Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Hướng dẫn
I. Mở bài:
- Tình cảm gia đình là những tình cảm thân thương, gắn bó trong tâm hồn của mỗi con người, nó đã trở thành một đề tài quen thuộc trong văn học.
- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là bài ca về tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc.
II. Thân bài:
1. Tình cảm của cha con ông Sáu:
a. Chiến tranh đã gây ra cảnh chia li cho gia đình ông Sáu:
- Ông Sáu đi kháng chiến khi đứa con đầu lòng (bé Thu) chưa đầy một tuổi.
- Ở chiến khu, ông nhớ con nhưng chỉ được nhìn con qua tấm ảnh nhỏ.
- Bé Thu dần lớn lên trong tình yêu của má nhưng em chưa một lần được gặp ba, em chỉ biết ba qua tấm hình chụp chung với má.
b. Chiến tranh đã không thể chia cắt được tình cảm gia đình, tình phụ tử thiêng liêng:
* Bé Thu rất yêu ba:
- Em cương quyết không nhận ông Sáu là cha (khi thấy ông không giống với người trong tấm hình chụp chung với má).
- Em phản ứng một cách quyết liệt, thậm chí còn xấc xược, bướng bỉnh (để bảo vệ tình yêu em dành cho ba…).
- Em ân hận trằn trọc không ngủ được khi được ngoại giảng giải.
- Lúc chia tay, em gọi “ba”, hôn cả lên vết thẹo dài đã từng làm em sợ hãi, em không cho ba đi…
* Ông Sáu luôn dành cho bé Thu một tình yêu thương đặc biệt:
- Khi xa con, ông nhớ con vô cùng.
- Khi được về thăm nhà, ông không đi đâu, chỉ quanh quẩn ở nhà để được gần con.
- Ông vô cùng đau khổ khi thấy con lạnh lùng (khi con cương quyết không chịu gọi “ba”).
- Ông dồn hết tình yêu thương con vào việc tự tay làm chiếc lược ngà cho con.
- Ân hận vì đã đánh con.
- Trước khi nhắm mắt, ông cố gửi cho con kỉ vật cuối cùng...
2. Suy nghĩ về tình cảm gia đình trong chiến tranh
- Cảm động trước tình cha con sâu nặng.
- Là tình cảm thiêng liêng của mỗi con người.
- Trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, tình cảm gia đình càng được thử thách càng trở nên thiêng liêng hơn.
- Tình cảm gia đình tạo nên sức mạnh, nghị lực, niềm tin để con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
- Tình cảm gia đình, tình cha con đã hòa quyện trong tình yêu quê hương đất nước.
III. Kết bài
- "Chiếc lược ngà" – một câu chuyện xúc động về tình phụ tử thiêng liêng trong chiến tranh.
- Câu chuyện thêm một lần nữa khẳng định tình cảm gia đình, tình cha con...luôn bất diệt trong mọi hoàn cảnh.
Bài làm
Trong cuộc sống của con người nói chung và trẻ em nói riêng thì có lẽ ai ai cũng muốn có một người cha luôn quan tâm ,chăm sóc cho mình. Và tôi cũng vậy(tôi là Bé Thu), nhưng cha tôi xa tôi từ lúc tôi chưa tròn một tuổi. Cha tôi phải đi chiến trường bỏ lại mẹ con tôi và bà nội của tôi. Trong suốt gần 8 năm cha tôi không ở nhà thì mẹ tôi luôn là người lo hết tất cả mọi công việc trong nhà. Mẹ tôi ,tôi và bà tôi đều rất nhớ ba. Có một ngày nọ, tôi và bạn tôi đang chơi ở gần bến thì thấy thấp thoáng xa xa có một chiếc xuồng, trên xuồng có ba người đàn ông, một ông lái xuồng và hai người đi xuồng. Trong hai người đi xuồng đó thì có một người đàn ông trên mặt có một chiếc thẹo to và dài, nhìn mặt ông ta rất đáng sợ. Chiếc xuồng ngày càng lại gần, cứ vậy xuồng lại gần tới bến chưa kịp cập bến thì người đàn ông có chiếc thẹo to dài đó