Viết bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của mình về tinh thần lạc quan cảu người chiến sĩ cách mạng.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Gợi ý cho em các ý để em viết nhé:
Mở đoạn: Nêu lên vấn đề cần bàn luận: (Ví dụ: Thái độ lạc quan là điều rất quan trọng trong cuộc sống hiện nay...)
Thân đoạn:
Bàn luận:
Nêu khái niệm tình lạc quan là gì?
Vai trò của tình lạc quan:
+ Giúp ta có tinh thần thoải mái, yêu đời hơn
+ Giúp bình tĩnh giải quyết được mọi vấn đề theo hướng tích cực nhất
+ Ta sẽ được mọi người yêu quý hơn
...
Dẫn chứng:
Ví dụ: Lấy dẫn chứng là cơn mưa trong câu đầu của đoạn ngữ liệu.
Bàn luận mở rông:
Trái với thái độ lạc quan là gì?
Bản thân em đã làm gì để thể hiện thái độ lạc quan?
Kết đoạn.
Trình bày 1 lần nữa suy nghĩ của em về thái độ lạc quan.
_mingnguyet.hoc24_
Mở đoạn: Nêu lên vấn đề cần bàn luận: (Ví dụ: Thái độ lạc quan là điều rất quan trọng trong cuộc sống hiện nay...)
Thân đoạn:
Bàn luận:
Nêu khái niệm tình lạc quan là gì?
Vai trò của tình lạc quan:
+ Giúp ta có tinh thần thoải mái, yêu đời hơn
+ Giúp bình tĩnh giải quyết được mọi vấn đề theo hướng tích cực nhất
+ Ta sẽ được mọi người yêu quý hơn
...
Dẫn chứng:
Ví dụ: Lấy dẫn chứng là cơn mưa trong câu đầu của đoạn ngữ liệu.
Bàn luận mở rông:
Trái với thái độ lạc quan là gì?
Bản thân em đã làm gì để thể hiện thái độ lạc quan?
Kết đoạn.
Trình bày 1 lần nữa suy nghĩ của em về thái độ lạc quan.
Tham khảo:
Từ rất lâu tinh thần lạc quan luôn là một tinh thần được các bậc thánh nhân coi trọng và lấy đó làm khuôn khổ đạo đức của các bậc thánh nhân mỗi khi gặp những chuyện bế tắc không tìm được lối thoát. Khi ấy tinh thần lạc quan được coi là liều thuốc tốt nhất để họ có thể quên đi cái hiện tại và luôn hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Chính tinh thần lạc quan ấy đã khiến họ có được những phút giây thanh nhàn không vướng bận bất cứ một việc gì họ luôn tìm thấy ánh sáng trong bóng tối.
Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ cần có tinh thần lạc quan thì bạn đã có được một nửa của thành công. Cuộc sống không bao giờ hoàn hảo hay tuyệt đối gì cả. Sẽ chẳng có thành công nào có được một cách tự nhiên, có người nói rằng họ tin vào may mắn nhưng may mắn sẽ không phải lúc nào cũng đến với họ nhưng cũng không phải lúc nào bạn cũng gặp những khó khăn. Nhưng vấn đề ở đây là bạn phải luôn tạo cho mình một tinh thần lạc quan tin tưởng không sợ bất kỳ khó khăn nào. Đó chính là sức mạnh của tinh thần lạc quan. Chỉ cần bạn luôn có tinh thần phấn đấu luôn nghĩ đến mặt tốt của mọi việc, tích cực trong suy nghĩ thì bạn sẽ biến hóa được cuộc sống theo ý của mình. Có rất nhiều những danh nhân thế giới họ đã vấp ngã nhưng họ đã lạc quan và kết quả của việc đó luôn là thành công đến với họ. Họ đã đúc rút và trong những câu nói mà tôi đã được nghe “người lạc quan luôn tìm thấy ánh sáng trong bóng tối nhưng tại sao người bi quan lại đến và thổi tắt nó đi” hay “hướng về ánh nắng bạn sẽ không nhìn thấy bóng tối”. Khi bạn mắc kẹt vào một vấn đề khó nào đó thì người bi quan luôn nhìn thấy những thất bại những điều không tốt lành và hậu quả hiển nhiên là họ không thể tìm thấy lối thoát và lúc nào cũng trong tâm thế nơm nớp lo sợ và điều tất nhiên là họ sẽ không thể tìm thấy đường thoát và vấn đề sẽ luôn đi theo chiều hướng xấu mà tôi đang nghĩ đến. Trái với người bi quan người lạc quan luôn tin tưởng vào những điều mình đã làm luôn nghĩ đến một tương lai tốt đẹp cho nó và khi khó khăn đến thì họ luôn tìm ra những giải pháp tối ưu nhất.
Nếu nói đến những tấm gương sáng của tinh thần lạc quan thì không hề hiếm. Trước tiên ta phải kể đến đó là tinh thần lạc quan của Hồ Chủ tịch khi mà người bị bắt và giam cầm trong nhà lao của Tưởng Giới Thạch bị lưu đày từ nhà lao này đến nhà lao khác luôn phải sống trong cảnh thiếu thốn đủ điều và cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Thế nhưng ta chưa bao giờ bắt gặp sự bi quan trong con người đó. Bằng chứng là trong hoàn cảnh này Bác vẫn có thể sáng tác ra “Nhật kí trong tù” thể hiện tinh thần rất lạc quan yêu đời của Bác. Hay tinh thần lạc quan mà cả thế giới đều ngưỡng mộ chính là Nick Vujicic là một người không chân không tay nhưng anh có một tinh thần lạc quan vô bờ. Thế nên thành công luôn mỉm cười với anh, anh đi khắp nơi để truyền ngọn lửa của mình cho tất cả mọi người và rất nhiều người đã được anh thắp sáng lên niềm tin và tìm ra con đường cho mình.
