K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

5 tháng 9 2016

Bình thường mắt người chỉ nhìn được các vật có kích thước từ 0,2 mm (200 μm) trở lên.

Vi khuẩn có kích thước từ 1 - 10 μm. Vì vậy, mắt thường của con người không thể nhìn thấy vi khuẩn.

Hỏi đáp Sinh học

Kính hiển vi được cầu tạo gồm hệ thống nhiều thấu kính, có tác dụng phóng đại mẫu vật thành ảnh lớn hơn nhiều lần để mắt thường có thể nhìn thấy.

Hỏi đáp Sinh học

Ví dụ, vật mẫu ở đây là AB, qua kính hiển vi được phóng đại thành ảnh A2B2 có kích thước lớn hơn nhiều lần (10-1000 lần với kính hiển vi quang học), giúp con người có thể quan sát được.

3 tháng 9 2016

Do kính hiển vi có kính lồi phóng to hình ảnh.

5 tháng 1 2020

- Các bộ phận của kính hiển vi:

1.Thị kính: (kính để mắt vào quan sát), có ghi độ phóng đại X 10 (gấp 10 lần), X 20 (gấp 20 lần)

2. Đĩa quay gắn các vật kính: chọn được vật kính phù hợp với mức phóng đại mà người quan sát muốn.

3. Vật kính: tạo ra ảnh ảo cho phép phóng đại vật với độ lớn cao.

4. Bàn kính: cho phép điều chỉnh độ cao của mẫu vật để lấy nét trong quá trình tạo ảnh.

5. Gương phản chiếu ánh sáng: phản chiếu ánh sáng để chiếu sáng mẫu vật.

6. Chân kính: giữ vững cho kính.

7. Ốc nhỏ.

8. Ốc to.

 

- Bộ phận quan trọng nhất là vật kính vì đây là bộ phận tạo ra ảnh của vật với độ phóng đại cao giúp nhìn rõ vật.

16 tháng 9 2016

Gồm các bộ phận chủ yếu sau:

–          Nguồn sáng truyền qua (bóng đèn sợi đốt hoặc halogen).

–          Tụ quang để hội tụ chùm sáng

–          Màn chắn sáng, khẩu độ chắn sáng (nếu có)

–          Giá đỡ mẫu (có bộ phận giữ mẫu)

–          Bộ phận điều khiển giá đỡ mẫu (lên, xuống, sang phải, sang trái)

–          Mâm vật kính có khả năng xoay vòng để lựa chọn vật kính có độ phóng đại thích hợp khi quan sát

–          Vật kính: là một ống hình trụ có một hay nhiều thấu kính, để thu ánh sáng đi xuyên qua mẫu. Vật kính có các độ phóng đại điển hình như 4x, 5x, 10x, 20x, 40x, 50x, 60x và 100x có thể được lắp đặt trên cùng một mâm vật kính.

–          Thị kính: là một ống hình trụ có hai hay nhiều thấu kính, giúp hội tụ hình ảnh của mẫu vật lên võng mạc của mắt. Độ phóng đại điển hình của thị kính là 2x, 5x, 10x.

–          Núm chỉnh độ hội tụ (chỉnh thô và chỉnh tinh)

–          Ống nối với camera (nếu có).

5 tháng 8 2017

- Quan sát trên hình phân biệt mũ nấm, chân nấm, cuống nấm.

- Nhìn mặt dưới mũ nấm có các phiến mỏng.

- Nếu quan sát dưới kính hiển vi sẽ nhìn thấy rất nhiều bào tử nấm

3 tháng 8 2021

 Quan sát trên hình phân biệt mũ nấm, chân nấm, cuống nấm.

 Nhìn mặt dưới mũ nấm có các phiến mỏng.

 Nếu quan sát dưới kính hiển vi sẽ nhìn thấy rất nhiều bào tử nấm

12 tháng 7 2018

1. Tế bào biểu bì mặt trên

2. Tế bào thịt lá

3. Khoang chứa không khí

4. Tế bào biểu bì mặt dưới

5. Lục lạp

6. Gân lá gồm các bó mạch

7. Lỗ khí

19 tháng 12 2021

Tk:

1. Tế bào biểu bì mặt trên

2. Tế bào thịt lá

3. Khoang chứa không khí

4. Tế bào biểu bì mặt dưới

5. Lục lạp

6. Gân lá gồm các bó mạch

7. Lỗ khí

 

 

19 tháng 12 2021

tham khao;

 

1. Tế bào biểu bì mặt trên

2. Tế bào thịt lá

3. Khoang chứa không khí

4. Tế bào biểu bì mặt dưới

5. Lục lạp

6. Gân lá gồm các bó mạch

7. Lỗ khí

24 tháng 6 2019

Đáp án: B

SGK trang 19

2 tháng 12 2021
Đáp án B okkkkkk
16 tháng 3 2019

Đáp án: B

SGK trang 19

22 tháng 10 2021

.......???????????

