Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
THAM KHẢO
Giáo dục thi cử dưới thời Lê Sơ:
- Dưới thời Lê sơ nền giáo dục của Đại Việt rất phát triển. Trong vòng một thế kỉ, nhà Lê sơ đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên.
- Ngay sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã cho dựng lại Quốc tử giám ở Thăng Long, mở trường học ở các lộ. Ở các đạo, phủ đều có trường công.
- Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho.
Giáo dục và thi cử phát triển là cơ sở đào tạo nhân tài cho đất nước. Qua đó, trình độ dân trí được nâng cao. Số trường học ngày càng tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng do đó tỉ lệ mù chữ ngày càng giảm.
Tham khảo
Giáo dục thi cử dưới thời Lê Sơ:
- Dưới thời Lê sơ nền giáo dục của Đại Việt rất phát triển. Trong vòng một thế kỉ, nhà Lê sơ đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên.
- Ngay sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã cho dựng lại Quốc tử giám ở Thăng Long, mở trường học ở các lộ. Ở các đạo, phủ đều có trường công.
- Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho.
Giáo dục và thi cử phát triển là cơ sở đào tạo nhân tài cho đất nước. Qua đó, trình độ dân trí được nâng cao. Số trường học ngày càng tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng do đó tỉ lệ mù chữ ngày càng giảm.
- Tình hình giáo dục, thi cử thời Lê sơ phát triển, đạt nhiều thành tựu rực rỡ với ý thức đề cao vị trí của một dân tộc "vốn xưng nền văn hiến đã lâu".
- Nhà nước Lê sơ sớm quan tâm đến giáo dục, đào tạo nhân tài. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, các khoa thi được tổ chức đều đặn 3 năm 1 lần ở đại phương cũng như ở kinh đô. Số người đỗ đạt ngày càng nhiều, trình độ dân trí được nâng cao.
- Số trường học tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng.
Tình hình:
- Dưới thời Lê sơ nền giáo dục của Đại Việt rất phát triển. Trong vòng một thế kỉ, nhà Lê sơ đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên. “Khoa cử các đời thịnh nhất là đời vua Lê Thánh Tông. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, trong nước không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém”.
- Nhà nước sớm quan tâm đến giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngay sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã cho dựng lại Quốc tử giám ở Thăng Long, mở trường học ở các lộ. Ở các đạo, phủ đều có trường công.
- Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho.
Ý nghĩa: Giáo dục và thi cử phát triển có ý nghĩa rất lớn:
- Là cơ sở đào tạo nhân tài cho đất nước.
- Trình độ dân trí được nâng cao. Số trường học ngày càng tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng do đó tỉ lệ mù chữ ngày càng giảm.
Tình hình:
- Dưới thời Lê sơ nền giáo dục của Đại Việt rất phát triển. Trong vòng một thế kỉ, nhà Lê sơ đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên. “Khoa cử các đời thịnh nhất là đời vua Lê Thánh Tông. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, trong nước không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém”.
- Nhà nước sớm quan tâm đến giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngay sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã cho dựng lại Quốc tử giám ở Thăng Long, mở trường học ở các lộ. Ở các đạo, phủ đều có trường công.
- Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho.
Ý nghĩa: Giáo dục và thi cử phát triển có ý nghĩa rất lớn:
- Là cơ sở đào tạo nhân tài cho đất nước.
- Trình độ dân trí được nâng cao. Số trường học ngày càng tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng do đó tỉ lệ mù chữ ngày càng giảm.
- Tình hình
+ Dưới thời Lê sơ nền giáo dục của Đại Việt rất phát triển. Trong vòng một thế kỉ, nhà Lê sơ đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên. “Khoa cử các đời thịnh nhất là đời vua Lê Thánh Tông. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, trong nước không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém”
+ Nhà nước sớm quan tâm đến giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngay sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã cho dựng lại Quốc tử giám ở Thăng Long, mở trường học ở các lộ. Ở các đạo, phủ đều có trường công
+ Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho
- Ý nghĩa: Giáo dục và thi cử phát triển có ý nghĩa rất lớn
+ Là cơ sở đào tạo nhân tài cho đất nước
+ Trình độ dân trí được nâng cao. Số trường học ngày càng tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng do đó tỉ lệ mù chữ ngày càng giảm
- Liên hệ thời nay: Bạn tự làm nhé
Tham khảo
- Tình hình giáo dục, thi cử thời Lê sơ phát triển, đạt nhiều thành tựu rực rỡ với ý thức đề cao vị trí của một dân tộc "vốn xưng nền văn hiến đã lâu".
- Nhà nước Lê sơ sớm quan tâm đến giáo dục, đào tạo nhân tài. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, các khoa thi được tổ chức đều đặn 3 năm 1 lần ở đại phương cũng như ở kinh đô. Số người đỗ đạt ngày càng nhiều, trình độ dân trí được nâng cao.
