Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
– Cải tạo giống: Người ta hay sử dụng phương pháp lai giống kết hợp với thụ tinh nhân tạo, công nghệ phôi.
+ Thụ tinh nhân tạo: Nhằm tạo ra những giống vật nuôi cho năng suất cao nhất, trong thời gian ngắn nhất.
+ Lai giống: lai giữa giống địa phương và các giống nhập ngoại để tạo ra các giống vừa có năng suất cao, vừa thích nghi tốt điều kiện môi trường địa phương
- Ví dụ:
+ Lai lợn ỉ với lợn ngoại tạo giống ỉ lai tăng năng suất thuần (40kg), ỉ lai (100kg).
+ Lai giữa khoai tây trồng với khoai tây dại tạo được 20 giống mới có giá trị, có sức đề kháng cao, năng suât cao.
+ Lai khác loài trong họ cá chép tạo cá chép lai năng suất cao (7 tháng tuổi nặng 3 kg).
Khai thác ảnh hưởng đến môi trường
Ảnh hưởng của khai thác đối với môi trường
Việc khai thác đòi hỏi diện tích rừng lớn phải được giải tỏa để đất có thể được đào bởi các thợ mỏ. Vì lý do này nên việc phá rừng quy mô lớn được yêu cầu phải được thực hiện tại các khu vực khai thác mỏ phải được thực hiện.
Bên cạnh việc làm sạch khu vực khai thác, thảm thực vật ở các khu vực lân cận cũng cần phải được cắt để xây dựng đường xá và các công trình dân cư cho công nhân mỏ. Dân số con người mang theo cùng với các hoạt động khác gây hại cho môi trường. Ví dụ, các hoạt động khác nhau tại các mỏ than phát tán bụi và khí vào không khí. Vì vậy, khai thác mỏ là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm.
Ô nhiễm nguồn nước
Trước đây, các sunphua kim loại bị chôn vùi được phơi nhiễm trong các hoạt động khai thác mỏ. Khi chúng tiếp xúc với oxy trong khí quyển, chúng được chuyển thành axit sulfuric mạnh và các oxit kim loại. Các hợp chất này bị lẫn lộn trong các tuyến đường thủy địa phương và gây ô nhiễm các con sông địa phương với các kim loại nặng. Các hóa chất như thủy ngân, xianua, axit sulfuric, asen và metyl thủy ngân được sử dụng trong các giai đoạn khai thác khác nhau.
Ảnh hưởng của khai thác đối với môi trường
Hầu hết các hóa chất được thải vào các vùng nước gần đó và gây ô nhiễm nguồn nước. Mặc dù các chất thải (đường ống) được sử dụng để xử lý các hóa chất này vào trong các nguồn nước, luôn có khả năng rò rỉ. Khi các hóa chất từ từ thấm qua các lớp đất, chúng tiếp cận với nước ngầm và gây ô nhiễm nó.
Việc giải phóng các hóa chất độc hại vào trong nước rõ ràng là có hại cho hệ thực vật và động vật của các vùng nước. Bên cạnh ô nhiễm, quá trình khai thác cần nước từ các nguồn nước lân cận. Ví dụ, nước được sử dụng để rửa tạp chất từ than đá. Kết quả là hàm lượng nước của sông hoặc hồ mà từ đó nước đang được sử dụng sẽ giảm đi. Các sinh vật trong các khu vực nước này không có đủ nước để sinh tồn.
Nạo vét sông là một phương pháp được hợp khai thác vàng. Trong phương pháp này, sỏi và bùn được hút từ một khu vực cụ thể của dòng sông. Sau khi các mảnh vàng được lọc ra, bùn và sỏi còn lại được thả trở lại sông, mặc dù, tại một địa điểm khác với nơi chúng đã được lấy đi. Điều này làm gián đoạn dòng chảy tự nhiên của dòng sông có thể làm cho cá và các sinh vật khác chết.
