thì tốt quá.
Lang Liêu ngủ thiếp đi, trong mơ chàng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ chống gây đến nói:
– Lang Liêu ạ, ta biết con tuy nghèo nhưng rất có hiếu. Con chỉ muốn có một món quà gì đó để dâng lên Tiên vương và cũng để tỏ lòng hiếu thảo đối với vua cha phải không? Vậy ta hỏi con: Con làm nghề nông, trên đời cái gì cao nhất?
– Dạ, trời ạ!
– Thế cái gì gần gũi và quý nhất?
– Dạ, đất ạ!
– Vậy con hãy lấy những sản vật do chính tay con trồng cấy và nuôi nấng để làm ra món ăn gì đó vừa tượng hình được cho trời vừa tượng hình cho đất. Đó chính là món quà quý nhất con có thể dâng lên Tiên vương.
Cụ già nói xong liền hoá thành một làn khói mỏng bay đi. Lang Liêu giật mình tỉnh dậy. Nhớ lại giấc mơ vừa qua, chàng vô cùng mừng rỡ.
Sáng hôm sau, Lang Liêu nhờ mẹ lấy cho ít lá vẫn dùng làm bánh. Chàng chọn thứ gạo ngon nhất, trắng nhất, mổ một con lợn béo lấy những miếng thịt ngon nhất. Sau đó chàng lấy lá gói thành thứ bánh vuông vức như mặt đất bao la. Xong xuôi chàng cho vào nồi luộc. Qua mấy canh giờ, mùi bánh chín bốc lên thơm nức cả làng xóm. Ai đi qua cũng ghé vào xem, khen rằng chưa từng có ai gói được thứ bánh thơm như thế. Cũng thứ cơm nếp thơm ngon ấy, chàng giã mịn, nặn thành thứ bánh tròn vành vạnh như bầu trời buổi sớm.
Sáng hôm sau, mẹ Lang Liêu đội mâm bánh tròn đi trước, Lang Liêu đội mâm bánh vuông theo sau. Hai mẹ con vào đến trong cung thì mọi người đã về tựu đông đủ.
Lỗ Tiên vương xong, vua cùng các quan đại thần đi một vòng qua các mâm cỗ nếm thử. Đến mâm nào Người cũng chỉ nếm qua một miếng, tỏ vẻ không vui. Như: gan hùm, tay gấu, tim voi, đến cả vi cá mập,…. Người cũng vẫn thường ăn hàng ngày, có gì lạ đâu? Người buồn vì thấy trước một thử thách như thế, các lang không nghĩ được cái gì có ý nghĩa, chỉ biết có mỗi cách là đi các nơi tìm của ngon vật lạ.
Đến hai mâm bánh cùa Lang Liêu, nhà vua bỗng dừng lại, ngẫm nghĩ. Từ hai mâm bánh bình dị toát lên mội thứ mùi vị thật nồng nàn, thân thuộc. Mùi của nếp mới quyện trong sương sớm, của rơm tươi vừa gặt toả ra ngan ngát. Trong làn hương thoang thoảng, thấp thoáng bóng những người nông dân cặm cụi trốn đồng, những cánh cò mải miết, phảng phất phía xa những làn khói lam chiều…
Người sai lấy dao cắt bánh rồi chia cho mỗi người một miếng. Ai ăn cũng tấm tắc khen ngon. Nhà vua hỏi Lang Liêu:
– Ai bày cho con làm hai thứ bánh này? Chúng có ý nghĩa như thế nào?
Lang Liêu vội quỳ xuống thưa:
– Muôn tâu vua cha, thứ bánh hình tròn này chính là tượng cho bầu trời cao xa, nơi có đức Ngọc Hoàng cùng Tiên vương ngự trị, còn thứ bánh hình vuông này là tượng cho mặt đất rông lớn, nơi có vua cha đang cai quản, gìn giữ nên thái bình muôn thuở. Bánh được làm từ gạo nếp, đỗ xanh, thịt ngon do chính bàn tay con làm ra. Chính tấm lòng kính yêu của con đối với vua cha đã mách bảo cho con đấy ạ!
Vua đỡ Lang Liêu đứng dậy. Nhìn thẳng vào mắt chàng, Người nói:
– Con không những là một đứa con có hiếu mà còn là một người rất yêu lao động, biết quý trọng những gì do bàn tay lao động làm ra.
