K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

9 tháng 12 2017

hôm nọ mình mới thi vào đề này xong nhưng kết quả không được cao

9 tháng 12 2017
vậy hả bạn?
3 tháng 10 2021

Tham khảo:

'' Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

..............

Cát vàng cồn nọ cụi hồng dặm kia ''

Cảnh có cả '' vẻ non xa lẫn tấm trăng gần '' nhưng cảnh ấy ko gợi lên 1 chút tươi vui hay ấm áp , với Kiều núi xa hay trăng gần chẳng khác j nhau và càng kcj đặc biệt . Lầu NB trơ trọi giữa ko gian hoang vắng , mênh mông .

Trong ko gian ấy , Kiều chỉ biest làm bạn vs non xa trăng gần , 1 ko gian mênh mông trải rộng ra trước mắt nàng khiến Kiều càng cảm thấy nhỏ bé , lẻ loi , đơn độc .

'' Bẽ bàng mây sớm đền khuya ,

Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng . ''

Kiều có tâm trạng bẽ bàng ( xấu hổ , tủi nhục ) vì tấm thân mk đã bị hoen hố , tâm trạng ấy nhuốm vào cảnh vật , khiến cho cảnh vật càng thêm ảm đạm , thế hương .

3 tháng 10 2021

bạn lấy ở cái giưới đúng ko 

8 tháng 4 2021

Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã từng viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Thật vậy, Nguyễn Du tả cảnh bao giờ cũng lồng tả tình, tả cảnh không chỉ bộc lộ cảm xúc trước cái đẹp của thiên nhiên mà đó còn là phương tiện để biểu hiện tâm trạng nhân vậy. Trong Truyện Kiều có nhiều bức tranh cảnh – tình độc đáo có tác dụng sâu xa đến cảm xúc thẩm mĩ của người đọc. đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những bức tranh như thế. Cho nên, có ý kiến cho rằng đoạn thơ ấy là một bức tranh tâm tình xúc động.

Kiều ở lầu Ngưng Bích” được sách tác dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc).

Bị Mã Giám Sinh đẩy vào lầu xanh rồi lại bị Tú Bà đánh đập để ra oai, Kiều tự tử nhưng Tú Bà cứu kịp. Sợ vốn liếng “đi đời nhà ma”, mụ đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác. Nguyễn Du đã đặt Kiều sống trong cảnh ngộ ấy để cho nàng tự bộc lộ tâm trạng của mình. Và thế là, theo những dòng thơ, tâm trạng Kiều cứ theo cảnh mà hiện ra:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”

Một khung cảnh thiên nhiên mông mênh vắng lặng, heo hút không một bóng người. Trong đó, chỉ có “vẻ non xa, tấm trăng gần” nàng như đang ở chung với Kiều và nỗi buồn của nàng như đang lan tỏa ra cảnh vật. Cảnh có nét đậm (tấm trăng), nét nhạt (vẻ non), vừa xa vừa gần, vừa mờ và tỏ, mênh mông bát ngát càng tô đậm cô đơn, lẻ loi, trơ trọi. Quay nhìn bốn phía cũng chỉ thấy: “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, những cồn cát vàng nhấp nhô, những đám bụi hồng trải khắp dặm xa,…Những vế câu đối xứng nhau và những từ “xa – gần”, “nọ – kia” tầng tầng, lớp lớp gợi nỗi lòng ngổn ngang, bề bộn trong tâm trạng Thúy Kiều.

