K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 16:  “Tứ đại phát minh” của Trung Quốc thời trung đại là gì?   A.  Lụa, thuốc súng, kĩ thuật in, la bàn.   B.  Lụa, gốm sứ, thuốc súng, kĩ thuật in.   C.  La bàn, thuốc súng, giấy, kĩ thuật in.   D.  La bàn, lụa, gốm sứ, thuốc súng.Câu 17: Giữa thế kỉ XIX, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây, trừ nước                A.  Thái Lan. B....
Đọc tiếp

Câu 16:  “Tứ đại phát minh” của Trung Quốc thời trung đại là gì?

   A.  Lụa, thuốc súng, kĩ thuật in, la bàn.

   B.  Lụa, gốm sứ, thuốc súng, kĩ thuật in.

   C.  La bàn, thuốc súng, giấy, kĩ thuật in.

   D.  La bàn, lụa, gốm sứ, thuốc súng.

Câu 17: Giữa thế kỉ XIX, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây, trừ nước

                A.  Thái Lan. B.  Phi-li-pin.            C. Việt Nam. D. Sing-ga-po.

Câu 18:  Các vương quốc cổ Đông Nam Á ra đời vào khoảng thời gian

   A. thế kỉ IX TCN.                                      B. thế kỉ VII TCN.

   C. 10 thế kỉ đầu công nguyên.                    D. thiên niên kỉ II TCN.

Câu 19:  Ở thời điểm cuối thế kỉ XIX, Vương quốc Lào và Campuchia đều

   A.  bị quân Xiêm xâm chiếm đất đai và thống trị.

   B.  trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.

   C.  là những quốc gia hùng mạnh nhất khu vực.

   D.  bước vào giai đoạn phát triển đỉnh cao.

Câu 20:  Kế sách đóng cọc trên sông Bạch Đằng của Lê Hoàn được kế thừa, vận dụng từ cuộc đấu tranh nào trong lịch sử dân tộc?

   A.  Khởi nghĩa Lý Bí (542).

   B.  Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40).

   C.  Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722).

   D.  Kháng chiến chống quân Nam Hán của Ngô Quyền (938).

Câu 21:  Trung Quốc trở thành quốc gia phong kiến cường thịnh nhất dưới triều đại

   A. nhà Tần.             B.  nhà Hán.               C.   nhà Đường.          D.  nhà Tống.

Câu 22:  Đặc trưng kinh tế của lãnh địa phong kiến là gì?

   A. Chủ yếu là trao đổi buôn bán với bên ngoài.

   B. Chủ yếu sản xuất thủ công nghiệp.

   C. Tự cung tự cấp, khép kín.

   D. Kinh tế hàng hóa, trao đổi buôn bán tự do.

Câu 23:  Nhân vật lịch sử nào được đề cập đến trong câu đố dân gian dưới đây?

“Ai người khởi dựng Tiền Lê

Giữa trong thế sự trăm bề khó khăn?”

   A.   Đinh Tiên Hoàng.           B.   Lê Hoàn.              C. Lý Công Uẩn.       D.   Lý Bí.

Câu 24:  Chế độ phong kiến Trung Quốc được xác lập vào thời

   A. Hạ-Thương.                  B. Minh-Thanh.                                        C. Tống-Nguyên.          D.   Tần-Hán.

Câu 25:   Nguyên nhân nào dẫn đến sự xuất hiện của các thành thị trung đại?

   A. Sản xuất bị đình đốn.                                               B.  Lãnh chúa lập ra các thành thị.

   C.  Sản xuất phát triển.                                                  D.  Nông nô lập ra các thành thị.

4
28 tháng 10 2021

c/ nha

28 tháng 10 2021

C

15 tháng 10 2018

Gốm Việt Nam thời kỳ sơ khai

Với văn hóa Bắc Sơn (thuộc thời kỳ đồ đá mới), bên cạnh những đồ đá được ghè, đẽo, mài, người ta đã tìm thấy những mảnh gốm có niên đại xa xôi như Sũng Sàm, Bó Lúm, Thẩm Hơi… Đồ gốm còn được liên tiếp phát hiện ở các di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ Tĩnh), Mai Pha, Ba Xã (Lạng Sơn), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Bàu Tró (Bình Trị Thiên) trong giai đoạn bắc cầu từ thời đại đá sang thời đại đồng thau.

