Trận đánh đẫm máu nhất lịch sử nhân loại?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đêm đã rất khuya…
Ngoài trời, những vệt sáng mờ mờ đầu tiên của một ngày mới đã xuất hiện. Trong những xóm làng gần đó đã cất lên thưa thớt vài ba tiếng gà gáy vang vọng.
Sự yên lặng bao phủ toàn doanh trại. Các binh sĩ đều đã đi ngủ cả, chỉ nghe tiếng thở đều nhè nhẹ, tiếng cuốc kêu não nuột vang trong đêm vắng. Nhưng trong bóng tối và cái tĩnh mịch ấy, ở một góc trại, vẫn còn một ánh đèn sáng.
Bên chiếc đèn dầu gần cạn chỉ còn le lói, vị chủ tướng đang ngồi trầm ngâm, mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Trên bàn, cuốn binh thư đọc dở nằm im như chờ đợi. Ánh sáng yếu ớt hắt lên khuôn mặt suy tư, đôi mày nhíu lại, chòm râu đen và đôi mắt sáng rực như hai vì sao. Đó chính là Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Làm cách nào ? Làm cách nào ? Trong đầu vị chủ tướng vẫn trăn trở câu hỏi. Chỉ còn một ngày nữa thôi, vào rạng sáng, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi sẽ xuôi dòng Bạch Đằng để rút về nước. Đây là thời cơ thuận lợi để quân ta phản công, để giải phóng đất nước. Thời gian đã gấp rút lắm rồi. Vậy mà ông chưa nghĩ ra cách đánh nào thích hợp, đảm bảo chiến thắng cho quân ta. Đánh địch đã khó nhưng chiến thắng chúng còn khó khăn hơn rất nhiều lần !
Trần Hưng Đạo chợt nhớ bài học lịch sử xa xưa – năm 938, Ngô Quyền đã đánh thắng quân Nam Hán… Đúng rồi, chỉ có cách đánh của Ngô Quyền mới thật là thượng sách. Trong ông luồng nhiệt huyết lại bốc cháy bừng bừng, ông thầm cảm ơn vị dũng tướng họ Ngô đã cho ông một ý tưởng. Vừa lúc đó, gà gáy báo trời đã sáng hẳn.
Trần Hưng Đạo ban lệnh toàn quân vào rừng đẵn gỗ làm cọc. Dân chúng cũng hồ hởi đì theo giúp. Họ đẵn những cây gỗ chắc khoẻ như lim hay táu. Cây đổ ầm ầm. Khắp nơi chỉ nghe tiếng rìu, tiếng cưa ồn ào, náo động. Người ta dùng dao, dùng rìu chuốt nhọn đầu những thanh gỗ thành những cọc nhọn cao quá đầu người, có cái cao đến hai trượng sáu, to đến nỗi một vòng ôm mới đủ. Đầu nhọn được lấy sắt bọc lại, lúc này mỗi chiếc cọc trở thành một thứ vũ khí vô cùng lợi hại cho những gì sẽ va vào nó.
Nhìn cảnh làm việc như vậy, Trần Hưng Đạo rất hài lòng. Ông sung sướng ngắm nhìn những chiếc cọc nhọn mà tin tưởng vào chiến thắng sắp tới. Sau khi cọc đã đủ, Trần Hưng Đạo cho đóng cọc xuống khúc sông gần ngã ba sông Chanh. Đây quả là một địa thế thuận lợi do thuỷ triều lên xuống nhanh và mạnh.
Tại đây, những người lặn giỏi như Yết Kiêu lại có dịp trổ tài. Ở trên, những thanh niên khoẻ mạnh ngồi trên thuyền, đưa những chiếc cọc nặng xuống dưới, cắm sâu vào lòng sông. Còn dưới mặt nước, những người thợ lặn đã chờ sẵn. Họ đỡ những chiếc cọc, thận trọng chỉnh lại hướng và độ vững chắc trước khi ngoi lên. Người đâm, kẻ đỡ thật ồn ào náo nhiệt.