Vậy chúng ta có thể hình thành nuôi dưỡng và tôi luyện nó như thế nào? Trước tiên, ta phải chắc chắn rằng mình là người giải quyết tất cả mọi vấn đề chứ không phải là chờ đến ai khác nữa và chúng ta phải luôn tin rằng vấn đề này giải quyết không thành công không hiệu quả thì chắc chắn sẽ có cách giải quyết khác tối ưu hơn. Người có tinh thần lạc quan tin tưởng cũng là người rất thực tế, không tìm mọi cách tránh né khó khăn, cũng không làm ngơ gạt bỏ vấn đề sang một bên như không có gì. Hãy năng giao tiếp với những người có tinh thần lạc quan và tinh thần lạc quan tin tưởng còn được vun trồng bằng cái nhìn tích cực, biết tìm kiếm những điều tốt đẹp, biết đánh giá trị những khả năng, những gì mình có. Trái lại, nếu chỉ bận tâm đến những gì mình muốn được, nhưng không có, thật chẳng khác gì đổ tro tàn trên than nguội. Khi quyết tâm thay đổi lối suy nghĩ từ tiêu cực sang tích cực thì bạn sẽ dễ dàng vượt qua mọi trở ngại. Mọi sự kiện buồn vui trong cuộc sống đều là cơ hội làm thay đổi cách nhìn của chúng ta về những vấn đề thường ngày. Trong môi trường làm việc cần tinh thần sáng tạo cao thì nhà quản trị càng nhận thấy điều ấy rõ hơn ở ngay các nhân viên của mình. Điều đáng nói là thông thường, sau khi một sự cố xảy ra đối với ai đó thì hầu hết xu hướng nhìn nhận vấn đề lại nghiêng về phía bi quan hơn là lạc quan.
Lạc quan là một thái độ sống tích cực cần có ở mỗi người, nhưng nên tránh cách sống “lạc quan chủ nghĩa”: dùng phép thắng lợi tinh thần để ngụy biện cho những điều xấu xa đang diễn ra trong thực tế. Với cách sống như vậy, bạn sẽ rơi vào u mê, chủ quan, thiếu thực tế. Đây là một thái độ sống sai lầm cần tránh để không trở nên thụ động, trì trệ.
Ai cũng cần lạc quan để nuôi dưỡng ước vọng, nỗ lực đạt cho được những thành công trong nghề nghiệp và còn để thoát ra khỏi những mối bận tâm không cần thiết. Chúng ta là những người trẻ hãy tham gia những hành động những diễn đàn về tinh thần lạc quan cho thấy tinh thần lạc quan và quyết tâm của giới trẻ trong việc góp sức vì một xã hội tươi đẹp hơn.
Tham khảo nha !
Trong văn học Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông. Nói đúng ra, trước Nguyễn Đình Chiểu, con người bình thường cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam. Tuy nhiên, đó hoặc là những ngư phủ, tiều phu hình bóng thấp thoáng, khi xa khi gần trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, hoặc là đám đông lố nhố, hằng ngày là cục đất củ khoai, khi cỏ dịp trở nên những “kiêu binh” lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Người nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường, là dân ấp, dân lân, ngoài cật có một manh áo vải. Bản tính lại hiền lành, chất phác, quanh năm suốt tháng côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó. Bên trong lũy tre làng, họ chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ, thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm. Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này, “họ lấm láp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tấm lòng sáng để phát hiện ra họ, nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn võ, họ vẫn để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ”. Đó chính là tấm lòng yêu nước, trọng nghĩa của người nông dân.
Khi nghe tin quân giặc đến, dù là dân thường nhưng những người nông dân vẫn lòng đầy sốt ruột. Trong xã hội xưa, những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan. Dân nghe theo quan mà làm dân. Dân nhìn thấy quan mà theo. Vì thế, họ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa. Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Lòng yêu nước không độc quyền của ai. Huống chi, với những người nông dân chân chất, khi mùi tinh khiết vấy vá đã ba năm thì họ ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Vì thế, dù là dân ấp, dân lân, trong tay chỉ còn một tầm vông, họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ni hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.
Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tự giác đứng lên, không có ai tổ chức (ai đòi, ai bắt), chẳng có binh thư, binh pháp. Còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản, có quy mô, quy củ. Họ thất thế khi xung trận mà ngoài cật có một manh áo vải, trong tay cầm ngọn tầm vông, còn kẻ thù lại có tàu sắt, tàu đồng, đạn nhỏ, đạn to. Song chí căm thù, lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ, liều mình như chẳng có ai. Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó:
Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm trao mộ.
Những nghĩa sĩ nông dân trở thành “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang’’ (Phạm Văn Đồng). Hình tượng người nghĩa sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng. Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng: Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sự gắn bó, lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiếu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng người nghĩa sĩ cần Giuộc thật bi tráng. Hình tượng ấy mang sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo” và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà thơ mù đất Đồng Nai - Gia Định. Những người anh hùng “sống đánh giặc - thác cũng đánh giặc”. Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài ấy “nghìn năm” trong kí ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.