Ngắm cảnh nghĩ đến mình, Kiều càng thấm thía nỗi buồn:

“Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya,

Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Nơi đất khách quê người thân bị giam lỏng, cô bé bé bỏng tội nghiệp ấy chỉ biết sớm làm bạn mới mây, khuya làm bạn với đèn, thao thức, thui thủi một mình. Thật là bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi, vô vọng. Cảnh buồn, tình cô đơn như chia sẻ lòng Kiều càng thêm tan nát, đớn đau…

Trong tình cảnh ấy nàng đau đớn nhớ đến Kim Trọng, người đã cùng nàng thề nguyền gắn bó:

“Tưởng người dưới guyệt chén đồng

Tim sương luống những rày trông mai chờ”

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Mới hôm nào đây, chén rượu thề nguyền chưa ráo, vầng trăng hẹn ước còn kia, thế mà đã hai phương trời cách biệt! Hình ảnh ẩn dụ “người dưới nguyệt chén đồng” không chỉ diễn tả nỗi nhớ thương sâu sắc mà còn chứa đựng niềm xót đau vì đã bội ước với lời thề. Nàng yêu và hiểu Kim Trọng, chắc lúc này, chàng đang khắc khoải: “rày trông mai chờ” tin tức nàng. Nàng lại thương thân mình “bơ vơ” nơi “góc bể chân trời” và tấm lòng son sắt thủy chung không gì làm cho phai được. Kiều thật là người tình thủy chung. Tuy đã bán mình chuộc cha, chữ hiếu phần nào đã đền đáp, nhưng nàng luôn xót xa nhớ thương cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai,

...

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Nguyễn Du đã dùng từ “xót” thật cảm động để nói đến tình cảm của Kiều đối với cha mẹ. Nàng xót xa khi tưởng tượng thấy cha mẹ đang “tựa cửa hôm mai” trông ngóng con, “xót” vì thời gian trôi đi, cha mẹ sẽ ngày càng già yếu mà nàng thì xa xôi cách trở. Những điển tích, điển cố “Sân Lai”, “gốc từ” càng khắc sâu thêm nỗi lòng của người con hiếu thảo.

Nỗi buồn xâm chiếm hết nỗi lòng Kiều xuyên thấu vào cảnh vật:

“Buồn trông của bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Tám câu thơ vừa là nhạc vừa là họa. Đó là khúc nhạc buồn thấm thía. Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển, dồi dào âm hưởng. Hàng loạt từ láy vừa gợi âm thanh, vừa gợi hình ảnh: “thấp thoáng, xa xa , man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm”. những từ ấy cộng hưởng với từ “buồn trông” trỗi lên ở đầu các câu lục bát tạo nên một hợp âm dồi dào các thanh bằng có sức ngân lên trong tâm hồn người đọc bao nỗi niềm thấm thía. Sóng âm thanh huyền diệu đó chuyển tải các hình ảnh thơ đến thẳng lòng người. Không nhìn bằng mặt, ta vẫn cảm nhận được những bức tranh tâm tình từ tiếng lòng Kiều vẽ ra.

Trước hết là cảnh chiều hôm trên cửa biển cới “Thuyền ai thấp thoáng cách buồm xa xa”. Mấy chữ thôi mà mở ra một tâm trạng thấm buồn (cửa bể), một thời gian đượm buồn (chiềm hôm) của người đang lẻ loi ngóng đợi.Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng xa xa của ai đó sẽ đi về đâu? Phải chăng về nơi quê nhà thân yêu? Thơ cổ vẫn dùng hình ảnh ấy để biểu hiện nỗi nhớ nhà của khách tha hương. Cảnh hai là cánh hoa trôi trên ngọn nước:

“Buồn trông ngọn nước mới sa.

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Hình ảnh nước từ cao đổ xuống vỡ tung tóe phải chăng như thân phận bị vùi dập của Kiều? Trên dòng nước ấy, một cánh hoa lẻ loi bị đưa đẩy trôi đi lặng lẽ đến một phương trời vô định. Đây là hình ảnh thật hay chỉ là hình ảnh tưởng tượng trong tâm hồn cô gái đáng thương?Từ cảm nhận cái hữu hình, Kiều như nhìn thấy được cái vô hình: số kiếp hoa trôi bèo nổi của mình…

Cảnh tiếp theo là cánh đồng cỏ trải dài vô tận, mặt đất chân mây chỉ một màu xanh xanh:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Không phải một màu xanh xanh đầy sức sống mà chỉ là một màu “rầu rầu” héo úa và chỉ một màu thôi, mênh mông bát ngát. Cảnh ấy như gợi nỗi buồn thương vô vọng kéo dài như gợi nỗi buồn chán cuộc sống vô vị tẻ nhạt, thiếu sinh khí ở nơi cô quạnh này.