Gốm Việt thời kỳ đồ đá

Chất liệu gốm đất nung của giai đoạn này thường thô có pha lẫn cát hoặc bã động vật. Người ta thấy các dấu vết khuôn đan trên gốm tìm được ở di chỉ sơ kỳ đá mới Đa Bút (Thanh Hóa), nhưng phần lớn gốm được nặn bằng tay. Mảnh gốm tìm được thường có những hoa văn đơn giản ở phía ngoài như vạch chéo, văn sóng, văn chải răng lược… Các hoa văn này được tạo ra khi đồ gốm còn ướt, một số được tạo bằng các bàn dập, hoặc dùng que nhọn để vẽ, vạch.

Người ta tính rằng, trong một thời gian dài, ít ra cũng từ lúc phát minh ra đồ gốm đến đầu thời đại đồ đồng, đồ gốm chủ yếu được thành hình bằng tay và làm ra nó là phụ nữ. Các nhà khảo cổ học Liên Xô đã đi tới kết luận rằng 90% số đồ gốm nguyên thủy mang dấu vân tay của phụ nữ. Kết luận này không những phù hợp với gốm nguyên thủy Liên Xô mà còn với cùng loại gốm ấy ở nhiều nước khác trên thế giới.

Với kỹ thuật thành hình bằng tay, phần lớn các đồ gốm cổ đều được nung ngoài trời, nhiệt độ nung thường dưới 7000°C. Cho đến nay, nhiều nước châu Á như Lào, Campuchia, Miến Điện, Nam Trung Quốc hay Việt Nam, có nơi vẫn nung gốm ngoài trời theo cách cổ xưa nhất, tuy cách xếp sản phẩm, xếp củi và nguyên liệu cũng khác nhau ít nhiều.

Các sản phẩm chủ yếu của giai đoạn này là đồ đựng và đun nấu, về cuối ta thấy thêm các loại đồ dùng để ăn uống, trang sức, tuy nhiên thực dụng là yếu tố hàng đầu của các loại gốm thời đó.

Gốm Việt thời đại đồ đồng

Việt Nam bước vào thời đại đồ đồng cách đây khoảng bốn ngàn năm. Thời đó, bên cạnh đồ đá đã rất hoàn thiện, tinh vi, các nghề thủ công khác như nghề đúc đồng, nghề dệt, nghề mộc, nghề gốm v.v… đã phát triển, mang tính bản địa rõ nét.

Nền văn hóa có thêm ảnh hưởng từ bên ngoài đến, chủ yếu từ Đông Nam Á. Sau một thời gian hình thành khá dài, đồ gốm đất nung bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ, bước phát triển thứ nhất trong lịch sử gốm Việt Nam. Hầu hết các sản phẩm gốm dân dụng được thành hình bằng bàn xoay một cách khá táo bạo, đã tạo nên sự phong phú của các loại hình và kiểu dáng sản phẩm: ngoài nồi chõ dùng để đun nấu, còn thấy vò, bình, chậu, những sản phẩm để chứa đựng, bát, đĩa, chén, mâm bồng dùng trong ăn uống; hoa tai, chuỗi hạt, vòng tay bằng gốm, đồ trang sức, tượng gà, bò, gốm mỹ thuật. Ngoài ra, còn các đồ dùng trong sản xuất, như đọt xe chỉ, chì lưới đánh cá, bi gốm…

Về trang trí, gốm đất nung chủ yếu các hoa văn hình họa, lấy nét chìm làm phương tiện thể hiện chính. Một số sản phẩm đã được xoa một lớp áo nước đất vàng, đỏ, hoặc lớp đất khác màu, nhưng chưa phải là men. Các hoa văn trang trí và hình dáng sản phẩm gốm có ảnh hưởng đến việc tạo dáng và trang trí trên đồ đồng cùng thời.

Tuy chưa tìm được những lò nung gốm thời kỳ này, nhưng với cách nung già và đẹp, người ta cho rằng những người làm gốm đã biết sử dụng lò khoát hay lò đắp để nung. Những lò này làm bằng đất sét thường, nên sau khi nung, qua một thời gian dài chúng đã bị mưa gió phá hủy.

Thời kỳ đồ sắt

Suốt thời đại đồng thau, qua thời đại đồ sắt, đồ gốm đất nung đã được sản xuất khắp vùng lớn tạm gọi là nước ta thời ấy. Nhiều loại hình và trang trí còn tồn tại đến nay trên sản phẩm gốm đất nung và sành nâu chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nó. Tuy chất liệu gốm đất nung còn non lửa và thô sơ, so với gốm đất nung đang sản xuất hiện nay, nhưng về mặt tạo dáng và trang trí chưa có thời kỳ nào đặc sắc và phong phú bằng. Vì thế khi nhắc đến đồ gốm đất nung thì tiêu biểu vẫn là của thời đại các vua Hùng (thời đại đồng – sắt sớm).