Trên bờ, Trần Hưng Đạo ngắm nhìn trận địa cọc đang dần hình thành. Lúc này thuỷ triều đang rút, ta có thể nhìn thấy những cọc nhọn hoắt nhô lên trông thật nguy hiểm. Cọc này sát với cọc kia như bàn chông, đứng vững như bàn thạch, không hề suy chuyển khi bị những cơn sóng to ập vào. Ông mỉm cười sung sướng rồi đích thân chuẩn bị ở hai bên bờ. Những toán quân khoẻ mạnh, nhanh nhẹn được chọn ra. Những bùi nhùi, đá lửa, rơm rạ, dầu cùng những thứ dễ cháy đã được bà con giấu sẵn vào luồng lạch hoặc hai bên bờ những nơi lau lách um tùm rậm rạp gần đó để phóng hoả khi cần thiết.
Người làm việc nọ, kẻ giúp việc kia, thật khẩn trương nhưng vẫn chu đáo, cẩn trọng. Họ thi nhau đóng những chiếc thuyền nhỏ, nhẹ, bằng gỗ chuẩn bị cho cuộc tiến công.
Giữa lúc ấy, trên bờ những quân sĩ còn lại cũng không chịu ngồi yên. Họ rèn đúc khí giới, mài dao thêm sắc, mài gươm thêm nhọn, chuẩn bị cung tên. Nhóm thì đấu vật, nhóm thì đấu gươm. Tinh thần hăng hái không kể đầu cho xiết.
Thấm thoát đến chiều.tối thì mọi việc cũng đã xong. Những quân sĩ vẫn chưa ngủ. Họ ngồi lại nghe một người đọc lại bài hịch của Hưng Đạo Vương : “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng…”. Lời hịch vang lên khiến lòng người rạo rực, bừng bừng trong máu, trong tim. Doanh trại lại ồn ào tiếng múa gươm, múa kiếm sôi động nhộn nhịp. Tưởng như đang diễn ra một cuộc chiến đấu.
Trống đã điểm canh hai, tờ mờ sáng, bỗng gần cửa sông Bạch Đằng xuất hiện một đoàn thuyền chiến dài dằng dặc làm chật cả khúc sông. Những cánh buồm làm thẫm màu nước. Chiêng trống vọng ra ầm ầm như sấm, như sét… Quanh hai bên bờ không một bóng người. Lúc này thuỷ triều đang dâng lên cao, chỉ thấy mênh mông màu nước trắng xoá, những bụi ỉau lách ven bờ. Thỉnh thoảng vọng lại vài tiếng chim thưa thớt.
Trọng thuyền, Ô Mã Nhi đang nằm ung dung trên đệm gấm, mừng rỡ nói với các tướng : “Quân Trần thấy ta là sợ mất mật, còn sức đâu mà đánh !”. Y lại càng yên tâm hơn vì sắp ra đến biển rồi, quân ở đâu ra cũng khó cản đường một đoàn thuyền đông đúc! Thuyền chậm lại dần.
Bỗng dậy lên tiếng trống, tiếng chiêng đầy náo nức, vọng hết cả mặt sông. Từng đàn chim bay loạn xạ từ những bụi cây. Ô Mã Nhi giật mình chạy ra ngoài nhìn. Tiếng trống vẫn cứ rộn rã. Quân Nguyên đang ngơ ngác, bỗng thấy trước mặt xuất hiện một đoàn, thuyền nhẹ. Trên con thuyền dẫn đầu là tướng quân Nguyễn Khoái, tay cầm một thanh đao, thét lớn : “Ồ Mã Nhi, ta chờ mày ở đây lâu rồi, mày chạy đâu cho thoát”. Nguyễn Khoái đứng hiên ngang, thân thể cao lớn, vững như tượng đồng, cùng quân sĩ tấp vào thuyền giặc. Tiếng trống vang vang. Những mũi tên bay từ đâu tới tấp vào quân giặc. Ô Mã Nhi giơ khiên lên đỡ, cùng người tướng là Phàn Tiếp xông ra: Nhưng vừa đánh nhau một lúc, bỗng Nguyễn Khoái thét lớn với quân sĩ : “Anh em, sức giặc còn mạnh, người còn đông, chưa thể hạ được, chúng ta rút lui’!”. Quân sĩ dạ ran. Rồi đoàn thuyền nhỏ chèo nhanh trở lại.