Cảnh vật trong những câu thơ trên buồn và vắng lặng. Ở hai câu cuối, cảnh cũng buồn nhưng không còn bình lặng nữa mà vang dội dữ dội:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Cơn gió mạnh cuốn trên mặt “duềnh”, ầm vang tiếng sóng, bủa vây xung quanh đến choáng ngợp. Đó là cảnh thực hay chỉ là hư ảo? Hay chỉ là nỗi ám ảnh lo sợ trước những tai biến sắp ập đến cho cái số kiếp mỏng manh của Kiều? có điều chắc chắn đó là tiếng sóng dội ra từ mảnh hồn cô đơn tội nghiệp làm nên vần nên điệu.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất của Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Tóm lại, đoạn thơ đúng là “bức tranh tâm tình đầy xúc động”. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp các yếu tố thơ – nhạc – họa để vẽ nên bức tranh độc đáo ấy để ta cảm nhận được tâm sự đáng thương của Thúy Kiều. Điều đáng quý không chỉ ở tài thơ mà còn ở cái tình lớn mà nhà thơ dành cho nhân vật, cho con người và cho cuộc đời. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thực sự để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

18 tháng 5 2021

Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã từng viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Thật vậy, Nguyễn Du tả cảnh bao giờ cũng lồng tả tình, tả cảnh không chỉ bộc lộ cảm xúc trước cái đẹp của thiên nhiên mà đó còn là phương tiện để biểu hiện tâm trạng nhân vậy. Trong Truyện Kiều có nhiều bức tranh cảnh – tình độc đáo có tác dụng sâu xa đến cảm xúc thẩm mĩ của người đọc. đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những bức tranh như thế. Cho nên, có ý kiến cho rằng đoạn thơ ấy là một bức tranh tâm tình xúc động.

Kiều ở lầu Ngưng Bích” được sách tác dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc).

Bị Mã Giám Sinh đẩy vào lầu xanh rồi lại bị Tú Bà đánh đập để ra oai, Kiều tự tử nhưng Tú Bà cứu kịp. Sợ vốn liếng “đi đời nhà ma”, mụ đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác. Nguyễn Du đã đặt Kiều sống trong cảnh ngộ ấy để cho nàng tự bộc lộ tâm trạng của mình. Và thế là, theo những dòng thơ, tâm trạng Kiều cứ theo cảnh mà hiện ra:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”

Một khung cảnh thiên nhiên mông mênh vắng lặng, heo hút không một bóng người. Trong đó, chỉ có “vẻ non xa, tấm trăng gần” nàng như đang ở chung với Kiều và nỗi buồn của nàng như đang lan tỏa ra cảnh vật. Cảnh có nét đậm (tấm trăng), nét nhạt (vẻ non), vừa xa vừa gần, vừa mờ và tỏ, mênh mông bát ngát càng tô đậm cô đơn, lẻ loi, trơ trọi. Quay nhìn bốn phía cũng chỉ thấy: “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, những cồn cát vàng nhấp nhô, những đám bụi hồng trải khắp dặm xa,…Những vế câu đối xứng nhau và những từ “xa – gần”, “nọ – kia” tầng tầng, lớp lớp gợi nỗi lòng ngổn ngang, bề bộn trong tâm trạng Thúy Kiều.

