Hãy viết tiểu sử tóm tắt của một nhà văn, nhà thơ được học trong chương trình Ngữ văn 11.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tiểu sử tóm tắt nhà văn Nam Cao.
Nam Cao là người con duy nhất trong một gia đình đông con được học hành tử tế. Học xong bậc thành chung, Nam Cao vào Sài Gòn giúp việc cho một hiệu may và bắt đầu sáng tác văn chương. Sau đó ông bị bệnh, trở về quê. Có một thời gian Nam Cao dạy học ở một trường tư ở Hà Nội. Quân Nhật vào Đông Dương, trường ông phải đóng cửa. Nam Cao thất nghiệp, chuyển sang viết văn. Năm 1943 ông tham gia Hội văn hóa cứu quốc do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo. Kháng chiến bùng nổ (12 - 1946) Nam Cao về làm công tác tuyên truyền ở tỉnh Hà Nam. Từ năm 1947 lên Việt Bắc tiếp tục viết báo, sáng tác tuyên truyền cho kháng chiến. Năm 1950 tham gia chiến dịch Biên giới. Tháng 11 - 1951 Nam Cao hi sinh khi đi công tác vào vùng địch hậu.
Trước Cách mạng Tháng Tám, sáng tác của Nam Cao xoay quanh đề tài về cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân nghèo. Dù viết về đề tài nào, tác phẩm của ông cũng thể hiện nỗi đau đớn day dứt trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, bị hủy diệt nhân tính. Qua tác phẩm của mình, Nam Cao phê phán xã hội phi nhân đạo đương thời. Sau CMT8 sáng tác một số tác phẩm: Đôi mắt, Ở rừng, Chuyện biên giới… đó là những sáng tác có giá trị của nền văn xuôi cách mạng lúc bấy giờ.
Trong nền văn xuôi hiện đại của nước ta, Nam Cao là nhà văn có tài năng xuất sắc và một phong cách độc đáo. Ông đã góp phần quan trọng vào việc cách tân nền văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.
Tham khaor
Để tìm kiếm những người tài giỏi trong thiên hạ, một ông vua đã sai viên quan đi khắp nơi và đưa ra các câu hỏi hóc búa để giúp thử tài mọi người nhưng vẫn chưa tìm ra được ai thực sự tài giỏi.
Khi đi đến cánh đồng thấy hai cha con đang cho trâu cày đất, viên quan bèn hỏi trâu cày một ngày mấy đường. Người cha chưa biết trả lời thế nào thì cậu bé con đã trả lời: nếu như quan trả lời được ngựa một ngày đi được bao nhiêu bước thì cháu sẽ cho quan biết trâu cày một ngày được mấy đường. Viên quan nghe vậy sửng sốt và khẳng định đây chính là nhân tài bèn chạy vội về tâu với vua.
Vua tiếp tục thử tài bằng cách bán cho dân làng cậu bé 3 thùng gạo nếp và 3 con trâu đực dặn nuôi để trong 1 năm ba con trâu đực có thể đẻ thành chín con. Ai nấy đều lo lắng nhưng cậu bé lại bảo lấy gạo nếp và giết trâu để ăn, còn một phần để làm lộ phí cho hai cha con cậu vào kinh. Cậu bé đã chứng minh cho vua thấy rằng 3 con trâu đực không thể đẻ được.
Nhà vua tiếp tục thử tài cậu bé bằng cách ra lệnh từ một con chim sẻ làm sao dọn thành ba cỗ thức ăn. Cậu bé đưa cây kim và nói rằng nhờ vua rèn thành con dao để xẻ thịt chim.
Bây giờ thế lực ngoại bang đang lăm le xâm lược nước ta bèn cho người sang thử tài. Họ cho một vỏ con ốc vặn dài và đố làm sao để xâu được sợi chỉ xuyên qua con ốc đó. Cậu bé đã nghĩ ra cách lấy con kiến càng buộc chỉ ngang lưng, đầu bên kia thì bôi mỡ để dẫn dụ kiến bò sang, kéo được sợi chỉ được xuyên qua con ốc trước sự ngỡ ngàng, thán phục của sứ giả nước ngoài. Vua đã ban thưởng hậu hĩnh cho cậu bé, phong cậu làm trạng nguyên.
* Tóm tắt truyện Lão Hạc
Lão Hạc là ông lão nông dân hiền lành, chất phác, do không có tiền cho con trai cưới nên cậu con trai bỏ đi đồn điền cao su. Lão ở nhà sống với cùng một con chó tên Cậu Vàng, người bạn trung thành với lão. Vì lão ốm yếu, già cả nên không ai thuê lão, lão không kiếm được cái ăn. Lão bán con Vàng và nhờ ông giáo cất tiền cho con trai lão, lão tự dành tiền để lo ma chay cho mình không làm phiền đến hàng xóm láng giềng. Lão không nhận sự giúp đỡ của bất kì ai, Lão chọn cái chết dữ dội đau đớn bằng bả chó để kết thúc sự sống khổ cực của mình.