nhảy vụt lên bến và đẩy chiếc xuồng ra xa. Người đàn ông đáng sợ đó bước từng bước dài và nhanh lại tới chỗ tôi đang chơi và nhè nhẹ nói với tôi rằng cha đây con... Tâm trạng tôi lúc đó rất sợ hãi ,vì chiếc thẹo đó nhìn kĩ vô cùng đáng sợ ,thế là tôi chạy vụt đi, vừa chạy miệng tôi vừa kêu má....má....Lúc về tới nhà thì nghe má tôi bảo đó là cha tôi và bắt tôi phải gọi ông ấy là cha. Nhưng tôi thấy ông ấy không giống với người cha trong tấm hình chụp với mẹ tôi.Cha tôi làm gì có chiếc thẹo đáng sợ ấy.Lúc ăn cơm má tôi bảo tôi kêu ông ta vào ăn cơm nhưng tôi nói trổng rằng: vô ăn cơm ,ông ta không nghe ,tôi gọi lại lần nữa: cơm chín rồi vô ăn mau kẻo nguội bây giờ, nhưng ông ta giả vờ như không nghe, 1 lát sau ông ta quay đầu lại lắc lắc vài cái rồi cười nhưng trong nụ cười ấy chứa một nỗi buồn gì đó. Ngày sau má tôi bắc cơm rồi bảo tôi coi nồi cơm để má tôi đi mua đồ ăn, nếu có gì cần giúp thì cứ gọi cha tôi. Một lát sau, nồi cơm sôi sùng sục, tôi không biết phải làm gì cả nhưng tôi không biết phải gọi ông ta như thế nào và tôi lại nói trổng :cơm sôi rồi. Người bạn của ông ta lên tiếng :con không thể kêu một tiếng cha được sao, con không kêu cha con giúp thì đằng nào má con về con cũng bị mắng chi xem. Nôi cơm sôi như đang thúc dục tôi, nhưng tôi quyết định không gọi ông ấy là cha tôi đâu. Và tôi quyết định lấy cái vá rồi múc từng vá nước ra ra ngoài. Và lúc ăn cơm thì ông ta gắp cho tôi một cái trứng cá to để vào bát tôi, và tôi đã lấy đũa hất cái trứng cá ra khỏi bát ,cơm văng tung tóe cả mâm, ông ta như không ghìm nổi tức giận và ổng đã đánh một cái vào mông tôi. Tôi liền gắp cái trứng cá bỏ lại vào bát và nhẹ nhàng đứng dậy rồi chạy một mạch ra ngoài chiếc xuồng ,tôi tháo xuồng cố ý gây ra tiếng động mạnh nhưng cũng không ai thè để ý đến tôi cả . Và tôi lái xuồng qua nhà bà ngoại, đếm hôm đó tôi ngủ lại nhà bà ngoại, mẹ tôi có đến gọi tôi về nhà nhưng tôi không chịu. Tối đó bà có hỏi tôi vì sao tôi không chịu gọi cha và tôi với bà đã tâm sự suốt một đêm thì tôi mới biết rằng ông ta chính là cha của tôi. Vì chiến tranh đã để lại trên khuôn mặt cha tôi một chiếc thẹo kinh khủng đó.Sáng hôm sau cũng là ngày cha tôi phải tiếp tục trở lại chiến trường, tôi cùng bà ngoại về nhà. Vì họ hàng cả 2 bên nội ngoại đều đến nên người rất đông. Tôi đứng một góc nhà ,cha tôi bận tiếp mọi người nên không quan tâm hay ngó ngàng gì đến tôi cả. Lúc đó tôi thật sự rất buồn. Lúc đã bắt tay hết mọi người và cũng là giây phút cuối cùng của 2 cha con tôi. Cha quay lại nhìn tôi và nói: ba đi nha con. Tôi bỗng dưng phản xạ tự nhiên và chạy lại ôm chặt lấy cha tôi vừa khóc tôi vừa nói:cha đừng đi. Tôi như không ghìm nổi xúc động , tôi hôn cha tôi và hôn lên cả cái thẹo đáng sợ đó nữa. Nhưng cha tôi không thể ở lại với tôi và cha tôi đã hứa lúc quay trở về sẽ tặng cho tôi 1 cái lược bằng ngà voi. Thế là cha tôi lại tiếp tục trở lại chiến trường.Một thời gian sau bạn của cha tôi quay trở về 1 mình trên tay cầm chiếc lược đưa cho tôi và nói :cha con đã rất vất vả để làm chiếc lược nhưng chiến tranh đã đưa cha tôi đi rất xa với cuộc sống của tôi. Lúc đó tôi không biết gì ngoài việc thấy hối hận vì những việc mình đã làm với cha.