- Số trường học tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng.
Tham khảo
1. Tình hình giáo dục và khoa cử
- Vua Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc tử giám ở kinh thành Thăng Long; ở các đạo, phủ đều có trường công, hằng năm mở khoa thi để tuyển chọn quan lại. Đa số dân đều có thể đi học trừ kẻ phạm tội và làm nghề ca hát.
- Nội dung học tập, thi cử là các sách của đạo Nho. Đạo Nho chiếm địa vị độc tôn. Phật giáo, Đạo giáo bị hạn chế.
- Thời Lê sơ (1428 - 1527), tổ chức được 26 khoa thi, lấy đỗ 989 tiến sĩ và 20 trạng nguyên.
Giáo dục thi cử dưới thời Lê Sơ:
- Dưới thời Lê sơ nền giáo dục của Đại Việt rất phát triển. Trong vòng một thế kỉ, nhà Lê sơ đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên.
- Cho dựng lại Quốc tử giám ở Thăng Long, mở trường học ở các lộ. Ở các đạo, phủ đều có trường công.
- Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho.
Giáo dục và thi cử phát triển là cơ sở đào tạo nhân tài cho đất nước. Qua đó, trình độ dân trí được nâng cao. Số trường học ngày càng tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng.
Tham khảo
Giáo dục thi cử dưới thời Lê Sơ:
- Dưới thời Lê sơ nền giáo dục của Đại Việt rất phát triển. Trong vòng một thế kỉ, nhà Lê sơ đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên.
- Cho dựng lại Quốc tử giám ở Thăng Long, mở trường học ở các lộ. Ở các đạo, phủ đều có trường công.
- Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho.
Giáo dục và thi cử phát triển là cơ sở đào tạo nhân tài cho đất nước. Qua đó, trình độ dân trí được nâng cao. Số trường học ngày càng tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng.
Tham khảo:
Tình hình giáo dục và khoa cử:
- Vua Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc tử giám ở kinh thành Thăng Long; ở các đạo, phủ đều có trường công, hằng năm mở khoa thi để tuyển chọn quan lại. Đa số dân đều có thể đi học trừ kẻ phạm tội và làm nghề ca hát.
- Nội dung học tập, thi cử là các sách của đạo Nho. Đạo Nho chiếm địa vị độc tôn. Phật giáo, Đạo giáo bị hạn chế.
- Thời Lê sơ (1428 - 1527), tổ chức được 26 khoa thi, lấy đỗ 989 tiến sĩ và 20 trạng nguyên.
Nhận xét:
- Dưới thời Lê sơ nền giáo dục của Đại Việt rất phát triển. Trong vòng một thế kỉ, nhà Lê sơ đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên.
- Ngay sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã cho dựng lại Quốc tử giám ở Thăng Long, mở trường học ở các lộ. Ở các đạo, phủ đều có trường công.
- Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho.
Giáo dục và thi cử phát triển là cơ sở đào tạo nhân tài cho đất nước. Qua đó, trình độ dân trí được nâng cao. Số trường học ngày càng tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng do đó tỉ lệ mù chữ ngày càng giảm.
Giáo dục và khoa cử:
Vua Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám mở khoa thi.
Nội dung học tập,thi cử là sách của đạo nho.
Nho giáo chiếm địa vị độc tôn.
Khoa cử được tiến hình có quy cử.Nhà Lê tổ chức được 26 khoa thi được tuyển chọn quan lại.
Nhận xét:
Dưới thời Lê Sơ nền giáo dục phát triển rất mạnh mẽ.