22 tháng 10 2021

Những vật có thể nhìn bằng kính hiển vi là; virus, vi khuẩn, tế bào

22 tháng 10 2021

Kính hiển vi là một thiết bị dùng để quan sát các vật thể có kích thước nhỏ bé mà mắt thường không thể quan sát được bằng cách tạo ra các hình ảnh phóng đại của vật thể đó. Kính hiển vi có thể gấp độ phóng đại bình thường lên từ 40 - 3000 lần. Kỹ thuật quan sát và ghi nhận hình ảnh bằng các kính hiển vi được gọi là kỹ thuật hiển vi (microscopy). Ngày nay, kính hiển vi có thể bao gồm nhiều loại từ các kính hiển vi quang học sử dụng ánh sáng khả kiến, cho đến các kính hiển vi điện tử, hay các kính hiển vi quét đầu dò, hoặc các kính hiển vi phát xạ quang... Kính hiển vi được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành như vật lý, hóa học, sinh học, khoa học vật liệu, y học và được phát triển không chỉ là công cụ quan sát mà còn là một công cụ phân tích mạnh

Các cấu trúc của kính hiển vi quang học tiếp tục được phát triển tiếp theo đó, và kính hiển vi chỉ được sử dụng một cách phổ biến hơn ở Italia, Anh quốc, Hà Lan vào những năm 1660, 1670. Marcelo Malpighi ở Italia bắt đầu sử dụng kính hiển vi để nghiên cứu cấu trúc sinh học ở phổi. Đóng góp lớn nhất thuộc về nhà phát minh người Hà Lan Antoni van Leeuwenhoek, người đã phát triển kính hiển vi để tìm ra tế bào hồng cầu và tinh trùng và đã công bố các phát hiện này [3]. Các phát triển ban đầu về kính hiển vi là thiết bị quang học sử dụng ánh sáng khả kiến và các thấu kính thủy tinh để quan sát.

Đầu thế kỷ 20, kỹ thuật hiển vi tạo sự nhảy vọt với sự ra đời của các kính hiển vi điện tử, mà mở đầu là kính hiển vi điện tử truyền qua được phát minh năm 1931 bởi Max Knoll và Ernst Ruska ở Đức [4], và sau đó là sự ra đời của kính hiển vi điện tử quét... Cuối thế kỷ 20, một loạt các kỹ thuật hiển vi khác được phát triển như kính hiển vi quét đầu dò, hiển vi quang học trường gần...

Là nhóm kính hiển vi sử dụng ánh sáng khả kiến rọi lên vật cần quan sát, và các thấu kính thủy tinh để phóng đại thông qua các nguyên lý khúc xạ của ánh sáng qua thấu kính thủy tinh. Đây là kính hiển vi đầu tiên được phát triển. Ban đầu, người ta phải sử dụng mắt để nhìn trực tiếp hình ảnh được phóng đại, nhưng các kính hiển vi quang học hiện đại ngày nay có thể được gắn thêm các bộ phận chụp ảnh như phim quang học, hoặc các CCD camera để ghi hình ảnh, hoặc video. Các bộ phận chính của kính hiển vi quang học bao gồm:

  • Nguồn sáng;
  • Hệ hội tụ và tạo chùm sáng song song;
  • Giá mẫu vật;
  • Vật kính (có thể là một thấu kính hoặc một hệ thấu kính) là bộ phận chính tạo nên sự phóng đại;
  • Hệ lật ảnh (lăng kính, thấu kính);
  • Thị kính là thấu kính tạo ảnh quan sát cuối cùng;
  • Hệ ghi ảnh.

Trên nguyên lý, kính hiển vi quang học có thể tạo độ phóng đại lớn tới vài ngàn lần, nhưng độ phân giải của các kính hiển vi quang học truyền thống bị giới hạn bởi hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng và cho bởi:

{\displaystyle d={\frac {\lambda }{2NA}}}

với {\displaystyle \lambda } là bước sóng ánh sáng, NA là thông số khẩu độ. Vì thế, độ phân giải của các kính hiển vi quang học tốt nhất chỉ vào khoảng vài trăm nm.