Hãy phân tích những ngữ liệu dưới dây về mặt từ ngữ (chú ý những từ ngữ in đậm) để chứng minh tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.
a)
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã có chổng anh tiếc lắm thay!
(Ca dao)
b)
Thuyền ơi có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
(Ca dao)
c)
Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho.
(Tục ngữ)
d)
Con đem con cá bống (1) ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem thả xuống cho bống (2)... Nói xong, Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống (3) xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống (4) . Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống (5) lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống (6) ngày một lớn lên trông thấy.
(Tấm Cám)
Hiện tượng không biến đổi hình thái của từ:
- Nụ tầm xuân (1): phụ ngữ của cụm động từ chỉ đối tượng của hoạt động hái
- Nụ tầm xuân (2): chủ ngữ của động từ mở
- Bến (1): phụ ngữ cụm động từ nhớ
- Bến (2): chủ ngữ động từ đợi
- Trẻ (1): phụ ngữ của cụm động từ chỉ đối tượng
- Trẻ (2): chủ ngữ của động từ đến
- Bống (1): bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ đem
- Bống (2): bổ ngữ cho động từ thả
- Bống (3): Bổ ngữ động từ thả
- Bống (4) bổ ngữ động từ giấu
- Bống (5) chủ ngữ hành động ngoi lên
- Bống (6): chủ ngữ của câu