Có nhiều tác phẩm đồ sộ độc đáo có giá trị trên các lĩnh vực
Phần mở đầu I. Lý do chọn đề tài Đầu tiên, lý do quan trọng và trực tiếp khiến tôi chọn “Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học quốc ngữ” làm đề tài đó là, đề tài này sẽ giúp tôi rèn luyện khả năng viết tiểu luận và hoàn thành học phần “Thực tập viết tiểu luận”, mà tôi phải học trong quá trình ngồi trên ghế giảng đường. Thứ đến, tìm hiểu đề tài Quá trình ra đời của chữ Quốc ngữ và Văn hóa – văn học quốc ngữ, giúp cho chúng ta có cái nhìn khách quan và chính xác về giá trị của chữ Quốc ngữ và công lao những con người đã sáng tác ra nó. Nói như vậy, sở dĩ trong lịch sử nước ta, đã có thời lên án gay gắt, loại bỏ, bài bác chữ Quốc ngữ. Cho nó là thứ ngôn ngữ của quân đi xâm lược, của bọn thực dân. Nhìn lại quá khứ, nước Việt Nam chúng ta cũng đã sử dụng chữ Hán – thứ ngôn ngữ của quân đi xâm lược, cũng có thời, chúng ta đã loại bỏ chữ Nôm – ngôn ngữ được người Việt Nam chúng ta Việt hóa. Chữ Nôm bị loại bỏ vì trong hệ tư tưởng Nho giáo, nó là loại ngôn ngữ không chính thống, cùng với chữ Nôm, văn học viết bằng chữ Nôm cũng không được coi trọng. Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, chữ Quốc ngữ ra đời, bắt đầu cuộc đấu tranh với chữ Hán và chữ Nôm, khẳng định những ưu điểm tối ưu mà chữ Hán, chữ Nôm không có được. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ đã khẳng định dược chỗ đứng, và kể từ đó một nền văn hóa, văn học quốc ngữ thực sự được mở ra tạo nên thời kỳ phát triển mới của văn học Việt Nam. Tóm lại, tìm hiểu về quá trình ra đời chữ quốc ngữ và nền văn hóa văn học quốc ngữ, nó có thể đáp ứng cho tôi yêu cầu hoàn thành học phần Thực tập viết tiểu luận, ngoài ra, việc tìm hiểu đề tài này còn cung cấp cho tôi những kiến thức bổ ích về ngôn ngữ, lịch sử và về văn học – văn hóa. II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài, Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học quốc ngữ, là đề tài chứa đựng những tư liệu rộng lớn, những kiến thức của đề tài trên đã được hình thành tồn tại, phát triển qua thời gian dài và còn được phát triển mãi về sau. Vì thế, đối tượng nghiên cứu tìm hiểu của đề tài này là : ngôn ngữ, cụ thể là chữ quốc ngữ và nền văn học quốc ngữ. Về phạm vi nghiên cứu, như trên đã nói, đề tài được nghiên cứu bao hàm những vấn đề lớn mà với dung lượng của bài viết này thì không thể đáp ứng được một cách đầy đủ. Do đó, đề tài trên được giới hạn phạm vi nghiên cứu tìm hiểu trong giai đoạn sơ khai của đối tượng nghiên cứu. Tức là, giai đoạn mà những đối tượng nghiên cứu được hình thành và bắt đầu khẳng định được chỗ đứng. III. Ý nghĩa đề tài Tìm hiểu nghiên cứu về sự ra đời và phát triển của chữ quốc ngữ, cùng với hệ quả của nó là nền văn học – văn hóa quốc ngữ được khai sinh cho chúng ta những ý nghĩa bao quát về mặt lý luận cũng như mặt thực tiễn. Về ý nghĩa lý luận, nghiên cứu đề tài trên cho chúng ta những luận cứ, luận điểm khách quan về chữ quốc ngữ và nền văn học quốc ngữ. Những luận điểm luận cứ đó dựa trên những sự thực lịch sử đã được ghi chép của Việt Nam. Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên cứu sự ra đời của chữ quốc ngữ và nền văn hóa – văn học quốc ngữ, cung cấp cho chúng ta những kiến thức bổ ích về nguồn gốc ra đời cùng sự phát triển qua các thời kỳ của tiếng Việt. Ngoài ra, nó còn cho chúng ta một cái nhìn khách quan về sự cống hiến vô vị lợi của các nhà truyền giáo khi sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Qua tìm hiểu đề tài trên, chúng ta còn biết được quá trình đặt nền móng và sự phát triển của nền văn học – văn hóa quốc ngữ. IV. Phương pháp nghiên cứu Để tìm hiểu nghiên cứu được đề tài này, tôi chủ yếu dựa vào các tác phẩm nghiên cứu về chữ quốc ngữ và nền văn học quốc ngữ. Ngoài những tác phẩm đó, tôi còn dựa vào những tư liệu lịch sử đã được ghi chép trong các sách sử học của Việt Nam. Ngoài ra, những kiến thức cá nhân tôi đã lĩnh hội được trong quá trình ngồi trên ghế nhà trường và cả những tri thức đã đọc được trên các trang báo. Những kiến thức đó, tôi đã tổng hợp, vận dụng để làm bài tiểu luận này. V. Lược sử vấn đề Theo giòng phát triển của tiếng Việt cũng như sự phát triển của văn học Việt Nam, chúng gặp thấy rất nhiều công trình nghiên cứu về chữ Quốc ngữ và văn học quốc ngữ. Cụ thể như : Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử giản ước tân biên, tập 3 Văn học hiện đại 1862-1945). Viện Văn học, Sơ Thảo Lịch Sử Văn Học Việt Nam 1930-1945, Thế Phong, Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam Trên đây là những công trình nghiên cứu tổng hợp của một số tác giả tiêu biểu. Từ những công trình nghiên cứu này, chúng ta có thể gặp thấy các vấn đề, đối tượng nghiên cứu của tập tiểu luận.
Vì người việt chưa quen chữ quốc ngữ
chúa trịnh và Nguyễn ngăn cấm các giáo sĩ truyền đạo thiên chúa