Hiện vật được tìm trong các di chỉ khảo cổ khác nhau, cho thấy nghề gốm vẫn gắn bó với nghề nông, và nam giới bắt đầu đóng vai trò quan trọng trong nhiều khâu sản xuất.

Tuy chưa có những nơi làm gốm tập trung lớn, nhưng bước đầu đã hình thành những làng có nghề gốm phát triển hơn, do điều kiện nguyên liệu, thợ giỏi và giao thông. Những làng này đã dần có được phong cách riêng về tạo dáng và trang trí. Người thợ gốm có vị trí xứng đáng trong xã hội. Các sự tích “Nồi hầu”, “Bà chúa Sành” của Hương Canh (Vĩnh Phú) và Quả Cảm (Hà Bắc) nói lên điều đó.

Gốm Việt trong thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc

Từ đầu thế kỷ II TCN, nước ta rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Một thời kỳ lịch sử mới mở đầu: thời kỳ nhân dân ta không chịu khuất phục, luôn vùng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, thời kỳ rèn luyện cá tính Việt Nam, xây dựng tinh thần tự cường chống lại các sự đồng hóa của phương Bắc. Lực lượng sản xuất vẫn lớn lên ngay dưới sự thống trị của phong kiến nước ngoài.

Trong quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa với Trung Quốc các nước miền biển phía Nam và Ấn Độ, nhân dân ta đã tiếp thu nhiều kỹ thuật mới. Nghề rèn sắt và đúc đồng ngày càng hoàn thiện, các nghề dệt, đan lát, khảm xà cừ, thủy tinh. Nghề gốm tiếp tục phát triển trên vốn kinh nghiệm cổ truyền, có tiếp thu ảnh hưởng của Trung Hoa. Đồ gốm của giai đoạn này chủ yếu được tìm thấy trong các ngôi mộ gạch một vài khu vực có lò nung gốm và nung gạch ngói như ở Thuận Thành (Hà Bắc), Tam Thợ (Thanh Hóa).

Tháng 1 năm 1937, người ta đã phát hiện được các lò nung gốm nằm rải rác trên cánh đồng dọc hai bên đường từ thị xã Thanh Hóa đi Nông Cống, ở Tam Thọ. Ngoài một số lò gốm thời Lý-Trần, đa số là gốm thuộc thời Hán – Lục Triều (TK II – TK VI), có chỗ mang vết tích hai lò nung chồng lên nhau. Các cuộc khai quật của Viện khảo cổ năm 1969-1970 tại Bãi Định (Ninh Thuận – Hà Bắc) đã tìm thấy nhiều lò gốm được phân thành từng cụm bốn lò, giống nhau về kết cấu, khác nhau về kích thước. Những phát hiện cho thấy trong giai đoạn này đã hình thành những khu vực sản xuất gốm khá tập trung và có tính chuyên hóa hơn.

Về chất liệu, ngoài gốm đất nung có truyền thống từ trước nhưng được trang trí đơn giản hơn, đã có sản phẩm gốm được nung ở nhiệt độ cao thành sành nâu và một số sản phẩm được làm từ đất sét trắng, có tráng men màu xanh nhạt, trên thân của gốm sành xốp sẽ phát triển cao vào thời Lý-Trần.

Về sản phẩm, xuất hiện thêm loại gốm kiến trúc như gạch thường, gạch múi bưởi để xây cuốn, ngói ống hình bán viên trụ, đầu ngói ống có tráng men. Gốm minh khí khá phát triển, như mô hình nhà cửa, giếng và đồ dùng. Ngoài ra, còn các tượng động vật nhỏ như lợn, bò với kiểu nặn sơ sài.

Loại hình đồ gốm gia dụng khá phong phú: vò, bình, bát, đĩa, chén, mâm, nồi rang, chõ, đỉnh, đèn, bình hương, ống nhổ…

Về thành hình, phần lớn các sản phẩm gốm đều làm bằng bàn xoay, nhưng một số khác được làm bằng khuôn in và bằng tay sau đó chắp lại.

Ở thời kỳ này có thêm một số sản phẩm, mang phong cách gốm Hán, hoặc kết hợp hoa văn gốm Việt và hoa văn gốm Hán. Các sản phẩm tạo dáng với nhiều thể phụ thêm, các dạng sản phẩm hình ống cũng xuất hiện nhiều hơn, đặc biệt là loại gốm có nhiều tai gắn ở vai, làm thành một sản phẩm nổi bật trong giai đoạn này là “bình Hán”.