Ngắm cảnh nghĩ đến mình, Kiều càng thấm thía nỗi buồn:

“Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya,

Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Nơi đất khách quê người thân bị giam lỏng, cô bé bé bỏng tội nghiệp ấy chỉ biết sớm làm bạn mới mây, khuya làm bạn với đèn, thao thức, thui thủi một mình. Thật là bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi, vô vọng. Cảnh buồn, tình cô đơn như chia sẻ lòng Kiều càng thêm tan nát, đớn đau…

Trong tình cảnh ấy nàng đau đớn nhớ đến Kim Trọng, người đã cùng nàng thề nguyền gắn bó:

“Tưởng người dưới guyệt chén đồng

Tim sương luống những rày trông mai chờ”

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Mới hôm nào đây, chén rượu thề nguyền chưa ráo, vầng trăng hẹn ước còn kia, thế mà đã hai phương trời cách biệt! Hình ảnh ẩn dụ “người dưới nguyệt chén đồng” không chỉ diễn tả nỗi nhớ thương sâu sắc mà còn chứa đựng niềm xót đau vì đã bội ước với lời thề. Nàng yêu và hiểu Kim Trọng, chắc lúc này, chàng đang khắc khoải: “rày trông mai chờ” tin tức nàng. Nàng lại thương thân mình “bơ vơ” nơi “góc bể chân trời” và tấm lòng son sắt thủy chung không gì làm cho phai được. Kiều thật là người tình thủy chung. Tuy đã bán mình chuộc cha, chữ hiếu phần nào đã đền đáp, nhưng nàng luôn xót xa nhớ thương cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai,

...

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Nguyễn Du đã dùng từ “xót” thật cảm động để nói đến tình cảm của Kiều đối với cha mẹ. Nàng xót xa khi tưởng tượng thấy cha mẹ đang “tựa cửa hôm mai” trông ngóng con, “xót” vì thời gian trôi đi, cha mẹ sẽ ngày càng già yếu mà nàng thì xa xôi cách trở. Những điển tích, điển cố “Sân Lai”, “gốc từ” càng khắc sâu thêm nỗi lòng của người con hiếu thảo.

Nỗi buồn xâm chiếm hết nỗi lòng Kiều xuyên thấu vào cảnh vật:

“Buồn trông của bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Tám câu thơ vừa là nhạc vừa là họa. Đó là khúc nhạc buồn thấm thía. Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển, dồi dào âm hưởng. Hàng loạt từ láy vừa gợi âm thanh, vừa gợi hình ảnh: “thấp thoáng, xa xa , man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm”. những từ ấy cộng hưởng với từ “buồn trông” trỗi lên ở đầu các câu lục bát tạo nên một hợp âm dồi dào các thanh bằng có sức ngân lên trong tâm hồn người đọc bao nỗi niềm thấm thía. Sóng âm thanh huyền diệu đó chuyển tải các hình ảnh thơ đến thẳng lòng người. Không nhìn bằng mặt, ta vẫn cảm nhận được những bức tranh tâm tình từ tiếng lòng Kiều vẽ ra.

Trước hết là cảnh chiều hôm trên cửa biển cới “Thuyền ai thấp thoáng cách buồm xa xa”. Mấy chữ thôi mà mở ra một tâm trạng thấm buồn (cửa bể), một thời gian đượm buồn (chiềm hôm) của người đang lẻ loi ngóng đợi.Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng xa xa của ai đó sẽ đi về đâu? Phải chăng về nơi quê nhà thân yêu? Thơ cổ vẫn dùng hình ảnh ấy để biểu hiện nỗi nhớ nhà của khách tha hương. Cảnh hai là cánh hoa trôi trên ngọn nước:

“Buồn trông ngọn nước mới sa.

