Luyện tập thuyết minh về 1 đồ dùng gần gũi trong cuộc sống của em
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Kính đeo mắt hay còn gọi mà mắt kính, là một đồ vật dể đeo trên mắt, dùng để hỗ trợ mắt hoặc làm việc rất phổ biến trong cuộc sống hàng ngày.
Chiếc kính mắt đầu tiên ra đời ở Ý vào năm 1920 nhimg chỉ gồm hai mắt kính nối với nhau bằng một sợi dây để lên mũi. Năm 1930, một chuyên gia quang học ở Luân Đôn sáng chế ra hai càng (ngày nay gọi là gọng kính) để mắt kính gá vào một cách chắc chắn.
Cấu tạo của chiếc kính đeo gồm hai bộ phận chính là gọng kính và tròng kính Gọng thường được làm bằng nhựa cứng hoặc dẻo, kim loại. Mỗi loại gọng thì có một ưu điểm riêng, gọng kim loại được làm bằng một loại sắt, giúp người đeo cảm thấy cứng cáp và chắc chắn. Gọng nhựa dẻo và bền thì có thể chịu được áp lực lớn mà không bị cong hoặc biến dạng. Còn một loại gọng được làm bằng ti-tan rất nhẹ, có thể bẻ cong mà không gãy. Và dĩ nhiên là giá của các loại gọng đỏ sẽ chênh lệch nhau không ít. Phần cuối gọng kính được bẻ cong để người sử dụng có thể gác lên vành tai. Dù là nhựa hay kim loại thì tất cả các loại gọng đều có rất nhiều màu sắc và kiểu dáng khác nhau tạo nên những vẻ đẹp riêng cho kính, như màu đỏ, đen. tím, vàng, xanh,... và còn trang trí những hình ảnh, hoa văn ngộ nghĩnh như thỏ, mèo,... Gọng kính có một khớp động để mở ra và gập lại dễ dàng. Những thứ quan trọng nhất của chiếc kính đó là tròng kính. Tròng kính được làm bằng thuỷ tinh trong suốt hoặc nhựa cao cấp, ban đầu có hình tròn, vuông và được mài, cắt sao cho vừa khít với gọng mà người dùng lựa chọn. Đối với tròng kính bằng thủy tinh, tuy trong suốt nhưng dễ vỡ. Còn tròng kính bằng nhựa, tuy nhẹ nhưng dề bị trầy nên cần phải lựa chọn loại kính phù hợp với nhu cầu sử dụng của mình. Tròng kính có các loại chống tia cực tím, loại chống trầy xước là loại có cả hai đặc tính trên. Tròng kính được gắn vào gọng nhờ một sợi dây cước trắng và gọng được siết chặt giữ hai tròng kính nhờ hai con đinh vít. Gần hai tròng có hai miếng đệm cao su hoặc nhựa dùng để gác lên hai bên của sống mũi.
Kính đeo mắt thì có nhiều loại: kính thuốc, kính râm, kính thời trang,... tuỳ mỗi lọai sẽ có những công dụng riêng khác nhau. Kính thuốc là kính dùng cho những người bị bệnh về mắt như cận thị, loạn thị,... Muốn sử dụng, người bệnh về mắt phải đi đo thị lực để kiểm tra, từ đó mới có thể chọn kính chính xác, không gây ra tác tác dụng phụ như nhức đầu, buồn nôn, chóng mặt,... Kính thời trang là vật trang điểm, tạo dáng cho mắt và khuôn mặt. Còn kính râm là kính để bảo vệ mắt khi đi ngoài trời. Nhưng nhìn chung, các loại kính đều giúp hỗ trợ cho mắt tốt hơn, làm đẹp cho mắt, đối với học sinh thì nó giúp đỡ trong việc học tập tốt hơn,...
Lúc sử dụng kính, nên nhẹ nhàng mở bằng hai tay, dùng xong nên lau sạch ròng kính bằng khăn mềm, mịn, cất kính vào hộp. để ở nơi cố định, dễ tìm như trong ngăn tủ, ngăn bàn, mặt bàn,...tránh các vật nặng đè vỡ hoặc làm trầy xước mắt kính. Thường xuyên rửa kính bằng nước, lau sạch tròng kính bằng khăn chuyên dùng. Để mắt kính không bị biến dạng, khi đeo và tháo kính nên dùng hai cầm gọng kính. Đối với gọng kính kim loại, nên thường xuyên kiếm tra, vặn chặt các ốc vít để giữ chặt tròng kính. Phải dùng kính đúng độ thì thị lực sẽ không bị tăng cao.
