em hiểu thế nào là chủ nghĩa phát xít. hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1919-1933 để lại cho các nước tư bản là gì?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
-Một số nước như Mỹ, Pháp, Anh,.. cố gắng cải cách kinh tế, văn hóa, xã hội để vượt qua khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Một số khác như Đức, Nhật Bản,... phát xít hóa chế độ thống trị.
-Hệ quả: Một số nước như Mỹ, Pháp, Anh,.. phát triển trở lại thành nước đế quốc tư bản chủ nghĩa. Một số khác như Đức, Nhật Bản,...
trở thành các nước đế quốc quân phiệt. Các nước quân phiệt luôn bành trướng chiếm các nước thuộc địa của các nước đế quốc tư bản chủ nghĩa để chuẩn bị gây chiến tranh, chia lạ thế giới.
Đáp án A
Cuộc khủng hoảng kinh tế đã tác động xấu đến tất cả các giai cấp và tầng lớp:
- Nông dân phải chịu cảnh thuế cao, vay nợ nặng lãi, nông phẩm phải bán với giá thấp.
- Thợ thủ công bị thất nghiệp, viên chức bị sa thải
- Số đông tư sản dân tộc gặp khó khăn trong kinh doanh.
Năm 1929. cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ trong thế giới tư bản chủ nghĩa và kéo dài đến năm 1933 mới chấm dứt.
Đây là cuộc khủng hoảng “thừa” do sản xuất ồ ạt, chạy đua theo lợi nhuận trong những năm 1924 - 1929. dẫn đến tình trạng hàng hóa ế thừa trong khi người lao động không có tiền mua.
Khủng hoảng kinh tế đã tàn phá nặng nề nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa. Mức sản xuất bị đẩy lùi lại hàng chục năm. Hàng trăm triệu người (công nhân, nông dân và gia đình họ) rơi vào tình trạng đói khổ.
Một số nước tư bản châu Âu như Anh, Pháp... tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những chính sách cải cách kinh tế - xã hội. Trong khi đó, các nước Đức, I-ta-li-a (và Nhật Bản ở châu Á) đã phát xít hóa chế độ thống trị và phát động cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới.
Khủng hoảng kinh tế tàn phá nghiêm trọng nước Đức. Để đối phó lại khủng hoảng kinh tế và phong trào cách mạng ngày càng dâng cao, giai cấp tư sản cầm quyền quyết định đưa Hít-le - thủ lĩnh Đảng Quốc xã Đức, lên nắm chính quyền, Đảng Cộng sản Đức đã kiên quyết đấu tranh nhưng không ngăn cản được quá trình ấy. Ngày 30 - 1 - 1933, Hít-le lên làm Thủ tướng và ngay sau đó đã biến nước Đức thành một lò lửa chiến tranh.
* Hậu quả :
- Tàn phá nặng nề nền kinh tế của thế giới và Châu Âu
-Hàng năm giải quyết triệu người chết đói
* Giải pháp giải quyết hậu quả khủng hoảng :
- Anh, Pháp cải cách kinh tế xã hội, đổi mới quản lí và sản xuất
- Đức. I-ta-li -a tìm kiếm lối thoát bằng hình thức mới,thiết lập chế độ độc tài phát -xít
- Gây chiến tranh và chia lại thế giới.
Tring cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933, một số nước TB như Đức, Nhật, Italia.. tiến hành phát xít hóa bộ máy nhà nước là do:
-thuộc địa từ trước vốn đã ít, sau CTTG1 thì lại càng ít hơn vì phải cắt đất, nhường thuộc địa..
-nền kinh tế bị tàn phá về mọi
-mất một khoản tiền khổng lồ để bồi thường chiến phí cho các nước thắng trận
-sau khi bồi thường một khoản chiến phí khổng lồ thì các nước tư bản thua trận cần tiền để phục hồi lại nền kinh tế
Nguyên nhân: Xảy ra do các nước tư bản chạy theo lợi nhuận, sản xuất hàng hóa ồ ạt.Trong khi đó sức mua giản sút vì quần chúng quá nghèo khổ.
Đây là cuộc khủng hoảng thừa.Trái ngược với cuộc khủng hoảng 1919-1924_là cuộc khủng hoảng thiếu.
Cuộc khủng hoảng đã phản ánh đúng mâu thuẫn sâu sắc trong nội bộ phe đế quốc cũng như những căn bệnh của CNTB. Những điều mà hệ thống Véc-xai_Oa-sinh-tơn không thể giải quyết nổi
Diễn biến: Cuộc khủng hoảng từ Mĩ nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới. Gây nên hậu quả khủng khiếp ở nhiều nước. Từ kinh tế, cuộc đại khủng hoảng lan sang lĩnh vực chính trị. Hàng ngàn cuộc biểu tình, đấu tranh đã diễn ra, nhất là ở các nước TB. Đời sống nhân dân hết sức khổ cực, các tầng lớp nhân dân điêu đứng.