Ô nhiễm nguồn nước
Mặc dù các biện pháp được đưa ra để giải phóng chất thải hóa học trong các con sông gần đó thông qua đường ống, một lượng lớn hóa chất vẫn rò rỉ ra ngoài đất. Điều này làm thay đổi thành phần hóa học của đất. Bên cạnh đó, vì các hóa chất độc hại, chúng làm cho đất không phù hợp với cây trồng. Ngoài ra, các sinh vật sống trong đất nhận thấy môi trường ô nhiễm là kẻ thù cho sự sống còn của chúng.
Lây lan bệnh
Đôi khi chất thải lỏng được tạo ra sau khi các kim loại hoặc khoáng chất đã được chiết xuất và được xử lý trong một hố khai thác. Khi hố được lấp đầy bởi các chất thải, chúng trở thành một hồ nước đọng lại. Điều này trở thành nơi sinh sản của các bệnh do nước gây ra, gây ra côn trùng và sinh vật như muỗi phát triển mạnh.
Mất đa dạng sinh học
Các khu rừng được khai thác cho mục đích khai thác là nhà của một số lượng lớn các sinh vật. Việc khai hoang bừa bãi của rừng dẫn đến mất môi trường sống của một số lượng lớn động vật. Điều này đặt sự tồn tại của một số lượng lớn các loài động vật bị đe dọa. Việc cắt giảm các cây là một mối đe dọa lớn đối với một số loài thực vật, cây cối, chim và động vật sống trong rừng.
Ví dụ về tác động môi trường của khai thác mỏ
Môi trường đất cũng bị ảnh hưởng do ô nhiễm
Rừng nhiệt đới là nguồn cung cấp oxy, gỗ và thuốc lớn nhất trên Trái Đất này. Rừng mưa Amazon được biết đến với các mỏ vàng phù sa. Vàng được tìm thấy cả trong các kênh sông và ở bờ sông sau lũ lụt. Kỹ thuật khai thác thủy lực được sử dụng để khai thác vàng.
Phương pháp này liên quan đến nổ mìn ở bờ sông. Điều này đã gây ra thiệt hại cho cây cối, chim và động vật. Trong khi tách trầm tích và thủy ngân khỏi các mỏ trầm tích có năng suất vàng, các thợ mỏ quy mô nhỏ, những người ít trang bị hơn các thợ mỏ công nghiệp, có thể sẽ phóng thích một số thủy ngân xuống sông. Thủy ngân này đi vào chuỗi thức ăn thông qua động vật thủy sinh và động vật ăn thịt của chúng.
Hợp chất có độc tính cao 'xianua' cũng được sử dụng để tách vàng khỏi trầm tích và đá. Mặc dù tất cả các biện pháp phòng ngừa, đôi khi vẫn không thể tránh khỏi bởi môi trường xung quanh chúng cũng bị ô nhiễm. Những người ăn cá có nhiều nguy cơ bị nhiễm chất độc như vậy.
Năm 1995, ở Guyana, hơn bốn tỷ lít nước thải chứa xianua, được chuyển vào một nhánh của Essequibo; khi các đập thải được đổ đầy chất thải xianua, bị sập. Tất cả những con cá trên sông chết, thực vật và động vật đã bị phá hủy hoàn toàn và đất ngập nước bị nhiễm độc nặng, khiến đất đai trở nên vô dụng đối với nông nghiệp.
Tác động môi trường của khai thác mỏ
Nguồn nước uống chính cho người dân địa phương cũng bị ô nhiễm. Đây là một trở ngại lớn cho ngành du lịch sinh thái trên sông. Khi cây bị chặt (làm sạch rừng để xây dựng đường, gỗ cho người di cư, công nhân,...) và nguồn nước bị ô nhiễm, quần thể động vật di cư hoặc chết. Hơn nữa, thợ săn được thuê để nuôi những người làm việc tại các địa điểm khai thác mỏ.
Công viên quốc gia Kahuzi-Biega, Congo, được tuyên bố là 'Di sản thế giới' vào năm 1980 vì sự đa dạng sinh học phong phú của nó. Bảo tồn một số loại động vật và thực vật là mục tiêu đằng sau điều này. Khi hàng ngàn người bắt đầu chiết xuất tantali và cassiterite tại hàng trăm địa điểm trên khắp công viên, hầu hết các loài động vật lớn đã bị giết trong vòng 15-20 năm.