* Tóm tắt Hoàng Lê nhất thống chí
Ngay sau khi nghe tin giặc Thanh vào xâm lược, Nguyễn Huệ lên ngôi vua, lấy hiệu là Quang Trung, sau đó đích thân đốc xuất đại binh ra Thăng Long dẹp giặc, trên đường ra Bắc tiến hành tuyển quân. Tới 30 tháng chạp, vua cho tiệc khao quân, hẹn mùng 7 vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Bằng tài chỉ huy thao lược của Quang Trung, đạo quân Tây Sơn giành thắng lợi. Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh sợ sệt tìm đường tháo chạy. Vua tôi Lê Chiêu Thống, cùng bọn quan lại bán nước cũng bỏ chạy theo.
tham khảo:
Viết đoạn văn khoảng tám đến 10 câu, nêu cảm nhận của em về tình bạn của nhà thơ và người bạn trong bài bạn đến chơi nhà - Ngữ văn Lớp 7 - Bài tập Ngữ văn Lớp 7 - Giải bài tập Ngữ văn Lớp 7 | Lazi.vn - Cộng đồng Tri thức & Giáo dục
Niu-tơn (Newton) | Đác-uyn (Darwin) | Pa-xtơ (Pasteur) | Ma-ri Quy-ri (Marie Curie) | Anh-xtanh (Einstein) | |
Quốc tịch | Anh | Anh
| Pháp
| Pháp | Đức |
Ngày sinh | 25/12/1642 | 12/2/1809 | 27/12/1822 | 7/11/1867 | 14/3/1879 |
Phát minh quan trọng | - Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia Mathematica ( Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên), đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và ba định luật về chuyển động, - Trong cơ học, Newton đưa ra nguyên lý bảo toàn động lượng - Trong quang học, ông khám phá ra sự tán sắcánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu. - Trong toán học, Newton cùng với Gottfried Leibniz phát triển phép tính vi phân và tích phân. Ông cũng đưa ra nhị thức Newton tổng quát. | - Darwin phát hiện ra nguyên lý chọn lọc tự nhiên. Từ vấn đề này Darwin nhận định, sinh vật không ngừng tiến hóa từ bậc thấp đến bậc cao và ông đã chỉ ra, động - thực vật khi nuôi trồng sở dĩ có biến dị là do con người lựa chọn, lai tạo giống tùy theo mục đích sử dụng. Từ kết quả này, Darwin đã cho xuất bản cuốn sách “Nguồn gốc các loài” vào năm 1859 | - Ông đã đề ra các biện pháp thanh trùng để làm giảm tỷ lệ tử vong sau khi sinh đẻ ở các sản phụ, tạo ra loại vắc-xin đầu tiên cho bệnh dại và bệnh than. - Ông cũng nổi tiếng trong việc phát minh ra kỹ thuật bảo quản sữa và rượu để ngăn chặn vi khuẩn có hại xâm nhập, một quá trình mà ngày nay được gọi là thanh trùng. - Ông được xem là một trong 3 người thiết lập nên lĩnh vực Vi sinh vật học | - Bà đã phát triển lý thuyết phóng xạ (phóng xạ là thuật ngữ do bà đặt ra), kỹ thuật để cô lập đồng vị phóng xạ và phát hiện ra hai nguyên tố, polonium và radium. - Dưới sự chỉ đạo của bà, các nghiên cứu đầu tiên trên thế giới đã được tiến hành để điều trị các khối u bằng cách sử dụng các đồng vị phóng xạ. - Bà đã phát triển các xe X–quang di động để cung cấp dịch vụ X-quang cho các bệnh viện dã chiến. | - Phát hiện ra thuyết tương đối hẹp - Hiện tượng nguyệt thực - Ánh sáng bị bẻ cong do lực hấp dẫn - Phát hiện ra hiệu ứng quang điện, bước ngoặc khai sinh ra lý thuyết lượng tử ánh sáng |
Điểu em thích nhất ở nhà khoa học | Ông cống hiến hết mình cho khoa học: Ông đối với khoa học thì chuyên cần nhưng trong sinh hoạt lại là người vô tâm, hay quên, ông thường làm việc quên cả ăn. | Câu nói của ông: Một người thuộc về khoa học phải không có mơ ước, không có tình thương – chỉ là trái tim bằng đá. | Câu nói của ông: Không có thứ gọi là khoa học ứng dụng, chỉ có những ứng dụng của khoa học | Bà là người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel, người đầu tiên và là phụ nữ duy nhất vinh dự giành được hai Giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau – vật lý và hóa học. | 3 tuổi ông mới biết nói và cho đến năm 8 tuổi - khi bắt đầu học đọc ông vẫn nói không thạo. Tuy nhiên ông lại bắt đầu mày mò với khoa học từ rất sớm, từ khoảng 10 tuổi ông đã bắt đầu mày mò làm các mô hình và thiết bị cơ học. (Ông có tình yêu khoa học từ khi còn bé) |
Tóm tắt tiểu sử: Nguyễn Du
- Sống ở cuối thế kỉ XVIII, đây là giai đoạn lịch sử đầy bão táp, sôi động với biến cố lớn lao
- Nguyễn Du hướng ngòi bút của mình tới hiện thực xã hội
- Ông sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, có truyền thống khoa bảng. Cha là Nguyễn Nghiễm (từng làm tể tướng), anh trai là Nguyễn Khản làm quan to dưới triều Lê
Năm 1783: Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài) sau đó không đi thi nữa, Nguyễn Du làm một chức quan nhỏ ở Thái Nguyên
Năm 1789, Nguyễn Du trở về Quỳnh Côi Thái Bình, sống nhờ người anh vợ danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn
Năm 1796, Trở về Tiên Điền Hà Tĩnh, ông sống chật vật một thời gian tới 1802, ông ra làm quan cho nhà Nguyễn (tri huyện Phù Dung – Khoái Châu, Hưng Yên)
Năm 1820 trước khi đi sứ lần hai thì ông mất tại Huế