Trên mâm gốm bằng đất nung tìm thấy ở Lạch Trường (Thanh Hóa) ta thấy sự có mặt của hoa văn chuỗi hạt (hình tròn có đường tiếp tuyến), một hoa văn tiêu biểu của gốm gò Mun và nghệ thuật đồ đồng Đông Sơn. Giữa lòng mâm khay lại có 3 con cá chụm đầu, một họa tiết không phải gốc Việt.

Nhiều sản phẩm gốm Hán được cải biên theo phong cách Việt như bình con tiện có hai bên thành gắn hoa văn thao thiết (ta thường gọi là hoa văn mặt hổ phù) đời Hán, đã được cải biên thành hình gắn đầu voi, đầu gà, như các bình tìm thấy ở Hà Bắc, Thanh Hóa.

Rõ ràng theo yêu cầu của phong kiến Trung Hoa, người thợ gốm Việt Nam phải làm sản phẩm theo ý họ nhưng qua chất liệu Việt Nam thì hình dáng và phong cách sản phẩm gốm có biến đổi, nên vẫn bảo lưu và phát triển vốn nghệ thuật cổ truyền từ thời đại trước, đồng thời hấp thụ và dân tộc hóa những yếu tố vay mượn từ bên ngoài.

Thời kỳ độc lập: gốm Lý – Trần

Thế kỷ X đánh dấu một bước ngoặt lịch sử: thời kỳ phục hồi độc lập sau hơn mười thế kỷ đô hộ của phong kiến Trung Hoa, mở ra một giai đoạn phục hưng văn hóa dân tộc.

Suốt bốn thế kỷ từ nhà Lý (Thế kỷ XI-XII) sang nhà Trần (Thế kỷ XIII-XIV), đồ gốm đạt được những thành tựu mới rực rỡ, sản xuất hàng loạt gốm sành xốp và gốm sành trắng một cách thành thục, với kỹ thuật và nghệ thuật cao; sử dụng rộng rãi đất sét trắng và cao lanh trắng để làm xương và men, tạo nên những loại gốm mới, bền để sản xuất các loại đồ đựng và đồ gốm kiến trúc; Các loại men màu như men tráng ngà, men ngọc, men nâu được ổn định về mặt công nghệ, do đó có thể sản xuất hàng loạt, và đặc biệt loại men trắng cũng đã xuất hiện.

Men Lý-Trần chủ yếu vẫn là loại men tro và men đất, men đá chưa được sản xuất bao nhiêu. Các loại men này phần lớn thuộc men có độ trong: trắng dày, khi gặp lửa cao thì chảy thành giọt, gọi là ngấn lệ, một số men rạn rất đẹp do xương và men không có cùng độ co. Độ trong của men chính là độ sâu của gốm.

Màu vẽ xuất hiện lần đầu trên gốm hoa nâu Lý-Trần, mặc dầu mới được sử dụng ở dạng tô. Nhưng với men mầu trang trí, yếu tố hội họa ngày càng thâm nhập sâu hơn vào đồ gốm.

Gốm Lý-Trần đã tạo nên sự “chuyển hóa” bước đầu giữa yêu cầu sử dụng với chất liệu. Điều này rất quan trọng, nó phản ánh bước tiến bộ về mặt kỹ thuật và nghệ thuật, phản ánh tư tưởng duy lý trong quá trình sáng tạo đồ gốm và ứng dụng nó vào đời sống một cách tốt đẹp nhất, phù hợp nhất.

Gốm Lý-Trần, ta có thể chia thành ba nhóm lớn: gốm gia dụng, gốm trang trí và gốm kiến trúc.

Về tạo dáng gốm gia dụng, ngoài việc thừa kế và nâng cao dáng gốm đất nung và sành nâu cổ truyền, nhiều sản phẩm được tạo dáng trên cơ sở những hình mẫu trong thiên nhiên như hoa, quả hoặc dáng của những đồ đồng xưa.

Trang trí của gốm Lý-Trần có một bước ngoặt mới. Nếu hoa văn hình học chiếm vị trí chủ yếu và duy nhất trên gốm đất nung và sành nâu thì trên gốm Lý-Trần lại chỉ ở vị trí phụ. Những họa tiết chính ở đây là hoa, lá, chim, voi, hổ, người. Hoa văn trang trí với cách miêu tả giản dị, mộc mạc, rất gần gũi thiên nhiên và con người Việt Nam.

Một điều cần chú ý là trong việc xây dựng hình tượng các hoa văn trang trí, nét chìm được sử dụng làm đường chu vi. Nhưng nét chìm ở gốm Lý-Trần không còn là nét chìm có hai thành giống nhau để cản sáng như trên gốm đất nung, mà đã được ấn “bè” ra, một bên rõ cạnh, một bên biến dần vào sản phẩm, làm chỗ chảy dồn men, tạo nên độ đậm nhạt cho họa tiết như trên gốm men ngọc, hoặc làm giới hạn để tô nâu.