Chiếc kính đeo mắt rất có ích, nó giúp ta nhìn sự vật một cách chính xác, tạo điều kiện cho mọi người lao động và học tập tốt hơn. Việc giữ gìn để có đôi mắt trong sáng và tinh tường đồng nghĩa với bảo vệ cuộc sống của chính bản thân mình.
Bức tranh thôn quê Việt Nam là một bức tranh tràn ngập sắc màu rực rỡ nhưng cũng rất yên bình, ở đó chứa đựng mơ ước của người nông dân, có cây đa, giếng nước, mái đình, con trâu,... nhưng gần gũi với mỗi gia đình nhất có lẽ là đàn gà chạy rộn rã trước sân nhà.
Đối với người nông dân Việt Nam thì gà nhà luôn là con vật gần gũi và thân thuộc nhất trong số rất nhiều các loài gà khác nhau. Gà là vật nuôi quan trọng nhất của con người để lấy thịt và trứng. Đặc điểm chung của gà là cánh tròn, ngắn, toàn thân phủ lông. Để thích nghi với cuộc sống bới đất tìm mồi, từ thuở xưa, gà đã được tạo hóa ban cho một đôi chân to móng cùn và cứng, phủ vẩy sừng mỏng màu vàng và còn một cái mỏ ngắn khỏe nữa. Không phải từ thuở ban đầu gà sinh ra đã là gã nhà mà tổ tiên của chúng là gà rừng đã trải qua thuần hóa liên chúng không có khả năng bay lượn. Đại đa số thời gian chúng dùng chân nâng đỡ cơ thể đi lại trên mặt đất. Vì vậy, cơ hồng của gà đa số tập trung ở chân, cơ ngực và các bộ phận khác lại là cơ trắng.
Các em thiếu nhi vẫn có bài hát rất dễ thương về loài động vật này: Gà không biết gáy là mẹ gà con. Gà mà không gáy là vợ gà cha. Đi lang thang trong sân có con gà có con gà”. Chỉ mấy câu hát đơn giản như vậy thôi đã cho ta thấy một gia đình gà. Gà trống được coi là gà bố, đúng như một ông bố có dáng bệ vệ, chân có cựa sắc, bộ lông óng mượt rực rỡ, nổi bật bởi bông hoa đỏ rực trên đầu mà người ta vẫn gọi là mào gà. Gà trống có tiếng gáy âm vang, từ lâu đã được coi như là đồng hồ báo thức của người nông dân. Gà mái hay là gà mẹ, cũng giống với một người mẹ, hiền lành và có dáng vẻ chậm chạp hơn, bộ lông không săc sỡ .như gà trống. Nhưng bù lại, với “thiên chức” của một người mẹ, gà mái có khả năng ấp trứng và nở ra những chú gà con rất đáng yêu: Gà mái đẻ mỗi lứa từ 10 đến 20 trứng. Đa số gà mái sau khi đẻ trứng thường kêụ “cục tác”. Đó là biểu hiện sự hưng phấn của gà mái, hay có thể nói đó là niềm vui của gà mẹ, một “người mẹ” có tình mẫu tử mãnh liệt. Gà con vừa chui ra khỏi vỏ trứng giống như một nắm nhung có sự sống, bé nhỏ trong bộ lông vàng tơ óng mượt. Gà con mới nở có thể theo mẹ đi kiếm mồi ngay.
Đốì với gà thì hạt thóc hạt mạch... có thể được coi là sơn hào hải vị của chúng. Nhưng cho dù được ăn những thứ đó hàng ngày thì chúng vẫn thích mổ đông bới tây, đề tìm ăn những hạt sỏi, hạt cát. Thật ra vì không có răng nên gà cần dựa vào thứ khác để nghiền thức ăn và chúng đã lợi dụng sỏi để tiêu hóa thức ãn. Thịt gà và trứng gà là những thức ăn bổ dưỡng rất tốt cho con người.