Thấy vậy, Ô Mã Nhi hết sức hí hửng. Y cười nói với các tướng sĩ : “Tưởng quân Trần như thế nào, chứ hoá ra chỉ là một lũ chuột nhắt, vừa đánh đã chạy”. Rồi y dẫn thuỷ quân đuổi theo. Cứ thế, chẳng mấy chốc, thuyền giặc đã lọt vào trận địa mai phục.
Vừa lúc ấy, thuỷ triều bắt đầu rút. Từng đợt sóng không còn mạnh mẽ như trước, lăn nhanh về phía bờ biển. Màn nước trắng xoá vừa rút, đã lộ ra những cái cọc nhọn. Mới đầu chỉ là phần mũi rồi dần dần lộ ra cả phần đầu nhọn hoắt, cứng cáp. Cứ như không phải nước đang rút mà là cọc đang nhô dần lên vậy. Thấy đã đến thời điểm, Nguyễn Khoái ra lệnh cho ba quân rút chạy. Ô Mã Nhi vẫn còn chưa biết, lập tức đuổi theo. Nhưng kìa, hàng ngàn chiếc cọc nhọn đă lộ nguyên hình trên khúc sông, đồng loạt va, đập vào chiến thuyền của giặc. Lúc này tên tướng giặc mới biết thì đã muộn, toàn bộ quân sĩ của chúng, đã lọt vào ổ phục kích của quân dân nhà Trần. Thuyền của giặc bây giờ giống như cá nằm trên lưới. Nhiều chiếc thuyền đã bị bãi cọc dồn cả lại, xô vào nhau vỡ toác. Nhiều chiếc bị những chiếc cọc nhọn hoắt đâm thủng, nước chảy vào ào ào. cảnh tượng thật là bi đát ! Quân giặc xúm lại cố gắng tát nước ra khỏi thuyền, nhưng vô ích. Số khác lo thuyền vỡ đã nhảy vội xuống sông, đang chơi vơi trên dòng nước. Vài chiếc còn nguyên vẹn thì vẫn chưa hết kinh hoàng.
Ô Mã Nhi cùng Phàn Tiếp đang còn lúng túng không biết làm thế nào thì bất ngờ thấy trên dòng nước là những bè lửa đang trôi về phía chúng. Đó là những bè lửa do nhân dân thả xuống từ những lạch nước gần đấy, len lỏi vào giữa đội hình cửa giặc. Lửa lại gặp gió càng thêm đượm, thuyền quân Nguyên cháy hừng hực như một ngọn đuốc sáng rực cả khúc sông. Tiếng kêu khóc như ri. Lúc ấy quân Trần mới đổ ra từ hai bên bờ sông đánh thẳng vào thuyền của giặc. Mũi tên từ thuyền quân Đại Việt bắn ra như mưa, quân giặc không biết chạy trốn vào đâu, tan tác từng mảng như đàn ong vỡ tổ. Trời lại càng nắng gay gắt. Khí trời mỗi lúc một oi bức, khó thở. Quân Nguyên thở hồng hộc, hàng ngũ rối loạn. Chỉ còn một số cụm chống chọi yếu ớt với quân Đại Việt. Tinh thần binh lính địch lúc đó cũng bắt đầu tan rã. Xuống dưới thuyền, cảnh tượng trông thật khủng khiếp. Quân bị ốm nằm vật vã mệt mỏi. Xác chết la liệt. Nhiều tên vứt cả khí giới, nhảy xuống nước, tiếng rên khừ khừ, tiếng la thảm hại, lũ còn lại sợ hãi dúm dó cả người lại.
