Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đáp án : B
Những bệnh đó là: 1,2,3,4,5,8,10,11,12
6,7: chỉ ở nữ
9: chỉ ở nam, do đột biến gen trên NST Y
Chọn C
Phương pháp nghiên cứu tế bào là những nghiên liên quan đến nhiễm sắc thể.
- Hội chứng Etuôt à do đột biến số lượng NST dạng thể ba (2n +1) ở NST số 18
- Hội chứng Patau à do đột biến số lượng NST dạng thể ba (2n + 1) ở NST số 13
- Bệnh ung thư máu à do đột biến mất đoạn NST số 21 hoặc 22
Vậy có (1), (2), (6) là những bệnh liên quan đến NST
Đáp án D
Bằng phương pháp nghiên cứu tế bào,
người ta có thể phát hiện được các bệnh,
hội chứng do đột biến NST: 2,6,7,8
Đáp án A
Bằng phương pháp nghiên cứu vật chất di truyền ở cấp tế bào chỉ có thể phát hiện được nguyên nhân của những bệnh do đột biến cấu trúc hoặc số lượng NST chứ không thể phát hiện được những bệnh do đột biến gen gây ra.
Hội chứng Etuôt: có 3 NST số 18 trong tế bào.
Hội chứng Patau: có 3 NST số 13 trong tế bào.
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) do virus HIV gây nên.
Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm do đột biến gen trội nằm trên NST thường.
Bệnh máu khó đông do gen lặn nằm trên NST giới tính X.
Bệnh ung thư máu do mất đoạn NST số 21.
Vậy các nội dung đúng là (1), (2), (6).
Đáp án C
Trong các bệnh trên:
(1) Ung thư máu do mất đoạn đầu mút NST số 21 gây nên → Đây là dạng đột biến cấu trúc NST
(2) Bệnh máu khó đông do đột biến gen lặn trên NST giới tính X gây nên → Đây là dạng đột biến gen
(3) Bệnh bạch tạng do đột biến gen lặn trên NST thường gây bên → Đây là dạng đột biến gen
(4) Hội chứng đao do cặp số 21 có 3 chiếc → Đây là dạng đột biến số lượng NST
(5) Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm do đột biến gen trội trên NST thường gây bên → Đây là dạng đột biến gen
(6) Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) là bệnh do virut HIV gây nên không liên quan đến đột biến
→ Có 3 bệnh tật di truyền liên quan tới đột biến gen là: 2, 3, 5
Đáp án D
Bằng phương pháp nghiên cứu tế bào, người ta có thể phát hiện được nguyên nhân của những bệnh và hội chứng: 1,2,6: là các đột biến NST
Bệnh và hội chứng mà có thể sử dụng phương pháp tế bào học là những bệnh và hội chứng do đột biến NST
(1) Hội chứng Etuôt. à 3 NST số18 (2n +1)
(2) Hội chứng Patau. à 3 NST số 13 (2n +1)
(3) Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) à virut gây nên không thể quan sát tế bào được.
(4) Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm à đột biến gen gây nên => không thể sử dụng phương pháp nghiên cứu tế bào.
(5) Bệnh máu khó đông à đột biến gen gây nên => không thể sử dụng phương pháp nghiên cứu tế bào.
(6) Bệnh ung thư máu à đột biến cấu trúc NST à sử dụng phương pháp tế bào được
(7) Bệnh tâm thần phân liệt à đột biến gen gây nên => không thể sử dụng phương pháp nghiên cứu tế bào.
Vậy: B đúng.
Đáp án B
Phương pháp nghiên cứu tế bào là những nghiên cứu liên quan đến nhiễm sắc thể
- Hội chứng Etuôt → do đột biến số lượng NST dạng thể ba (2n+1) ở NST số 18
- Hội chứng Patau → do đột biến số lượng NST dạng thể ba ở NST số 13
- Bệnh ung thư máu do đột biến mất đoạn NST số 21 hoặc 22
(1), (2), (6) là những bệnh liên quan đến NST
Đáp án B
Bệnh và hội chứng mà có thể sử dụng phương pháp tế bào học là những bệnh và hội chứng do đột biến NST
(1) Hội chứng Etuôt. → 3 NST số 18 (2n + 1)
(2) Hội chứng Patau. → 3 NST số 13 (2n + 1)
(3) Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) → virut gây nên không thể quan sát tế bào được
(4) Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm → đột biến gen gây nên → không thể sử dụng phương pháp nghiên cứu tế bào.
(5) Bệnh máu khó đông → đột biến gen gây nên → không thể sử dụng phương pháp nghiên cứu tế bào
(6) Bệnh ung thư máu đột biến cấu trúc NST → sử dụng phương pháp tế bào được
(7) Bệnh tâm thần phân liệt → đột biến gen gây nên →không thể sử dụng phương pháp nghiên cứu tế bào
Đáp án B
Các hội chứng di truyền ở người có thể phát hiện được bằng phương pháp tế bào học là :
- Hội chứng Etuôt.
- Hội chứng Patau.
- Hội chứng Đao
- Bệnh ung thư máu.