Có ý kiến cho rằng: " Sức hấp dẫn, thuyết phục của văn bản hịch tướng sĩ chính là nghệ thuật khích tướng". Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đặc sắc nghệ thuật góp phần tạo nên sức thuyết phục cho văn bản:
- Thủ pháp so sánh tương phản : Làm nổi bật hình ảnh đau thương người dân mất nước >< hình ảnh ngang ngược, tàn bạo của giặc Nguyên- Mông.
- Thủ pháp trùng điệp- tăng tiến được kết hợp với thủ pháp so sánh- tương phản nhằm tạo giọng điệu hùng hồn, trùng điệp, khắc vào tâm trí người đọc.
- Lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn đanh thép.
- Sử dụng các biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ, điệp ngữ, điệp ý…
- Linh hoạt trong cách sử dụng giọng điệu trong văn bản.
→ Nghệ thuật lập luận sắc bén, linh hoạt kết hợp với các thủ pháp tiêu biểu, lời lẽ khi tha thiết, khi nghiêm nghị nhằm tạo ra áng văn chính luận đanh thép, có sức thuyết phục cao.
Để diễn đạt một nội dung vừa có tính cách thuyết phục, vừa có tính cách phê phán, tác giả đã lập luận rất chặt chẽ như chúng ta đã thấy ở phần kết cấu và bố cục – lời lẽ có tình, có lí, khi thì thiết tha, khi thì đanh thép, chuyển từ đầu đến cuối một cách lôgíc.
Để phân rõ lẽ phải – trái, chính – tà, tác giả đi từ xa đến gần, từ vấn đề chung đến vấn đề cụ thể trước mất. Mở đầu, tác giả dẫn chứng trong sử sách đời xưa để nói khả năng của tướng sĩ đời nay, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Tác giả chuyển xuống phân tích nỗi giặc tàn ác như thế nào, nỗi mình thâm giao như thế nào, tiếp đó tác giả vạch ra hai viễn cảnh trái ngược nhau, rồi kết thúc bằng lời kêu gọi đanh thép; hoặc theo ta, hoặc theo giặc, hoặc là bạn, hoặc là thù, hoặc là danh thơm muôn thuở, hoặc là tiếng xấu nghìn thu. Phương pháp tương phản, đi đôi với lối văn biền ngẫu trong bài này thật là “đắc dụng”.
Ở đây chẳng những ý từng đoạn đôi nhau, mà ý từng câu đối nhau, từng chữ đối nhau. Chúng ta đọc đến đâu là lẽ phải – trái nổi bật đến đấy; “Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn,, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức. Nghe nhạc Thái thường đãi yến ngụy sứ mà không biết căm…”,
Rõ ràng, chữ đập nhau, đốinhau chan chát, ai là người không nhận rõ chính – tà?
Tác giả lại biết phối hợp phương pháp điệp ngữ, điệp ý để làm tăng thêm tính thiết tha, tính bi tráng của câu văn. Để đập vào tư tưởng an hưởng thái bình trong tướng sĩ lúc đó, tác giả viết: hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc… hoặc…”. Tác giả nêu lên hình tượng cựa gà trống bên áo giáp, mẹo cờ bạc bên quân mưu. Sự vật có vẻ hài hước, nhưng ý nghĩa thật nghiêm trang. Bằng phương pháp tương phản kết hợp phương pháp so sánh, tác giả nêu ra hai viễn cảnh:
Viễn cảnh u ám Viễn cảnh tươi đẹp
Thái ấp của ta: Không Bổng lộc các ngươi: Mãi mãi vững
còn + cũng mất bền + đời đời hưởng thụ
Gia quyến của ta: Bị tan + Vợ con các ngươi: Yên ấm gối chăn +
cũng khốn Bách niên giai lão
Xã tắc tổ tông của ta: Bị Mồ mả cha mẹ các ngươi: Muôn đời
giày xéo + bị quật lên tế lễ + Thờ cúng quanh năm
Để làm tăng thêm tính quan trọng của vấn đề, tác giả nhắc lại ý nghĩa đối với quần chúng nhân dân lúc bấy giờ và sự thanh nghị của người đời sautrong sử sách. Sau đó tác giả đặt một mệnh đề nghi vấn nhưng lại rất khẳng định:
Trong cảnh u ám: “Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?”.
Trong cảnh huy hoàng: “Lúc bấy giờ, dẫu các người không muốn vui chơi phỏng có được không?”.
Đây là một đoạn văn hùng biện tài tình, khích lệ cao độ lòng căm thù, chí phấn đấu. Nhà văn Đặng Thai Mai có nhận xét về đoạn văn này: “Văn thể đoạn này, lời lẽ một bài thuyết pháp. Đập từng chữ, dằn từng câu, Hưng Đạo Vương đánh mạnhvào tình cảm tu ố của bộ hạ, để cho họ biết chán, biết ghét, biết khinh bỉ cái đời hưởng thụ và vô ích của bọn tín đồ chủ nghĩa khoái lạc”.
Đặc điểm bài văn này còn ở chỗ tác giả biết cấu tạo hình tượng sinh động, sử dụng lời văn thích đáng. Để nêu những hi sinh trong sử sách, tác giả nêu lên những hình tượng “đem mình chết thay”, “chìa lưng chịu giáo”, “nuốt than”, “chặt tay”… Đối với giặc, tác giả dùng những hình tượng “uốn lưỡi cú diều”, “đem thân dè chó”. Chỉ mấy chữ đó cũng nói lên bản chất của giặc là xảo huyệt và hèn hạ. Như vậy lòng căm thù mới đến độ: bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Hình tượng “bêu đầu”, “làm rữa thịt” nói lên được cái uất hận trào lên của mọi người, của tướng sĩ và của chính bản thân Trần Quốc Tuấn… Những hình tượng “quên ăn”, “vỗ gối”, “ruột đau”, “nước mắt đầm đìa” chứa đựng một nội dung, một tấm lòng; cùng quân thù không đội trời chung. “Xả thịt lột da, uống máu quân thù” tám chữ nhưng chỉ một tấm lòng yêu nước, chí căm thù vào tim gan tướng sĩ, có tác dụng đánh bại tư tưởng an hưởng thái bình trong đầu óc tướng sĩ.
Để làm nổi bật các hình tượng, tác giả chú ý sử dụng lời văn. Ngoài cách chọn chữ, chọn lời của tác giả rất thích đáng, để cách sử dụng tiếng đưa đẩy (hư từ) rất tài tình. Chẳng hạn: “…chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các người cũng mất…”. Những từ “chẳng những”, “mở” được lặp lại nhiều lần, làm tăng vẻ thiết tha, bi tráng, hùng biện của bài văn. Có khi chỉ là một ý (như ở đoạn trên đãphá tư tưởng hưởng lạc…), nhưng tác giả hết sức chú ý diễn xuôi đảo ngược, nói đi nói lại, lời lẽ tình ý thấm từng giọt vào đường gân thớ thịt, vào kẽ tóc chân tơ… Trần Quốc Tuấn đã có một ưu điểm nổi bật: Bộc lộ lòng mình, lòng yêu non sông đất nước thắm thiết của mình, và từ đó lời nói tâm can của ông mới thấm lòng người, lòng tướng sĩ và khích lệ được lòng yêu nước của mọi người, của tướng sĩ. Giá trị thuyết phục của bài hịch chính là ở chỗ đã kết hợp ở mức độ cao hai yếu tố tình cảm và lí tính.