Văn chương luôn cho con người nhiều điều bổ ích. Nó mở rộng tâm hồn ta, cho ta nhiều xúc cảm. Nó giúp ta hiểu về chính mình, con người và xã hội. Gặp các tác phẩm lớn, ta lại càng được mở mang thêm nhiều điều, khai thác đầy đủ các khía cạnh khác nhau của một chủ đề. Khẳng định vai trò lớn lao ấy, nhà văn Nguyễn Đình Thi có viết:
“Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng…”.
Chỉ với một câu văn mà ông đã gợi ra trong tôi nhiều điều suy ngẫm. “Tác phẩm lớn” là tác phẩm mang dấu ấn của thời đại, hiện thực, xã hội,…; hướng con người đến những điều tốt đẹp. “Một ánh sáng riêng” là quan niệm, tình cảm, tư tưởng… mà tác giả cất công lồng ghép vào tác phẩm của mình. Mỗi tác giả đặt ra mỗi vấn đề, có cách nghĩ khác nhau, có cách diễn đạt khác nhau. Vậy nên, ánh sáng của mỗi tác phẩm là mỗi “ánh sáng riêng”. Với câu văn giàu hình ảnh so sánh, nhà văn đã khẳng định: Đọc các tác phẩm lớn, ta sẽ tiếp thu các tư tưởng, nội dung… mang bản sắc riêng của từng tác giả. Đó có thể là những hiểu biết về tự nhiên và xã hội. Đó có thể là nhạc điệu trữ tình khiến ta vui, buồn, giận, ghét… Nhưng vô hình chung, chúng đều hướng người đọc đến cái “chân – thiện – mỹ”. Từ đó, các tác phẩm sẽ để lại giá trị lâu dài và ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Tôi là một người yêu văn. Và tôi cũng đã từng đọc nhiều “tác phẩm lớn”. Tâm hồn tôi trải dài theo từng trang văn, trải rộng theo các từ ngữ diệu kì. “Ánh sáng riêng” trong tôi là những gam màu đặc sắc. Có lẽ “ánh sáng” lung linh nhất chiều vào tôi đến từ truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của nhà văn người Mĩ O-hen-ri.
Truyện ngắn lấy không gian là một nhà trọ ở gần Oa-sinh-tơn với cốt truyện xoay quang ba họa sĩ nghèo (Xiu, Giôn-xi, cụ Bơ-men). Với bối cảnh đơn giản ấy, tác phẩm đã “rọi” vào trong tôi rất nhiều thứ “ánh sáng”, đến ngay lăng kính bảy màu của Niu-tơn cũng không thể sánh bằng.
“Ánh sáng riêng” đầu tiên mà tôi nhận được từ O-hen-ri là bài học về sự lạc quan: Sống trong đời, con người cần yêu cuộc sống; có niềm tin yêu, sự lạc quan và nghị lực để vươn đến sự sống. Chúng ta có thể thấy rõ “ánh sáng” ấy toát lên từ nhân vật Giôn-xi rất nhiều. Cô bị bệnh phổi và cô buông mình chờ chết, không còn niềm tin để khát khao sống tiếp. Ví như chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống thì cô cũng “rụng” theo. Có thể chính nỗi tuyệt vọng và buồn bã ấy đã khiến bệnh tình ngày một thêm nặng. Nhưng sau khi chứng kiến cảnh chiếc lá vẫn còn thì mọi chuyện khác hẳn. Cô yêu cuộc sống trở lại, muốn được “vẽ vịnh Na-plo khi khỏi bệnh”. Cũng đúng thôi! Một chiếc lá nhỏ bé, sau một cơn bão khủng khiếp, vẫn cố gắng bám níu cành cây để tiếp tục được sống. Tại sao con người như chúng ta lại không thể? Tác giả đã truyền cho chúng ta niềm tin và tình yêu vào cuộc sống. Dẫn chứng là việc Giôn-xi thuyên giảm bệnh tình sau khi lạc quan trở lại. Phải chăng con người và cuộc sống đều đáng và cần được lạc quan như vậy? Vì đời đẹp và con người là đáng quý. Hãy mỉm cười và đừng bao giờ quay lưng với cuộc đời: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”.