Không những từ xưa mà đến bây giờ vẫn vậy và không chỉ đối với người nông dân mà đối với hết thảy mọi người dân Việt Nam, con gà đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá ẩm thực. Có thể nói, con gà đã đi vào tín ngưỡng, vào đời sống tâm linh văn hóa của người dân Việt Nam. Nó là một trong mười hai con giáp, vẫn được gọi bằng cái tên thân mật là “Dậu”. Con “Dậu” là tượng trưng cho một tuổi đời. Ai đã từng đến Việt Nam, từng tìm hiểu và yêu nền văn hóa dân tộc Việt thì chắc hẳn không thể nào quên được những bức tranh Đông Hồ đậm đà bản sắc Việt với hình ảnh phong phú về thể loại, màu sắc cách điệu nhưng cũng giản dị vô cùng, nổi bật với những bức tranh như: “Vinh hoa”, “Gà trống hoa hồng”, “Gà dạ xương”... Dưới con mắt của người Việt Nam, con gà đáng trân trọng và thân thương như vậy đó. Từ lâu đã thành lệ, con gà là thứ không thể thiếu trong bất kì lễ tết truyền thống hay ngày cúng giỗ nào của người Việt Nam. Đêm giao thừa, vào giờ khắc chuyển giao, nhà nhà lại cùng nhau bày một mâm cỗ đặt trước cửa nhà để cầu mong tốt lành, hạnh phúc cho năm mới. Lẽ dĩ nhiên, mâm cỗ không thể thiếu con gà. Con gà luộc được đặt trong một,cái đĩa lớn đặt giữa mâm, miệng ngậm một bông hồng. Đó là tượng trưng cho sự an lành, may mắn mà nhà nhà đều mong đợi. Tự nhiên như thế, con gà trống như linh vật của người dân Việt Nam, tượng trưng cho sự may mắn yên bình, hạnh phúc, luôn luôn rất linh thiêng đối với nhân dân.Con gà còn đi vào văn học, vào ca dao, tục ngữ của dân tộc. Có câu chỉ nói đến kinh nghiệm trong văn hóa ẩm thực như: “Con gà cục tác lá chanh” nhưng có câu còn để răn dạy con người như:
Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Gần đây, dịch cúm gà hoành hành đã làm cho bữa cơm Việt Nam thưa vắng món thịt gà. Người ta cảm thấy thiếu thiếu một cái gì đó, nhất là mỗi độ Tết đến.
Con gà là biểu tượng sự sống, của hi vọng, an lành đối với người dân Việt Nam. Mong rằng nạn dịch cúm sẽ nhanh chóng được đẩy lùi để con gà lại được hồi sinh, lại trở về bên người nông dân, trở về với bữa-cơm thường ngày và luôn gần gũi gắn bó với người dân Việt.
https://kenhtracnghiem.com/thuyet-minh-ve-mot-loai-vat-nuoi-bai-tap-lam-van-1-lop-9
Không chép mạng thì tự làm đi em, lên đây hỏi xong bảo người ta không chép mạng rồi người ta cho chép mạng thì khác gì nhau đâu
4.Dàn ý:
A.MB: Là đồ dùng thân thuộc với người dân VN
B.TB:
1.Nguồn gốc, xuất xứ:
_Làng làm nón nổi tiếng: làng Chuông (Thanh Oai- Hà Nội; Huế; Quảng Bình;....)
_Sản phẩm của ngành thủ công nghiệp, nhờ vào bàn tay khéo léo của con người.
2.Đặc điểm, cấu tạo:
_Hình dáng: hình chóp
_Các bộ phận:
+Vành nón (làm từ nan che được vót nhẵn với những đường kính khác nhau).
+Quai nón ( vải, dây, khăn mùi xoa)
+Nhôi (len đan vào ở 2 bên ở trong nón)
+Chủm nón (chỉ, cước khâu)
_Nguyên liệu làm nón:
+nan tre
+lá nón
+cước
+len, chỉ
+tranh, ảnh nhỏ ( trang trí bên trong nón)
+quang dầu
_Cách làm:
+Tạo khung chắc chắn
+chọn, khâu lá vào khung nan, tranh, ảnh ở mặt trong nón.
+làm nôi nón
3.Công dụng:
_Che nắng, che mưa.
_Quảng bá du lịch (nón Huế)
_Biểu diễn văn nghệ (nón quai thao hát quan họ)
_Quạt mát, đựng
4.Bảo quản và sử dụng:
_Dùng khi đi làm đồng,...
_Khi khong sử dụng treo nón không để nón bị gãy vành, vỡ chủm nón.
_Không để nón ẩm ướt
_Thường xuyên vệ sinh quai nón( giặt, thay)
_Bảo vệ = cách khâu 1 lớp ni lông ra ngoài.