Đặc biệt lò nung, đã có một bước tiến lớn về kỹ thuật. Người ta đã biết sử dụng các loài lò cóc, lò nằm, có thể cả lò rồng, để nâng nhiệt độ nung cho sản phẩm lên cao từ 1200°C đến 1280°C. Việc sử dụng bao nung, mà ngày nay ta còn tìm được ở một cái giếng cổ tại Tức Mạc (Hà Nam, Bắc Ninh), ở vùng phủ Thiên Trường của nhà Trần, cho thấy người thời đó đã đạt được trình độ sản xuất gốm cao cấp, nhất là gốm men ngọc. Kỹ thuật nung chồng bằng con kê (lòng dong) được sử dụng rộng rãi trong các loại sản phẩm như bát, đĩa. Ngoài những lò gốm gắn liền với làng xã nông nghiệp, đã xuất hiện những cụm lò nung ở Thanh Hóa, Hà Nội, Hà Nam, Bắc Ninh, chứng tỏ sự hình thành những vùng gốm có tính tập trung và chuyên nghiệp hơn.

Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, nghệ thuật gốm Việt Nam đã bước vào giai đoạn tổng hợp được ba yếu tố cơ bản tạo nên vẻ đẹp của đồ gốm: là hình dáng, hoa văn trang trí, men màu. Những yếu tố trên, cộng với sự phát triển của kỹ thuật và trình độ thẩm mỹ cao, đã khiến cho người thời Lý-Trần sáng tạo nên ba loại gốm nổi tiếng: gốm men trắng ngà chạm đắp nổi, gốm hoa nâu, gốm men ngọc.

Gốm Việt thời kỳ nhà Lê

Với chiến thắng chống quân Minh năm 1428, nhà Lê ra đời, mở ra một giai đoạn phát triển cao của chế độ phong kiến tập quyền. Về mặt nghệ thuật, giai cấp thống trị có xu hướng đưa mọi hoạt động vào con đường chính thống, với những quy tắc chặt chẽ theo tinh thần của Nho giáo. Nhưng chỉ sau gần một thế kỷ phát triển cực thịnh, nhà nước quân chủ chuyên chế dần dần đi vào cuộc khủng hoảng chu kỳ kéo dài suốt từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Tình hình trên, cộng với sự mở rộng thị trường trong nước và việc giao lưu buôn bán với nước ngoài, đã có tác động lớn đến các hoạt động thủ công nghiệp, trong đó có nghề gốm.

Trước hết là sự hình thành các trung tâm sản xuất gốm tính chất chuyên môn hóa đã nổi tiếng:

Bát Tràng (Hà Nội) sản xuất gốm sành xốp và sành trắng;

Thổ Hà (Hà Bắc) làm gốm sành nâu, như chum, vại;

Phù Lãng (Hà Bắc) làm gốm sành nâu có phủ men da lươn;

Hương Cang (Vĩnh Phú) làm chum, vò vại, chĩnh bằng sành nâu;

Đình Trung, Hiển Lễ (Vĩnh Phú) làm chum, vò vại, chĩnh bằng đất nung;

Vân Đình (Hà Sơn Bình) làm ấm đất nồi đất;

Làng Cậy (Hải Hưng) làm gốm sành xốp và sành trắng hoa lam…

Ở miền Trung, có nhiều cơ sở làm gốm nổi tiếng như Lò Chum ở Hàm Rồng (Thanh Hóa); Mỹ Thiện (Quảng Ngãi) làm nồi bằng đất nung; Lộc Thượng, Phú Vinh (Quảng Nam) làm bát đĩa, nồi niêu; ở Bình Định có một số nơi làm bát đĩa và đồ gốm tráng men.

Người ta thường nhắc đến ba nơi làm gốm nổi tiếng từ đó đến nay: Bát Tràng, Thổ Hà và Phù Lãng. Truyền thuyết xưa nói rằng ba làng này do ba người có nghề gốm giỏi đã chọn ngày tốt lập dàn ở bên sông Hồng làm lễ truyền nghề cho dân làng.

Làng Bát Tràng chuyên làm các hàng sắc trắng (gốm sành trắng); Làng Thổ Hà chuyên làm các loại sắc đỏ (gốm sành nâu); Làng Phù Lãng chuyên làm các loại sắc vàng thẫm (gốm sành nâu có men da lươn).