Sống để được thương yêu và yêu thương người khác. Đó là “ánh sáng” thứ hai mà tác giả “rọi” vào tâm hồn tôi. Như Giôn – xi với căn bệnh hiểm nghèo, cô được mọi người quan tâm, săn sóc và thậm chí hi sinh vì cô. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao khi sống giữa tình thương của mọi người, song ban đầu cô lại không nhận ra mà lại chực chờ cái chết. Như Xiu và cụ Bơ-men với tình yêu thương bao la, họ yêu thương Giôn-xi như người ruột thịt. Xiu như chị gái của Giôn-xi, chăm sóc em hết lòng dù cô cũng nghèo như ai cả. Cụ Bơ-men lại có thể hi sinh vì Giôn-xi, chín cụ đã đứng giữa trời mưa gió để vẽ chiếc lá vốn đã bị gió cuốn đi. Cụ ra đi vì bệnh sưng phổi nặng, để đổi lại cho Giôn-xi cuộc sống vẹn toàn. Nhưng trong Xiu, Giôn-xi và tôi, cụ sẽ không chết vì tấm lòng “vàng” của cụ vẫn còn. “Chết như sống”, liệu đó có phải là nghệ thuật sống đẹp đẽ nhất khi ta hi sinh vì người khác?
“Ánh sáng” cuối cùng mà O-hen-ri truyền đạt khi viết truyện ngắn này là quan niệm về nghệ thuật. Quan niệm này đã đưa “Chiếc lá cuối cùng” trở thành “bức thông điệp màu xanh về tình yêu thương”. Nghệ thuật có hai mục đích cơ bản” “Nghệ thuật vị nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Ở O-hen-ri, ta bắt gặp cả hai mục đích tốt đẹp ấy. Cụ Bơ-men mong muốn vẽ được một kiệt tác, cuối cùng, tâm nguyện ấy đã thành hiện thực. Chiếc lá cụ vẽ ra thật và đẹp đến nỗi họa sĩ trong nghề như Xiu và Giôn-xi cũng không nhận ra đó là “tranh vẽ”. Phải chăng đó là “Nghệ thuật vị nghệ thuật”? Song giá trị nhân văn của truyện là ở chỗ chiếc lá đã cứu sống Giôn-xi. Và cái giá đắt phải trả là mạng sống của cụ già tội nghiệp – chủ nhân bức tranh. Nhưng cụ hóa thân bất tử vào chiếc lá để nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu thương. Cụ chưa từng chết! Một người nghệ sĩ chân chính như cụ biết cách để hòa mình bất tử vào cuộc sống để giúp đời, giúp người. Quả không sai khi có thể xem chiếc lá cụ vẽ là một kiệt tác. Quan niệm của O-hen-ri như được tôn cao thêm vì chiếc lá: Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người, vì cuộc sống.
Bằng cách kể chuyện hấp dẫn và cảm động, kết hợp đảo ngược tình huống hai lần, truyện ngắn đã truyền vào tôi những “ánh sáng” diệu kì. Tôi có quan niệm đẹp về nghệ thuật và tôi sẽ viết nó vào trang đầu tiên trong nhật kí làm văn. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên truyện ngắn ấy cùng nhà văn ấy. “Chiếc lá cuối cùng” sẽ sống trong tôi như một nghệ thuật, như một linh hồn.
Giờ đây, tôi lại thấm thía thêm nội dung câu văn của Nguyễn Đình Thi. Mỗi lần đọc lại bài “Tiếng nói của văn nghệ”, gặp đến câu văn ấy, tôi lại dừng lại, suy tư, ngẫm nghĩ. “Chiếc lá cuối cùng”, “Cô bé bán diêm”, “Tắt đèn”, “Lão Hạc”… ùa về trong tôi lúc nào không hay. Để rồi tôi quên rằng mình đã dừng lại cả tiếng đồng hồ. Vì sao tôi lại thế? Có phải vì các tác phẩm ấy rất “lớn” và từng “ánh sáng” ấy rất riêng? Hay là vì tôi đã hóa thân vào văn chương diệu kì? Tôi không hay biết.
Phân tích diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng khi ông Sáu về thăm nhà.
Thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận ra ông Sáu là cha:
Gặp cha sau tám năm xa cách trước sự vồ vập của cha, bé Thu tỏ ra ngờ vực và hoảng sợ con bé thấy lạ quá, nó chớp mắt nhìn mình như muốn hỏi đó là ai, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má”. Đó là cuộc gặp gỡ ngoài ý muốn của Thu bởi em chờ đợi một hình ảnh khác hình ảnh người cha giống hệt tấm hình chụp chung với má.
