Xác định biện pháp nói giảm, nói tránh trong đoạn thơ sau và cho biết tác dụng của biện pháo tu từ này?
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo:
Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Quang Dũng.
– Giới thiệu bài thơ Tây Tiến.
– Giới thiệu đoạn thơ: Bằng bút pháp lãng mạn và vẻ đẹp bi tráng, đoạn thơ đã tạc lên bức tranh tượn đài người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lẫm liệt, hào hùng, hào hoa, lãng mạn bất tử với thời gian.
– Trích dẫn đoạn thơ: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc….. Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Thân bài:
– Giới thiệu khái quát:
+ Mạch cảm xúc chung: Bài thơđược viết trên nổi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỷ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Mỗi phần của một bài thơ là một nỗi nhớ, một nét Tây Tiến.
+ Vị trí đoạn trích: Kết cấu bài thơ logic của mạch hồi tưởng, từ thực tại vọng về hoài niệm để trở lại với thực tại. Trong trật tự ấy, tượng đài người chiến sĩ Tây Tiến được trân trọng khắc họa ở phần thứ ba của bài thơ.
– Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ:
+ Vẻ đẹp lẫm liệt, hào hùng: Bút pháp lãng mạn khiến chân dung người lính Tây Tiến toát lên vẻ đẹp phi thường, khác lạ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc.
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
+ Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”, “ quân xanh màu lá” a Hiện thực tàn khốc: Những ngừi lính Tây Tiến ăn đói mặc rét, gian khổ, khó khăn đến cùng cực, và bệnh sốt rét hoành hành khiến họ phải xanh da, trụi tóc.
+ Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng: đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất ( xanh xao tiều tụy) là sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tadn, lẫm liệt ( “ dữ oai hùm”).
+ Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới.
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Ở những người lính Tây Tiến, ta thấy vẻ đẹp của bản lĩnh, nét can trường hài hòa với trái tim đa cảm, mộng mơ:
Ở sự phẫn nộ sục sôi của nội tâm hướng về nhiệm vụ chiến đấu “ Mắt trừng”.
Ở khát vọng lập công cháy bóng dõi về tiền phương với giấc mộng chiến trường “gửi mộng qua biên giới”.
Ở tâm hồn lãng mạn, hào hoa, luôn rạo rực khao khát yêu đương: “ mơ Hà Nội dáng kiều thơm” a khát vọng tình yêu, hạnh phúc.
(Có thể so sánh thêm về nổi nhớ của người lính xuất thân từ nông dân trong bài “ Nhớ” của Hồng Nguyên và bài “Đồng Chí” của Chính Hữu).
+ Vẻ đẹp bi tráng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thân chiếu anh về đất
Sông mã gầm lên khúc độc hành
+ Sự bi thương:
Người lính phải hy sinh nơi rừng hoang biên giới, di hài phiêu bạc nơi đất khách quê người.
Khi chôn cất không cả mảnh chiếu để bọc thân.
Cái hùng tráng được thể hiện ở:
Những từ Hán Việt trang trọng.
Lí tưởng quên mình, cống hiến đời xanh cho Tổ Quốc, phảng phất chí khí anh hùng của người chiến sĩ xưa coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Cách nói sang trọng “ áo bào thay chiếu anh về đất”
Âm hưởng trầm hùng của tiếng “ gầm” con sông Mã
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ này là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
* Đáng giá:
– Đoạn thơ viết về chân dung người lính là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài Tây Tiến. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ vận dụng sáng tạo trong miêu tả và bộc lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ có hồn. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người Tây Tiến mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.
Kết bài:
– Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật đoạn thơ.
– Khẳng định vị trí bài thơ Tây Tiến trong bài Quang Dũng.
Bạn tham khảo bài này nha:
*Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Quang Dũng.
– Giới thiệu bài thơ Tây Tiến.
– Giới thiệu đoạn thơ: Bằng bút pháp lãng mạn và vẻ đẹp bi tráng, đoạn thơ đã tạc lên bức tranh tượn đài người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lẫm liệt, hào hùng, hào hoa, lãng mạn bất tử với thời gian.
– Trích dẫn đoạn thơ: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc….. Sông Mã gầm lên khúc độc hành
*Thân bài:
– Giới thiệu khái quát:
+ Mạch cảm xúc chung: Bài thơđược viết trên nổi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỷ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Mỗi phần của một bài thơ là một nỗi nhớ, một nét Tây Tiến.
+ Vị trí đoạn trích: Kết cấu bài thơ logic của mạch hồi tưởng, từ thực tại vọng về hoài niệm để trở lại với thực tại. Trong trật tự ấy, tượng đài người chiến sĩ Tây Tiến được trân trọng khắc họa ở phần thứ ba của bài thơ.
– Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ:
+ Vẻ đẹp lẫm liệt, hào hùng: Bút pháp lãng mạn khiến chân dung người lính Tây Tiến toát lên vẻ đẹp phi thường, khác lạ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc.
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
+ Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”, “ quân xanh màu lá” a Hiện thực tàn khốc: Những ngừi lính Tây Tiến ăn đói mặc rét, gian khổ, khó khăn đến cùng cực, và bệnh sốt rét hoành hành khiến họ phải xanh da, trụi tóc.
+ Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng: đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất ( xanh xao tiều tụy) là sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tadn, lẫm liệt ( “ dữ oai hùm”).
+ Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới.
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Ở những người lính Tây Tiến, ta thấy vẻ đẹp của bản lĩnh, nét can trường hài hòa với trái tim đa cảm, mộng mơ:
Ở sự phẫn nộ sục sôi của nội tâm hướng về nhiệm vụ chiến đấu “ Mắt trừng”.
Ở khát vọng lập công cháy bóng dõi về tiền phương với giấc mộng chiến trường “gửi mộng qua biên giới”.
Ở tâm hồn lãng mạn, hào hoa, luôn rạo rực khao khát yêu đương: “ mơ Hà Nội dáng kiều thơm” a khát vọng tình yêu, hạnh phúc.
(Có thể so sánh thêm về nổi nhớ của người lính xuất thân từ nông dân trong bài “ Nhớ” của Hồng Nguyên và bài “Đồng Chí” của Chính Hữu).
+ Vẻ đẹp bi tráng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thân chiếu anh về đất
Sông mã gầm lên khúc độc hành
+ Sự bi thương:
Người lính phải hy sinh nơi rừng hoang biên giới, di hài phiêu bạc nơi đất khách quê người.
Khi chôn cất không cả mảnh chiếu để bọc thân.
Cái hùng tráng được thể hiện ở:
Những từ Hán Việt trang trọng.
Lí tưởng quên mình, cống hiến đời xanh cho Tổ Quốc, phảng phất chí khí anh hùng của người chiến sĩ xưa coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Cách nói sang trọng “ áo bào thay chiếu anh về đất”
Âm hưởng trầm hùng của tiếng “ gầm” con sông Mã
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ này là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
* Đáng giá:
– Đoạn thơ viết về chân dung người lính là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài Tây Tiến. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ vận dụng sáng tạo trong miêu tả và bộc lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ có hồn. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người Tây Tiến mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.
*Kết bài:
– Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật đoạn thơ.
– Khẳng định vị trí bài thơ Tây Tiến trong bài Quang Dũng.
Bạn tham khảo nhé:
Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Chất “tráng sĩ ca” được bộc lộ một cách hào hùng và cùng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý thơ cổ (Chinh phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ “mồ viền xứ" gợi cảm giác buồn thầm lặng - sự hi sinh thầm lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn: “rải rác” đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ” không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lí tưởng cao đẹp nhất. Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem “nhẹ tựa lông hồng”.
Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống cùa cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.
Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Sự thật bi thảm là: người lính hi sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm áo bào sang trọng. “Áo bào” là sự kết hợp hai từ: “áo vải” và “chiến bào” khiến cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là cách nói mà theo Quang Dũng là để “an ủi linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức mạnh ngợi ca. Không thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước. Dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.
Đặc sắc của đoạn thơ không chi ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ”. Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các động từ là các từ Hán - Việt (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, sông Mã, khúc độc hành). Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.
Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.
Câu có sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh là "Chạy mỏi chân thì hãy ở tù". Thực tế tác giả bị thực dân bắt giam, tức là tư thế bị động nhưng cách nói "chạy mỏi chân thì hãy ở tù" đã chuyển từ bị động sang chủ động, con người vào tù như một lựa chọn trong con đường thực hiện sự nghiệp cách mạng. Chốn ngục tù chỉ như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi cho bớt mệt mỏi.
Qua đó cho thấy tư thế lạc quan, ung dung, cách nhìn vượt lên trên khó khăn gian khổ của người chí sĩ yêu nước.
Nghị luận về hiện tượng học sinh vứt rác bừa bãi trong trường học
Hiện tượng vứt rác bừa bãi của học sinh ở khu vực trường học
Ô nhiễm môi trường nơi trường học.
vào cái ......... thống kê của mk
a, ptbđ chính là biểu cảm
b,Từ láy: loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh.
Tác dụng: các từ láy góp phần khắc họa hình ảnh chú bé Lượm xinh xắn, đáng yêu, nhanh nhẹn.
c.Các yếu tố nghệ thuật được thể hiện là các biện pháp tu từ như các từ láy gợi hình, so sánh (câu như con chim chích), so sánh ngầm( câu Nhảy trên đường vàng ở đây chỉ con đường được nắng vàng soi xuống và có lúa vàng chín)