Những lưỡi mã tấu của quân ta cứ vung lên rồi chém xụống. Nước sông Bạch Đằng đỏ ngầu máu giặc, tung bọt trắng… Tiếng reo hò ngày vang dội. Tiếng chiêng trống ngày càng rộn ràng. Trên thuyền quân ta chất nhiều vũ khí do quân Nguyên bỏ ra đầu hàng. Nhiều thuyền chiến đã cắm cờ hiệu nhà Trần. Mặt sông đầy xác thuyền vỡ, những áo giáp, cung tên, gươm giáo và cả quân giặc đang lóp ngóp bơi vào bờ. Nhưng đến bờ chúng cũng không chạy thoát. Từ làng xóm gần đấy, nhân dân đã đổ ra giúp sức, họ là những người dân quanh vùng, già có, trẻ có, lại cả trẻ em, phụ nữ,… Người mang cuốc, người mang rìu… nghĩa là có gì trong tay thì thứ đó trở thành vũ khí. Ai cũng hăng hái tràn ra đánh giặc, lấy gậy gộc mà đọ giáo mác. Chỉ với vũ khí tự tạo, họ vẫn chiến thắng. Từng tên giặc bị trói gô lại, giải đến cho triều đình.
Phàn Tiếp – tên tướng giặc hùng hổ, độc ác của quân Nguyên giờ đây đang lóp ngóp ở dưới sông, lính ta dùng câu liêm móc lên, bắt sống. Trông thật thẳm hại ! Giờ đây hắn chỉ là một tên tù binh hèn mạt, run rẩy cầu xin tha mạng, riêng reo chiến thắng của quân Đại Việt càng rộn rã khi những chiến binh của ta ào ào nhảy lên thuyền của chủ tướng Ô Mã Nhi. Hắn bị bắt sống cùng rất nhiều lương thực và vũ khí.
Quân ta hò reo ca khúc khải hoàn. Nắng càng vàng hơn. Tiếng trống, tiếng chiêng đã hết nhưng lòng binh sĩ vẫn chưa thôi rộn ràng. Nước sông lại trong xanh trở lại. Những kí ức về một trận chiến oai hùng sẽ mãi không phai trong tâm hồn những người dân Đại Việt bây giờ và mãi mãi về sau.
Trận chiến phòng không khốc liệt nhất trong lịch sử nhân loại là Trận Stalingrad diễn ra từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 2 năm 1943 giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến II. Trận chiến này được xem là một trong những trận chiến quyết định của Thế chiến II và có tầm ảnh hưởng lớn đến kết quả cuối cùng của cuộc chiến. Trận Stalingrad đã gây ra hàng triệu thương vong và thiệt hại cho cả hai bên, nhưng cuối cùng quân Liên Xô đã giành chiến thắng và đẩy lùi quân Đức Quốc xã.
Stalingrad được coi là một trong những chiến trường đẫm máu nhất trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, cũng như trong lịch sự nhân loại với sự tham gia của hàng triệu quân của cả phe phát xít và Hồng quân Liên Xô. Tại chiến trường lịch sử này, quân và dân Liên Xô đã chặn đứng đạo quân hùng hậu và thiện chiến của phát xít Đức và phe Trục để thay đổi cục diện chiến tranh từ năm 1942
-Trong trận đánh của triều đại nhà ngô, Đinh Tiền Lê, Lý, em thích nhất là trận chiến trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền
a, Nguyên nhân
-Năm 938, quân Nam Hán xâm lược nước ta lần thứ 2.
b, Diễn biến
-Cuối năm 938, đoàn thuyền chiến của quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy đã tiến vào vùng biển nước ta.