Ba ngày phép của cha, Thu tỏ ra rất lạnh nhạt. Tình cảm của em đối với cha ngày càng xấu đi. Từ chỗ em chỉ gọi trống không với cha: “Vô ăn cơm”, “Cơm chín rồi!”. “Con nói rồi mà người ta không nghe”, hoặc “Cơm sôi rồi chắt nước giùm cái” đến chỗ em không chấp nhận sự chăm sóc của cha. Khi ông Sáu gắp một cái trứng cá bỏ vào bát cơm: “Nó liền lấy đũa xoi vào chén để rồi bất thần hất cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe cả mâm” và cao hơn là nó đã bỏ đi: “Nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, cố làm cho dậy lòi tói khua rổn rang, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông, nó sang nhà ngoại”.
Sự phản ứng của Thu càng ngày càng quyết liệt, từ chỗ ngấm ngầm đến chỗ rõ ràng, mạnh mẽ chứng tỏ đây là cô bé ngang ngạnh, bướng bỉnh. Sự ngang ngạnh của em hoàn toàn “có lí” và không đáng trách vì em đâu có biết vết sẹo trên mặt ba là do chiến tranh, em đâu có biết người đàn ông có “Vết thẹo dài bên má phải”, “đỏ ửng”, “giần giật, trông rất dễ sợ” kia lại là người mà em trông đợi bấy lâu. Sự phản ứng của em chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, có tình yêu cha sâu sắc. Tình yêu ấy đã khắc ghi trong trái tim ngây thơ ấy kiêu hãnh nên em không chấp nhận người đàn ông có sẹo là cha.
Chi tiết vết sẹo là một chi tiết đắt giá. Nó có giá trị lớn trong việc xây dựng tình huống, bộc lộ tình cảm cha con đồng thời có giá trị tố cáo lớn. Chiến tranh đã làm con người bị biến dạng, chiến tranh đã làm cho con không nhận ra cha, chiến tranh len lỏi tàn phá từng gia đình, tàn phá, huỷ diệt mọi lĩnh vực để đến nỗi con không nhận ra cha.
Thái độ, hành động của Thu khi nhận ra cha:
Trong buổi sáng cuối cùng trước khi chia tay, thái độ của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn: Thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên:
Ba...a...a...ba!
Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “Ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “Ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó. “Nó nhảy thót lên ôm lấy cổ ba nó. Nó hôn tóc, hôn vai, hôn cổ, hôn cả vết thẹo dài bên má ba nó. Hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghe hai tay không giữ được ba nên nó dạng cả hai chân câu chặt lấy ba, đôi vai của nó run run” chi tiết sinh động đầy kịch tính diễn tả thành công sự bùng nổ mạnh mẽ, sự đột phá dữ dội của tình cảm, bao nhiêu yêu thương mong đợi dồn nén giờ đây oà vỡ, những giọt nước mắt yêu thương xen lẫn sự hối hận và hành động ôm hôn ba của Thu.
Tính cách nhân vật bé Thu:
Tình cảm mạnh mẽ sâu sắc nhưng cũng rất dứt khoát, rạch ròi. Có nét cá tính cứng cỏi đến mức ương ngạnh nhưng vẫn là đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí của tác giả.
Cách miêu tả diễn biến tâm lí thành công: Từ chỗ Thu ngạc nhiên hoảng sợ đến lạnh lùng, cuối cùng là sự bùng nổ những yêu thương do bị dồn nén. Thể hiện được điều đó chứng tỏ tác giả am hiểu tâm lí trẻ em, yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm, đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng Ba, hay khi hất cái trứng mà anh Sáu cho xuống, cuối cùng khi anh Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị anh Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người “cha chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy, không giống anh Sáu, không phải bởi thời gian đã làm anh Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm hiến dạng khuôn mặt anh Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thế biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sĩ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiều sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên giải phỏng sau này.
Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh, gan góc, tình cảm có sâu sắc, mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi, với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lí của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy. Khi bị ba đánh, bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” Có cảm giác bé Thu sợ anh Sáu sẽ nhìn thấy những giọt nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi? Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý. Có lẽ cô bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi, mà chạy ra vỗ về, dỗ dành. Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi, già giặn hơn tuổi, nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. Trong khi “Chiều đó, mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”, cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi, vừa tinh tế.
Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha, thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tình cảm. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay, giờ trỗi dậy, vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình, dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó, cưng nựng nó, săn sóc, chăm lo cho nó, làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống. Nó gần như chưa có chút ấn tượng nào về cha, song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào, cao lớn nhường nào, có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao? Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lạ kia làm bố. Khi đến ngày anh Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi, lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người vây quanh ba nó, dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ đứng nguyên ở đấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó”. Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng. Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa, nó bỗng kêu hét lên Ba..., vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa. Tiếng kêu Ba từ sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha. Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giàu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ: Nhân vật bé Thu.