Hậu quả: Chính từ cuộc đại khủng hoảng này mà chủ nghĩa phát xít đã ra đời và lên nắm quyền ở Đức, Ý, Nhật_ráo riết chạy đua vũ trang hòng gây chiến trang chia lại thế giới.
Hậu quả nặng nề mà cuộc đai khủng hoảng này để lại được dùng để làm thước đo trong lịch sử_cùng với cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973.
Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đang được các nhà chuyên môn so sánh với cuộc đại khủng hoảng trong lịch sử nhân loại.
TK:
hậu quả:
Thứ nhất: Nạn thất nghiệp
Tính riêng năm 1933 thì ở Mỹ, con số thất nghiệp đã lên đến 17 triệu người, cùng với vô số người nông dân bị phá sản và phải bỏ lại ruộng vườn đi ra thành phố sống lang thang.
Ở Anh, trong năm 1931 đã có hơn 3 triệu người thất nghiệp, các nước tư bản khác cũng lâm vào tình trạng tương tự.
Thứ hai: Tiền lương bị giảm xuống đáng kể
Lương của công nhân công nghiệp của Mỹ thời điểm đó chỉ còn 56%, tại Anh thì sụt giảm còn 66%, ở Pháp thì lương giảm từ 30 đến 40%.
Ngoài ra, giá đồng bạc cũng bị sụt giảm khiến cho tiền lương trên thực tế giảm nhiều hơn thế. Đời sóng của người dân khốn cùng, cực khổ, có đến hàng nghìn người chết đói mỗi năm.
Thứ ba: Các cuộc đấu tranh của người dân nổ ra
Là tầng lớp chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất trong cuộc khủng hoảng,vì vậy công nhân và nhân dân lao động ở nhiều quốc gia đã nổi dậy để đấu tranh. Năm 1930 ở Mỹ đã có 2 vạn công nhân thị uy, từ 1929 – 1933 có đến hơn 3 triệu công nhân tham gia vào các cuộc bãi công, ở Đức thì có hơn 15 vạn công nhân bãi công trong năm 1930, năm 1933 có 35 vạn công nhân hầm mỏ tiếp tục bãi công.
Có thể nhận thấy giai đoạn 1929 – 1933 các nước chủ nghĩa tư bản nói chung và Pháp nói riêng thì đều chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng, trong thời gian này Việt Nam đang là thuộc địa của Pháp, do vậy cũng không thể thoát khỏi những ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng, nước nhà gặp khung hoảng vì vậy mà Pháp đẩy mạnh việc bóc lột ở các nước thuộc địa của mình.
Cụ thể cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta như sau:
– Thực dân Pháp rút vốn đầu tư ở Đông Dương, đồng thời dùng ngân hàng Đông Dương để hỗ trợ cho tư bản Pháp, điều này đã khiến ngành công nghiệp sản xuất ở Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu vốn dẫn đến đình trệ.
– Lúa gạo trên thị trường bị mất giá, khiến lúa gạo Việt Nam không thể xuất khẩu, dần dần ruộng đồng rơi vào tình trạng bị bỏ hoang. Những điều này đã làm cho đời sống của đại bộ phận nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh khó khăn khốn cùng.
– Công nhân thất nghiệp ngày càng đông, những người có việc làm thì tiền lương cũng bị giảm từ 30 đến 50%.
– Nông dân tiếp tục bị bần cùng hoá và phá sản trên quy mô lớn.
– Tiểu tư sản lâm vào cảnh điêu đứng: Nhà buôn nhỏ đóng cửa, viên chức bị sa thải, học sinh, sinh viên ra trường bị thất nghiệp.
– Một bộ phận lớn tư sản dân tộc lâm vào cảnh khó khăn do không thể buôn bán và sản xuất.
Không những thế, thực dân Pháp còn tăng sưu thuế lên gấp 2, 3 lần cùng với việc đẩy mạnh các chính sách khủng bố trắng nhằm dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam… Có thể thấy cuộc sống của người dân Việt Nam khốn khổ đến tột cùng.
Cuộc khủng hoảng kéo dài gần 4 năm, trầm trọng nhất là năm 1932, chẳng những tàn phá nặng nề nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về chính trị-xã hội. Hàng chục triệu công nhân thất nghiệp, nông dân mất ruộng đất, sống trong ngành nghèo đói, túng quẫn. Nhiều cuộc đấu tranh, biểu tình, tuần hành của những người thất nghiệp diễn ra ở khắp các nước.