-Ngô Quyền đã cho một đoàn thuyền nhẹ ra khiêu chiến, nhử địch, tiển sâu vào bãi cọc ngầm.
-Nước triều rút, Ngô Quyền dốc toàn lực lượng, đánh quật trở lại
c, Kết Quả
-Trận chiến trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền kết thúc hoàn toàn thắng lợi
d, Ý nghĩa
-Kết thúc hơn 1000 năm phong kiếm phương Bắc đô hộ, khẳng định lền đọc lập lâu dài của tổ quốc.
k cho mik nha. Chúc bạn học tốt!
https://www.youtube.com/channel/UC4EZrcy3YGRb8yFpxgFeG1g?view_as=subscriber
TL:
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 là chiến công lớn nhất, chói lọi nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).
HT, mik chỉ bt thế, sai thì xl
- 1Thời Hồng Bàng
- 2Thời Bắc thuộc
- 2.1Chiến tranh Hán-Lĩnh Nam (42-43)
- 2.2Chiến tranh Đông Ngô-Việt (248)
- 2.3Chiến tranh Lương-Vạn Xuân (541-602)
- 2.4Chiến tranh Tùy-Vạn Xuân (602)
- 2.5Chiến tranh Đường-Việt
- 3Thời độc lập tự chủ (905-1407)
- 3.1Chiến tranh Nam Hán-Việt (938)
- 3.2Chiến tranh Tống-Đại Cồ Việt (981)
- 3.3Chiến tranh Tống-Đại Việt (1075-1077)
- 3.4Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt
- 3.5Chiến tranh Minh-Đại Ngu (1406-1407)
- 4Bắc thuộc lần thứ tư (1407 - 1427)
- 4.1Chiến tranh Minh-Đại Việt
- 5Thời độc lập (1428 - 1858)
- 5.1Chiến tranh Thanh-Đại Việt
- 6Thời Pháp thuộc, nửa phong kiến
- 6.1Chiến tranh Pháp–Thanh
- 7Thời hiện đại
- 7.1Hải chiến Hoàng Sa (1974)
- 7.2Chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc (1979)
- 7.3Xung đột biên giới Việt-Trung (1979-1990)
- 7.4Hải chiến Trường Sa (1988
1. Trận Bạch Đằng (năm 938)
2. Trận như Nguyệt (năm 1077)
3. Trận Đông Bộ Đầu (năm 1258)
4. Trận Bạch Đằng (năm 1288)
5. Trận Chi Lăng – Xương Giang (năm 1427)
6. Trận Rạch Gầm – Xoài Mút (năm 1785)
7. Trận Ngọc Hồi – Đống Đa (năm 1789)
8. Chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954)
9. Trận Điện Biên Phủ trên không (năm 1972)
10. Chiến dịch Hồ Chí Minh (năm 1975)
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 được đánh giá là một sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử nước Nga và lịch sử nhân loại vì:
- Đối với nước Nga:
+ Làm thay đổi hoàn toàn tình hình đất nước và xã hội Nga - nhân dân lao động và các dân tộc trong đế quốc Nga được giải phóng.
+ Mở ra kỉ nguyên nhân dân lao động làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
- Đối với thế giới:
+ Làm thay đổi cục diện thế giới, cổ vũ mạnh mẽ và để lại nhiều bài học quý báu cho phong trào cách mạng thế giới. (trong đó có cách mạng Việt Nam)
Những ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đối với Việt Nam:
- Dưới tác động và ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông và phong trào đấu tranh của công nhân các nước tư bản phương Tây phát trển mạnh mẽ và gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.Lực lượng các mạng của giai cấp vô sản các nước đều tìm con đường tập hợp nhau lại để thành lập tổ chức riêng của mình. Do đó tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ III) được hình thành ở Ma-xkơ-va, đánh dấu giai đoạn mới trong phong trào cách mạng thế giới. Các ĐCS nối tiếp nhau ra đời (ĐCS Pháp 1920, ĐCS Trung Quốc 1921... ), càng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam.- Cách mạng tháng Mười Nga và sự phát triển của phong trào Cách mạng vô sản thế giới đã tác động mạnh mẽ đến sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Năm 1920, sau khi đọc bản “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin,NAQ đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, đã tin theo Quốc tế Cộng sản, gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tích cực để truyền bá tư tưởng Mác – Lênin vào Việt Nam mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
* Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 được đánh giá là một sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử nước Nga và lịch sử nhân loại vì:
Cách mạng tháng Mười Nga thành công dẫn đến thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với nước Nga và toàn thế giới.