Các làng gốm lớn đều được dựng ở vùng ven sông để thuận tiện cho việc vận chuyển, sử dụng nguyên vật liệu (đất, than, củi) và thuận tiện cho việc chuyên chở thành phẩm đi các địa phương. Ngoài ra tìm thấy rất nhiều mảnh gốm vỡ trên khu vực thương cảng cổ Vân Đồng.

Con đường gốm: bắt đầu có dấu hiệu xuất khẩu gốm Việt Nam ra nước ngoài

Nhiều nước châu Á, châu Âu, đặc biệt là Nhật Bản và Đông Nam Á đã nhập khẩu gốm Việt Nam với số lượng lớn. Các sản phẩm đó hiện còn đến ngày nay là những hiện vật quý trong các bảo tàng nước họ. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa ra những kết luận mới về con đường biển thông thương giữa các nước từ Nhật Bản, Việt Nam đến các nước Đông Nam Á, gọi con đường này là “con đường gốm”, thay cho tên “con đường tơ lụa và trầm hương” thường được dùng trước đây.

Nhiều sản phẩm gốm được ghi, bằng cách khắc hoặc viết bằng màu men; ngày tháng, nơi sản xuất và người sáng tạo ra nó. Ngày nay, ta biết được tên ba nghệ nhân: Đặng Huyền Thông, Đỗ Xuân Vi, Nguyễn Phong Lai. Trong nhiều trường hợp còn cả tên người đặt hàng và lý do làm sản phẩm đó.

Gốm giao chỉ & hồng An Nam

Theo cuốn Đồ gốm Nhật Bản (La ceramique Japonaise) của Oneda Tokomosouke (Nhà xuất bản La Roux, Paris năm 1873) thì trong thời gian 1596-1873, ở Nhật Bản có nhiều thợ gốm giỏi bắt chước làm theo đồ gốm cổ Việt Nam, mà họ gọi là gốm Giao Chỉ (Kotchi).

Ta có thể kể ra những loại gốm tiêu biểu cho kỹ thuật và nghệ thuật gốm Việt Nam ở giai đoạn này là gốm hoa lam với các loại bát, đĩa chân cao vẽ hoa màu lam phóng khoáng và chất liệu sành trắng khá thành thục. Loại gốm chạm đắp nổi rất tinh tế, như chân đèn, lư hương, kết hợp với vẽ hoa lam, được làm bằng chất liệu sành trắng hoặc phủ men nhiều màu rất đa dạng và hấp dẫn. Các loại chum, vò, vại, lư hương bằng sành nâu hoặc sành nâu phủ men da lươn có trình độ nghệ thuật tinh tế và có bản sắc riêng. Ngoài ra còn có loại gốm vẽ men mà người Nhật Bản xưa kia trong Trà đạo rất ưa chuộng, gọi là “Hồng An Nam”.

Về mặt kỹ thuật, các loại lò rồng cỡ lớn đã được sử dụng khá rộng rãi, nhiệt độ và chế độ nung, điều khiển lửa tiến bộ và chủ động. Loại men tro trấu, tro cây được dùng nhiều. Kỹ thuật vẽ hoa đã đạt tới độ thành thục.

Nghề gốm xuống dốc dần từ thời Nguyễn Gia Long

Nghề gốm xuống dốc dần từ thời Nguyễn Gia Long. Những lò gốm sành trắng nổi tiếng như Bát Tràng phải chuyển qua sản xuất đồ dành xốp hoặc đồ gốm xương đất đỏ, áo đất trắng, phủ men tro không thấu hết thân ngoài hiện vật.

Ở Việt Nam, người ta thường nhắc đến đồ sứ men lam Huế, đôi khi trên sản phẩm có có chữ “nội phủ”. Thực ra, các hiện vật ấy đều được nhập từ Trung Quốc theo đơn đặt hàng của triều đình Huế. Cuối thế kỷ XIX, ở Móng Cái (Quảng Ninh) xuất hiện thêm những cơ sở làm đồ sành nâu và đồ sành trắng, nhưng nguyên liệu phần lớn được chở từ Trung Quốc sang và do người Hoa làm.

Năm 1907, Trường Mỹ nghệ đồ gốm và đúc đồng thành lập ở tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Đồng Nai), và ở đây đã phát triển một loại gốm men lửa trung, thường được gọi là “gốm Biên Hòa”, với hoa văn khá chi tiết và màu sắc phong phú. Loại gốm này được phát triển sang các vùng Sông Bé và nhiều tỉnh phía Nam. Gốm Lái Thiêu (Sông Bé) nổi tiếng với bát sành xốp “con gà”, được bán rộng rãi từ Nam chí Bắc.