Số lượng khỉ đột của Grauer, loài chỉ được tìm thấy trong khu vực này, giảm đáng kể. Thống kê cho thấy bây giờ, chỉ còn 2-3 nghìn gorilla Grauer còn lại.
Chính phủ Indonesia đã kiện một công ty khai thác vàng đã vứt bỏ chất thải độc hại, chẳng hạn như asen và thủy ngân vào vịnh Buyat. Cá trong vịnh đã bị chết. Người dân ở khu vực xung quanh không còn có thể ăn cá nữa. Họ đã bị các bệnh khác nhau như nhức đầu liên tục, phát ban da, khối u và khó thở.
Động vật cũng bị ảnh hưởng do ô nhiễm
Ảnh hưởng của khai thác môi trường có thể không được hiển nhiên ngay lập tức, chúng thường được nhận thấy sau một vài năm. Mặc dù các nước phát triển có các tiêu chuẩn chặt chẽ về khai thác mỏ, các quy tắc như vậy có thể dễ dàng bị sai lệch ở các nước thiếu giám sát nghiêm ngặt các thủ tục đang được khai thác.
Các hiệu ứng trong những trường hợp như vậy có thể tàn phá môi trường. Có thể là do sự thiếu hiểu biết của các quy định hay chỉ là một tai nạn quái dị, những sự cố như vụ tràn Guyana năm 1995 có thể xảy ra lần nữa. Điều này làm nổi bật thực tế rằng các vấn đề như hiệu ứng khai thác trên môi trường có giá trị một số cân nhắc nghiêm túc.
Tags: ảnh hưởng của khai thác than đến môi trường, ảnh hưởng của khai thác khoáng sản đến môi trường đất, thực trạng ảnh hưởng của khai thác mỏ đến môi trường ở việt nam, ảnh hưởng tiêu cực của con người đến môi trường, hậu quả của việc khai thác tài nguyên khoáng sản bừa bãi, ảnh hưởng của tài nguyên khoáng sản đến kinh tế, biện pháp khắc phục khai thác khoáng sản, khai thác than như thế nào
-Ý nghĩa của việc phát triển mạnh công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm đối với sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long:
-Chế biến, bảo quản khối lượng nông sản lớn.
-Tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp.
-Xuất khẩu nhiều nông sản, ổn định sản xuất.
-Nâng cao đời sống nông dân.
-Góp phần cải thiện kết cấu hạ tầng nông thôn, phục vụ sản xuất nông nghiệp.
-Tạo điều kiện cho hàng hóa nông nghiệp chiếm lỉnh thị trường trong và ngoài nước
Độ phì đất, độ phì nhiêu hay độ màu mỡ là khả năng của đất để duy trì sự phát triển của cây trồng trong nông nghiệp, tức là cung cấp môi trường sống thực vật và mang lại sản lượng bền vững và nhất quán với chất lượng cao. Ở những vùng đất được sử dụng cho nông nghiệp và các hoạt động khác của con người, việc duy trì độ phì nhiêu của đất thường đòi hỏi phải sử dụng các biện pháp bảo tồn đất. Điều này là do xói mòn đất và các hình thức suy thoái đất khác thường dẫn đến sự suy giảm chất lượng liên quan đến một hoặc nhiều khía cạnh được chỉ ra theo các yếu tố hình thành.
Độ phì đất, độ phì nhiêu hay độ màu mỡ là khả năng của đất để duy trì sự phát triển của cây trồng trong nông nghiệp, tức là cung cấp môi trường sống thực vật và mang lại sản lượng bền vững và nhất quán với chất lượng cao. Ở những vùng đất được sử dụng cho nông nghiệp và các hoạt động khác của con người, việc duy trì độ phì nhiêu của đất thường đòi hỏi phải sử dụng các biện pháp bảo tồn đất. Điều này là do xói mòn đất và các hình thức suy thoái đất khác thường dẫn đến sự suy giảm chất lượng liên quan đến một hoặc nhiều khía cạnh được chỉ ra theo các yếu tố hình thành.
mình ko biết