C.KB:
Là vật dụng thân thuộc những vẫn mang đậm nét văn hóa, bản sắc VN
Đối với các bạn học sinh, người bạn hàng ngày đến trường với mỗi người là thước kẻ, bút chì, sách vở,… nhưng cũng không thể nào thiếu được người bạn giúp chúng ta tẩy xóa lỗi sai chính là cục tẩy. Cục tẩy bé xinh mà có nguồn gốc ra đời vô cùng lâu đời và có nhiều công dụng đối với con người.
Cục tẩy đầu tiên ra đời cách đây đã hàng trăm năm trước, khi ấy bút chì còn được làm bằng chì và thiếc, rất cứng, người ta dùng ruột bánh mì để tẩy những chữ viết sai. Cùng với sự phát triển của bút chì, cục tẩy cũng có bước chuyển mình đáng kể. Người đầu tiên phát minh ra cục tẩy gần với cục tẩy hiện đại là một kĩ sư người anh tên là Edward Nairne, cục tẩy được phát minh trong một cuộc thi sáng chế, sau đó nó được sử dụng một cách rộng rãi và phổ biến trên thị trường.
Sau khi đạt giải ông Edward đã tâm sự, ông nảy ra ý tưởng làm chiếc tẩy này là do trên đường ông nhặt được miếng cao su và vô tình phát hiện ra tính năng tẩy các vết bẩn của nó. Dựa trên sự phát hiện đó ông đã sáng chế ra cục tẩy đầu tiên. Ta có thể thấy rằng những phát minh vĩ đại luôn đến với chúng ta một cách thật bất ngờ, người thông minh là người nhìn nhận ra vấn đề và đưa nó ứng dụng vào thực tế.
Cục tẩy có cấu tạo gồm hai phần: tẩy và vỏ tẩy. Vỏ của tẩy thường được làm bằng giấy cứng, trên có ghi mã vạch, nhãn hiệu hoặc có được trang trí bằng những hình ảnh bắt mắt khác nhau. Ruột tẩy rất đa dạng, phong phú về màu sắc: trắng, đen, xanh, đỏ,… thường được làm từ hỗn hợp dầu ăn, đá bọt và sulfur, chúng được kết dính với nhau nhờ cao su.
Có rất nhiều loại tẩy khác nhau. Có loại tẩy đi kèm với bút chì, chúng thường được gắn với đầu bút chì, khi viết sai có thể ngay lập tức sử dụng chúng để tẩy. Loại tẩy này thường có màu hồng, chứa cao su cứng nên việc tẩy đôi khi khó khăn, tẩy quá mạnh tay sẽ rách giấy nên ít khi được sử dụng.
Loại tẩy màu trắng dẻo, được làm từ nhựa vinyl tẩy dễ dàng, giấy sạch nên được ưa chuộng hơn. Ngoài ra còn một loại tẩy khác được gọi là tẩy nhào. Tẩy nhào ít xuất hiện trên thị trường, loại này mềm hơn hai loại trên rất nhiều, chúng ta có thể nhào trong tay như cục bột. Nó hấp thụ các hạt than chì ở bút chì nên khi tẩy sẽ không để lại vụn,… sử dụng loại tẩy này rất thích, vết bẩn được tẩy hoàn toàn, lại không gây bụi bẩn.
Ngoài ra, khoa học kĩ thuật hiện đại phát triển người ta còn phát minh ra tẩy điện, loại này có một chiếc nút bấm, khi cần tẩy chỉ cần ấn vào nút và đưa bút đến diện tích cần tẩy là sẽ xóa được hết vết bẩn. Loại này giá thành cao nhưng vết bẩn đi dễ dàng, giấy không bị xây xước và tiết kiệm được thời gian cho người sử dụng.
Sử dụng tẩy rất đơn giản, ngoài loại tẩy điện có cách sử dụng riêng thì các loại tẩy còn lại đều có cách sử dụng giống nhau. Khi viết sai chúng ta chỉ cần mài tẩy vào phần đó, chà đi chà lại một cách nhẹ nhàng là vết bẩn sẽ bay đi. Các bạn lưu ý, chớ chà mạnh sẽ khiến giấy rách.
Khi sử dụng xong tẩy chúng ta chỉ cần cất gọn gàng. Tránh để tẩy rơi xuống đất, khi tẩy bị bám bẩn các bạn dùng cho lần tiếp theo sẽ vấy bẩn lên trang giấy. Vật dụng nào cũng vậy, khi sử dụng xong chúng ta cần cất cẩn thận, thì mới có thể dụng chúng lâu dài được.