Ở miền Bắc đầu thế kỷ XX, một vài cơ sở đã nhập đôi ba thiết bị làm gốm của nước ngoài và nghiên cứu sản xuất đồ sứ, nhưng kết quả không đáng kể.

Từ 1954 đến nay

Có thể nói gốm sứ Việt Nam bước vào sự chuyển mình mạnh mẽ từ năm 1954, khi hòa bình được lập lại trên miền Bắc. Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc khôi phục các cơ sở thủ công truyền thống, như các vùng gốm Bát Tràng, Thổ Hà, Hương Canh, Phù Lãng…, và tiến hành xây dựng nhiều nhà máy và xí nghiệp sản xuất gốm có chất lượng và sản lượng cao.

Nổi bật nhà máy sứ Hải Dương (Hải Hưng), cơ sở sản xuất sứ đầu tiên của cả nước áp dụng kỹ thuật sản xuất hiện đại qua mọi khâu nguyên liệu, thành hình, trang trí, nung… Nhà máy trang trí men cho hàng gia dụng, sản xuất các loại sứ công nghiệp cao cấp, hàng năm đạt sản lượng gần 10 triệu sản phẩm. Tiếp đó là nhà máy sứ Lao Cai (Hoàng Liên Sơn) có công suất nhỏ hơn.

Từ năm 1965, nhiều tỉnh thành đã xây dựng những xí nghiệp sành trắng có sản lượng 5 triệu cái trong một năm như sứ Đường Vòng (Hải Hưng), Sông Hương (Bắc Giang), Ninh Bình, Thanh Hà (Vĩnh Phú)…, cùng với nhiều hợp tác xã gốm lớn như Hợp Thành (Hà Nội), Việt Hưng (Thái Bình), Đông Thành, Ánh Hồng (Quảng Ninh)…

Tính đến 1975, mỗi năm các xí nghiệp gốm ở miền Bắc đã sản xuất khoảng 100 triệu gốm gia dụng, 3,5 triệu sứ điện, 4,3 triệu sành gia dụng và 1,5 triệu gốm mỹ nghệ xuất khẩu.

Sau khi giải phóng hoàn toàn miền nam năm 1975, đồ gốm của cả hai miền Bắc Nam đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp mới. Tính đến năm 1980, sản lượng hàng năm đã đạt 143 triệu sản phẩm gốm gia dụng, 5,6 triệu sành gia dụng và 2 triệu gốm mỹ nghệ xuất khẩu. Đó là chưa kể tới các cơ sở sản xuất nhỏ ở địa phương và gốm đất nung.

Có thể nhận xét khái quát về những đặc điểm phát triển của gốm đất Việt giai đoạn này:

  • Sự hình thành loại chất liệu sứ với các kỹ thuật sản xuất và trang trí hiện đại. Sản phẩm sứ của nhà máy sứ Hải Dương đã được dùng rộng rãi trong nước và xuất khẩu đi nhiều nước, như Liên Xô, Cu Ba, Ba Lan, Mông Cổ…
  • Ở miền Bắc, các xí nghiệp và hợp tác xã sản xuất sành trắng được xây dựng ở hầu khắp các tỉnh thành, phát huy thế mạnh của vùng mình về truyền thống và nguyên liệu. Các tỉnh phía Nam, đặc biệt là Nam Bộ, phát triển loại sành xốp lửa trung và đã tạo được một vùng gốm có phong cách riêng. Các cơ sở sành nâu, đất nung cũng được chú ý ở các địa phương. Chưa bao giờ cả 5 loại chất liệu gốm lại được sản xuất với số lượng lớn và phong phú như hiện nay.
  • Ngành gốm ngày càng được phát triển bởi các cán bộ và công nhân được đào tạo chính quy. Trường đại học Bách khoa Hà nội đầu những năm 60 đã cho ra trường các kỹ sư hóa silicat chuyên về ngành gốm, làm cho đội ngũ kỹ thuật gốm ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên môn.
  • Về mặt nghệ thuật, từ năm 1959 khoa gốm trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội đã mở khóa trung cấp đầu tiên, và từ 1965 đã đào tạo ở trình độ đại học. Có thể nói, lần đầu tiên ngành gốm Việt Nam có hàng trăm họa sỹ chuyên ngành đóng góp sáng tác của mình cho sản phẩm gốm. Từ những năm 1960, lò gốm của trường Mỹ thuật Công nghiệp đã tìm tòi, khôi phục các loại men ngọc, men máu bò cổ truyền, còn tìm thêm ra nhiều loại men mới từ các khoáng chất. Nhà trường đã trở thành một trung tâm đào tạo, một trung tâm nghiên cứu nghệ thuật gốm, cung cấp mẫu cho nhiều cơ sở gốm ở phía Bắc.