Rồi trước đông đủ văn võ bá quan, Người tuyên bố:
– Như ta đã nói từ trước, người nối ngôi ta phải nối được chí ta. Chí ta là muốn lo cho muôn dân được hưởng thái hình muôn thuở, ngày càng no đủ, sung túc. Muốn làm được điều đó, người đứng đầu thiên hạ phải hiểu được nghĩa lí của trời đất, phải biết yêu lao động, trân trọng từng hạt gạo do người nông dân đã phải một nắng hai sương, lam lũ vất vả làm ra. Lang Liêu tuy không phải là con trưởng, xưa nay cũng không mấy khi được ta quan tâm săn sóc nhưng nó lại là người gần ta và hiểu được ta hơn ai hết. Từ hôm nay, ta tuyên bố, Lang Liêu chính là người sẽ thay ta trị vì thiên hạ.
Mọi người nhất loạt quỳ xuống, hô vang:
– Đức vua vạn tuế! Vạn vạn tuế!
Nhà vua nói tiếp:
– Ta cũng tuyên bố, từ nay trở đi sẽ lấy hai thứ bánh này để cúng tổ tiên. Thứ bánh vuông này gọi là bánh chưng, bánh tròn gọi là bánh giầy…
Triều vua Hùng Vương thứ bảy đã được lập ra như thế đó. Và hai thứ bánh chưng, bánh giầy ngày ấy cùng với phong tục cúng lễ tổ tiên ngày tết, vẫn còn được lưu truyền cho mãi đến bây giờ.
Kể lại chuyện Bánh chưng bánh giầy bằng lời văn của em – Bài làm 4Mỗi khi Tết đến xuân về, mâm cỗ nhà nào cũng có bánh chưng, bánh giầy. Nhưng các bạn có bao giờ hỏi về nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy ? Vì sao khi Tết đến mọi người lại làm hâi thứ bánh này. Tôi kể các bạn nghe nhé.
Vua Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn truyền ngôi cho con nhưng ông có tới hơn hai mươi người con trai. Không biết chọn ai, vua bèn gọi các con đèn bào:
– Tổ tiên ta từ khi dựng nước Văn Lang đã truyền được sáu đời. Nay ta đã già, ta muốn truyền lại ngôi cho một trong số các con. Người nối ngôi ta phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân ngày lễ của Tiên Vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho.
Các lang ai cũng muốn ngôi báu thuộc về mình nhưng ý vua thế nào thì không ai biết. Họ chỉ biết soạn cỗ thật ngon, thật hậu lễ Tiên Vương. Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám. Trước đây, mẹ chàng bị vua cha ghẻ lạnh, ốm nặng rồi qua đời sớm. Trong các anh em, chàng là người thiệt thòi nhất. Vốn chăm chỉ, siêng năng, hiền từ nên, từ khi trưởng thành, chàng đã ra ở riêng, suốt ngày chú tâm vào đồng áng. Trong nhà chàng chỉ có khoai với lúa là nhiều. Nhưng khoai lúa thì tầm thường quá.
Một đêm, sau buổi làm đồng nặng nhọc, mệt quá, chàng ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, chàng nhìn thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, đến bên chàng, hiền từ cười nói:
– Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và khiến ta không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, tuy hiếm nhưng con người không làm ra được. Hãy lấy gạo làm bánh lễ Tiên Vương.
Sáng sớm tỉnh dậy, càng ngẫm nghĩ, chàng càng thấy lời thần nói đúng. Chàng bèn khéo léo chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, đem vo thật sạch rồi lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, lấy lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, vẫn thứ gạo ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn.
Đến ngày lễ Tiên Vương, các lang đua nhau khoe sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Vua Hùng xem qua rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Thấy lạ, vua cho vời Lang Liêu lên hỏi. Lang Liêu kể hết mọi chuyện cho vua cha nghe. Ngẫm nghĩ một lát, vua lấy bánh của Lang Liêu đem lễ Tiên Vương.
Lễ xong, vua cho mọi người thụ lộc, ai cũng khen ngon. Nhà vua nói:
– Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta gọi là bành giầy, bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta gọi là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị bên trong ngụ ý đùm bọc yêu thương nhau. Lang Liêu đã làm đúng ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho Lang Liêu. Xin Tiên Vương chứng giám.
Từ đấy, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy.
Nguồn gốc bánh chưng, bánh giầy là thế đấy các bạn ạ. Câu chuyện tôi kể không chỉ nói về nguồn gốc bánh chưng, bánh giầy mà còn đề cao nghề nông và sự tôn kính đối với tổ tiên của nhân dân ta ngay từ buổi đầu dựng nước.
Ai thấy hay thì tick nha!!!