Tẩy là một công cụ phổ biến trong học tập của học sinh, sinh viên, người thiết kế,… nó có ý nghĩa quan trọng với mỗi người. Cục tẩy giúp ta xóa đi những phần viết sai, viết nhầm,..
Từ khi được phát minh cho đến bây giờ tẩy luôn được mọi người ưa chuộng. Dù khoa học kĩ thuật có phát triển hơn nữa, tẩy vẫn sẽ là người bạn đồng hành với các bạn học sinh, sinh viên, kĩ sư,…
Đáp án
Viết bài văn thuyết minh về một đồ dùng học tập. Yêu cầu: biết dùng từ, đặt câu, viết văn lưu loát. HS có thể lựa chọn những đồ dùng khác nhau như phấn, bảng, bút...Về cơ bản, phải nêu được các nội dung sau:
a. Mở bài (0.5đ)
- Giới thiệu đồ dùng học tập.
b. Thân bài (9đ)
- Nguồn gốc của đồ dùng học tập đó: Có từ bao giờ? Bắt nguồn từ quốc gia nào? Do ai chế tạo ra? (1đ)
- Chất liệu: Đồ dùng học tập đó được làm bằng chất liệu gì? Đó là chất liệu thế nào? Vì sao lại làm bằng chất liệu đó? (1đ)
- Cấu tạo của đồ dùng học tập: đồ dùng gồm những bộ phận nào? Cấu tạo chung của đồ dùng và cấu tạo riêng của từng bộ phận ra sao? (2đ)
- Công dụng: đồ dùng đó dùng để làm gì? (1đ)
- Phân loại: Sản phẩm của đồ dùng có đa dạng không? (ví dụ bút:có bút bi, bút chì, bút máy...) (1đ)
- Quy trình sản xuất đồ dùng học tập đó (1đ)
- Cách sử dụng đồ dùng (1đ)
- Cách bảo quản đồ dùng (1đ)
c. Kết bài (0.5đ)
- Khẳng định vai trò của đồ dùng học tập đối với việc học của em.
“Rừng vàng biển bạc” là câu tục ngữ mà cha ông ta dùng để ca ngợi sự giàu có của thiên nhiên. Rừng có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của mỗi chúng ta. Bởi vậy bảo vệ rừng chính là chúng ta đang bảo vệ, giữ gìn lấy cuộc sống của mình.
Rừng ở đây được hiểu là một quần thể cây cối sinh sống, nảy nở trên một vùng đất rộng lớn, cao hơn so với đồng bằng. Rừng được trồng nhiều loại cây, có thể cây lấy gỗ hoặc cây che bóng mát. Ở Việt Nam, diện tích đồi núi chiếm ¾ so với mặt bằng chung, vì vậy có thể nói nước ta rất đa dạng và phong phú về nguồn tài nguyên rừng.
Chứng minh rằng bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta
Rừng vẫn được xem là nguồn tài nguyên thiên nhiên lưu trữ một lượng gỗ lớn của đất nước cũng như giúp ngăn ngừa các hiện tượng của tự nhiên như thiên tai, bão lũ, sạt lở đất, cát lấn.
Hằng ngày chúng ta hít vào khí O2 và thải ra khí CO2. Và nơi cung cấp khí O2 chính là cây xanh. Cây xanh giúp lọc khí bẩn, điều hòa môi trường, mang lại sự trong lành cho con người. Bởi vậy mới có câu nói “Rừng là lá phổi xanh của nhân loại”. Đúng vậy khu rừng có màu xanh để điểu hòa, thanh lọc không khí độc hại, giúp đảm bảo sức khỏe của con người không bị suy giảm.
Rừng được tạo nên từ cây, hàng nghìn, hàng vạn cây mọc san sát nhau. Lượng khí O2 mà rừng cung cấp hằng năm nhiều khi chưa đủ cho loài người. Tuy nhiên khi rừng vẫn được bảo vệ thì cuộc sống con người vẫn được bảo vệ.
Thực trạng thiên tai hằng năm diễn ra ở nước ta rất nhiều như bão lũ, sạt lở đất, cát lấn. Nếu không có hệ thống rừng phòng hộ, rừng ngập mặn được chăm sóc hằng năm thì liệu rằng con số thiệt hại do thiên tai mang đến không dừng lại ở mức đã thống kê. Nhờ có rừng mà ngăn chặn được dòng nước lũ, ngăn chặn cát xâm chiếm đồng bằng. Có thể nói rừng chính là bùa hộ mệnh, giúp cho đời sống con người luôn được bình an.