Trên đây là những vấn đề chung nhất của nghề gốm và các mốc phát triển của gốm Việt Nam. Những phần sau sẽ đi sâu vào các loại gốm nổi tiếng và những đặc trưng nghệ thuật của từng loại.

Hk tốt

15 tháng 10 2018

Thời kì nào v?

20 tháng 2 2023

A

30 tháng 11 2021

B

21 tháng 3 2023

Trên mấy bơm có các số liệu kĩ thuật sau 220V -800W hãy giải thích các số liệu kĩ thuật trên?

 

Tham Khảo

 

- Trong suốt thời Bắc thuộc, nhân dân ta đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hoá Trung Hoa để phát triển văn hoá dân tộc, như: + Học một số phát minh kỹ thuật của người Trung Quốc. Ví dụ: làm giấy, chế tạo đồ thuỷ tinh,... + Tiếp thu một số lễ tết nhưng đã có sự vận dụng cho phù hợp với văn hóa của người Việt. 
14 tháng 10 2021

Tham khảo:

1.Chúng ta cần học môn vẽ kỹ thuật vì: Bản vẽ kĩ thuật là một phương tiện thông tin dùng trong sản xuất và đời sống, học vẽ kĩ thuật để ứng dụng vào sản xuất và đời sống, tạo điều kiện để học tốt các môn khoa học - kĩ thuật khác.

2.

Bản vẽ kỉ thuật là tài liệu kĩ thuật chủ yếu của sản phẩm

Bản vẽ kĩ thuật trình bày các thông tin kĩ thuật của sản phẩm dưới dạng các hình vẽ và kí hiệu theo qui ước thống nhất và thường vẽ theo tỉ lệ

-Bản vẽ kĩ thuật dùng để chế tạo ra sản phẩm đúng với thiết kế.

14 tháng 10 2021

Chúng ta cần học môn vẽ kỹ thuật vì: Bản vẽ kĩ thuật là một phương tiện thông tin dùng trong sản xuất và đời sống, học vẽ kĩ thuật để ứng dụng vào sản xuất và đời sống, tạo điều kiện để học tốt các môn khoa học - kĩ thuật .

Bản vẽ kỉ thuật là tài liệu kĩ thuật chủ yếu của sản phẩm

-Bản vẽ kĩ thuật dùng để chế tạo ra sản phẩm đúng với thiết kế.
Câu 13: Bốn phát minh quan trong mà Trung Quốc đóng góp cho nền khoa học thế giới làA.Giấy, kĩ thuật in, la bàn, dệt.B. Giấy, kĩ thuật in, đóng thuyền, thuốc súng.C. Giấy, kĩ thuật in, la bàn, thuốc súng.D. Giấy, kĩ thuật in, la bàn, đại bác.Câu 14: Một số nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc thời nhà Đường làA.Tư Mã Thiên, Ngô Thừa Ân, Tào Tuyết Cần.B. La Quán Trung, Thi Lại Am, Tào Tuyết Cần.C. Đỗ Phủ, Lý Bạch,...
Đọc tiếp

Câu 13: Bốn phát minh quan trong mà Trung Quốc đóng góp cho nền khoa học thế giới là

A.Giấy, kĩ thuật in, la bàn, dệt.

B. Giấy, kĩ thuật in, đóng thuyền, thuốc súng.

C. Giấy, kĩ thuật in, la bàn, thuốc súng.

D. Giấy, kĩ thuật in, la bàn, đại bác.

Câu 14: Một số nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc thời nhà Đường là

A.Tư Mã Thiên, Ngô Thừa Ân, Tào Tuyết Cần.

B. La Quán Trung, Thi Lại Am, Tào Tuyết Cần.

C. Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị.

D. Đỗ Phủ, Ngô Thừa Ân, Tào Tuyết Cần.

Câu 15: Người Ấn Độ đã có chữ viết riêng từ rất sớm, phổ biến nhất là

A.chữ Hán B. chữ Phạn C. chữ Ả Rập D. chữ Hin-đu

Câu 16. Vào khoảng thời gian nào chế độ phong kiến Trung Quốc được hình thành?

A. Thế kỷ I TCN                    C. Thế kỷ IV

B. Thế kỷ III TCN                  D. Thế kỷ V

Câu 17: Nhà Đường đã ban hành chế độ ruộng đất nổi tiếng là?

A. Chế độ công điền.     

B.Chế độ quân điền.    

C.Chế độ tịch điền.    

D. Chế độ lĩnh canh

3
15 tháng 11 2021

13.C

15 tháng 11 2021

C

C

D

C

A