- Đối với nước Nga:
+ Mở ra một kỉ nguyên mới làm thay đổi hoàn toàn tình hình đất nước và số phận hàng triệu người ở nước Nga.
+ Lần đầu tiên trong lịch sử Nga, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc được giải phóng khỏi mọi gông xiềng nô lệ, đứnglên làm chủ đất nước và vận mệnh của mình.
+ Xây dựng một xã hội mới ở Nga, xã hội tự do, hạnh phúc và công bằng do nhân dân nắm chính quyền.
- Đối với thế giới:
+ Làm thay đỏi cục diện chính trị thế giới. Phá vỡ trận tuyến của chủ nghĩa tư bản, nó không còn là một hệ thống duy nhất trên thế giới.
+ Có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
+ Cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế, chỉ cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
* Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười đối với cách mạng Việt Nam
- Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản "Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lê nin và Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Đó là sự kết hợp phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cáp, kết hợp phong trào công nhân, phong trào yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản.
- Học tập Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập tổ chức Hội Việt nam cách mạng thanh niên là tiền thân của Đảng và được sự huấn luyện giảng dạy trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc nâng cao ý thức chính trị của Lê nin.
Cuộc cách mạng tháng Mười Nga ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Việt Nam thông qua con đường sách báo bí mật. Các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mạng... mở lớp đào tạo cán bộ, gây dựng cơ sở cách mạng trong nước.
Từ kinh nghiệm thắng lơi của cách mạng tháng Mười Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời 3-2-1930 đã lãnh đạo cách mạng Việt nam đến thắng lợi cuối cùng.
* Nguyên nhân
- Sau Cách mạng tháng Hai, Nga tồn tại 2 chính quyền song song. Hai chính quyền đại diện cho lợi ích của các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn tại lâu dài.
- Trước tình hình đó, Lê-nin và Đảng Bônsêvích đã xác định cách mạng Nga là chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng Xã hội chủ nghĩa (lật đổ chính quyền tư sản lâm thời).
- Đầu tháng 10/1917, không khí cách mạng bao trùm cả nước. Lê-nin đã về nước trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
* Kết quả
- Ngày 3/11/1918: chính quyền Xô viết giành thắng lợi trên khắp nước Nga rộng lớn.
* Tính chất: Cách mạng tháng Mười mang tính chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 được đánh giá là sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử nước Nga và nhân loại vì cách mạng tháng mười nga thành công dẫn đến thành lập nước xhcn đầu tiên trên tg mang tới nhiều ý nghĩa to lơn không chỉ trong nước mà còn đối iss quốc tế:
- Đối với nước Nga:
+ Đập tan ách áp bức, bóc lột của phong kiến, tư sản, giải phóng công nhân và nhân dân lao động.
+ Đưa công nhân và nông dân làm chủ đất nước và vận mệnh của mình, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Đối với thế giới: Làm thay đổi cục diện thế giới. Cổ vũ và để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho cách mạng thế giới.
Trả lời
Có lẽ là chiến tranh thế giới thứ 2
Có lẽ vậy
Các trận chiến Gettysburg, Cannae hay trận Stalingrad là những trận chiến thảm khốc xét về tổn thất quân số và sức phá hủy.