Hằng năm, lượng gỗ mà rừng cung cấp không đếm hết. Sản lượng gỗ quý ngày càng gia tăng, giúp tạo ra nhiều sản phẩm mỹ nghệ, điêu khắc tinh xảo, tuyệt đẹp. Hơn hết rừng còn là nơi trú ngụ, sinh sống của các loài động vật hoang dã. Chúng xem rừng chính là ngôi nhà bình yên nhất,
Rừng có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống mỗi người nhưng hiện nay tình trạng rừng xuống cấp, cháy rừng, đốt rừng làm nương rẫy, phá rừng đang diễn ra ngày càng trầm trọng. Chính những hành động này đã dẫn đến việc rừng bị suy thoái. Có thể rất nhiều người không lường trước được hậu quả nặng nề khi phá rừng bừa bãi như vậy.
Trái đất đang ngày càng nóng lên, băng tan ra, cát tặc xâm lấn đã gây ra bao nhiêu bất an cho con người. Nếu như ý thức của người dân về bảo vệ rừng không được nâng cao thì chắc chắn sẽ còn nhiều thiệt hại lớn hơn nữa.
Vào mùa khô, tình trạng cháy rừng diễn ra tràn lan khiến cho tài nguyên gỗ bị mất đi rất nhiều, dẫn đến hiện tượng xói mòn đất, phủ xanh đồi trọc đang dần bị mất đi. Bởi vậy ý thức của mỗi người về bảo vệ rừng cần thiết phải được nâng cao. Đó cũng chính là trách nhiệm của chúng ta, để bảo vệ chính chúng ta.
Như vậy, bảo vệ rừng, xây dựng và phát rừng hiện nay đang là một bài toán cấp bách cho các cơ quan chức năng cũng như của người dân đang rất nan giải. Mỗi người cần thiết phải xây dựng cho mình ý thức bảo vệ rừng, cũng như là đang bảo vệ chính cuộc sống của mình
Tham Khảo (dàn ý)
I. Mở bài: giới thiệu mắt kính
- Chiếc kính đeo mắt là một vật dụng có vai trò quan trọng trong cuộc sổng của chúng ta ngày nay.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc
- Mắt kính ra đời đầu tiên ở Ý và vào năm 1620..
- Qua nhiều năm thì mắt kính được cải tiến và sử dụng rộng rãi
- Năm 1877 chiếc kính áp tròng đầu tiên được ra đời.
2. Cấu tạo: 2 bộ phận
- Mắt kính: tùy vào công dụng mà sử dụng các mắt kính khác nhau. Mắt kính được làm từ thủy tinh hoặc nhựa
+ Mắt kính thủy tinh: mắt kính này trong suốt nhwung có nhược điểm là dễ vỡ
+ Mắt kính nhựa: mắt kính này có ưu điểm là nhẹ nhưng nhược điểm là dễ xước
- Gọng kính: gọng kính cũng có 2 loại là gọng nhựa và gọng kim loại
+ Gọng kim loại: gọng này dược làm bằng sắt, đeo cảm thấy cứng cáp và khó chịu
+ Gọng nhựa: gọng nhựa rất dẻo bền và chịu được áp lực khi bị tác động.
3. Công dụng của mắt kính
- Kính thuốc: kính dùng cho người có bệnh về mắt như kính cận, kính loạn, kính lão,….
- Kính lão bảo vệ mắt khi đọc sách hay làm việc lâu bên máy tính;
- Kính râm là kính bảo vệ mắt khi đi ngoài trời.
- Kính thời trang là vật trang điểm, tạo dáng cho mắt và khuôn mặt.
4. Cách sử dụng và bảo quản
- Lúc sử dụng kính, nên nhẹ nhàng mở bàng hai tay, dùng xong nên lau sạch tròng kính bằng khăn mềm, mịn, cất kính vào hộp, đế ở nơi cố định, dễ tìm như trong ngăn tủ, ngăn bàn, mặt bàn,... tránh các vật nặng đè vỡ hoặc làm trầy xước mặt kính.
- Thường xuyên rửa kính bằng nước, lau sạch tròng kính bằng khăn chuyên dùng.
- Để mắt kính không bị biến dạng, khi đeo và tháo kính nên dùng hai tay cầm gọng kính.
- Phải dùng kính đúng độ thi thị lực sẽ không bị tăng cao.
III. Kết bài:
- Khẳng định vai trò quan trọng của mắt kính và nêu cảm nghĩ của em.