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Hình ảnh nước từ cao đổ xuống vỡ tung tóe phải chăng như thân phận bị vùi dập của Kiều? Trên dòng nước ấy, một cánh hoa lẻ loi bị đưa đẩy trôi đi lặng lẽ đến một phương trời vô định. Đây là hình ảnh thật hay chỉ là hình ảnh tưởng tượng trong tâm hồn cô gái đáng thương?Từ cảm nhận cái hữu hình, Kiều như nhìn thấy được cái vô hình: số kiếp hoa trôi bèo nổi của mình…

Cảnh tiếp theo là cánh đồng cỏ trải dài vô tận, mặt đất chân mây chỉ một màu xanh xanh:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Không phải một màu xanh xanh đầy sức sống mà chỉ là một màu “rầu rầu” héo úa và chỉ một màu thôi, mênh mông bát ngát. Cảnh ấy như gợi nỗi buồn thương vô vọng kéo dài như gợi nỗi buồn chán cuộc sống vô vị tẻ nhạt, thiếu sinh khí ở nơi cô quạnh này.

Cảnh vật trong những câu thơ trên buồn và vắng lặng. Ở hai câu cuối, cảnh cũng buồn nhưng không còn bình lặng nữa mà vang dội dữ dội:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Cơn gió mạnh cuốn trên mặt “duềnh”, ầm vang tiếng sóng, bủa vây xung quanh đến choáng ngợp. Đó là cảnh thực hay chỉ là hư ảo? Hay chỉ là nỗi ám ảnh lo sợ trước những tai biến sắp ập đến cho cái số kiếp mỏng manh của Kiều? có điều chắc chắn đó là tiếng sóng dội ra từ mảnh hồn cô đơn tội nghiệp làm nên vần nên điệu.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất của Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Tóm lại, đoạn thơ đúng là “bức tranh tâm tình đầy xúc động”. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp các yếu tố thơ – nhạc – họa để vẽ nên bức tranh độc đáo ấy để ta cảm nhận được tâm sự đáng thương của Thúy Kiều. Điều đáng quý không chỉ ở tài thơ mà còn ở cái tình lớn mà nhà thơ dành cho nhân vật, cho con người và cho cuộc đời. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thực sự để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

 

 



 

15 tháng 4 2021

Tham khảo:

Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ

Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí: Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.

Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.

Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.

Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.

27 tháng 4 2022

Trong sáu câu đầu đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tác giả Nguyễn Du đã miêu tả một cách suất sắc khung cảnh thiên nhiên và tâm trạng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Mở đầu đoạn thơ, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ ở cụm từ “khóa xuân”, “khóa xuân” ở đây có nghĩa là khóa kín tuổi xuân hay còn có thể hiểu là nàng đang bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Nơi đang giam lỏng nàng là một nơi rất cao, trơ trọi và có thể quan sát hết mọi vật xung quanh. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều hình ảnh gợi cảm như “non xa”,”trăng gần”,”bát ngát”,”cát vàng”, “bụi hồng” để diễn tả khung cảnh thiên nhiên mênh mông, rộng lớn, hoang vu và rợn ngợp. Rất có thể đây là cảnh thật nhưng cũng có thể chỉ là những hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng để nói lên sự cô đơn của Thúy Kiều không chỉ ở không gian mà còn là thời gian. Thành ngữ “mây sớm đèn khuya” có nghĩa là sáng làm bạn với mây, tối làm bạn với đèn. Đây là một vòng tuần hoàn khép kín với ý cốt là nói lên sự cô đơn đến tuyệt đối của nàng. Ôi! nàng đã cô đơn ,tủi nhục đến nhường nào khi sớm tối chỉ làm bạn với vật vô tri vô giác như vậy . Và khi đối diện với chính bản thân mình nàng cảm thấy “bẽ bàng”. Nàng xấu hổ và tủi thẹn bởi nàng đã bị cướp cái đáng giá nghìn vàng của một người con gái trong nháy mắt vì bị Mã Giám Sinh lừa và sau đó hắn đã làm nhục nàng. Ở câu thơ cuối cùng của bài thơ cụm từ “nửa tình nửa cảnh” đã nói lên tâm trạng vô cùng rối bời khiến cho Kiều như bị chia tấm lòng.

Chú thích : câu cảm thán : Ôi! Nàng đã cô đơn tủi nhục đến nhường nào.....