Câu 3: (2.0 đ) Trong đoạn thơ vừa chép có câu thơ: “Vẻ non xa tấm trăng
gần ở chung”. Có bạn cho rằng phải viết: “Vẻ non gần, tấm trăng xa” mới
chính xác. Em có đồng ý với ý kiến trên hay không? Vì sao? Bút pháp nghệ
thuật quen thuộc trong thơ trung đại nào được sử dụng trong đoạn trích?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Từ câu thơ, đọc giả thấy được nỗi u uất sầu buồn của Kiều khi bị giam cầm tuổi trẻ của mình vào chốn loạn lạc ái ố. Ở cùng với cảm xúc ấy của nàng là thiên nhiên đẹp đẽ ngoài kia, khi người thưởng buồn thì họ cũng thấy cảnh đẹp ấy sao lại sầu não đến lạ. Tác giả với cái tài nghệ thuật tâm lý nhân vật đã phác lên một vẻ non xa rợn ngợp tựa ở dưới đất thông qua nỗi buồn của nhân vật Kiều lại gần tấm trăng trên trời. Mà gọi "trăng" nhà thơ dùng "tấm" càng gợi về hy vọng được tự do của nàng Kiều, tấm trăng ấy cũng như tấm thân Kiều mong muốn được gần chung với vẻ non xa ngoài kia chứ không phải là bị giam ở lầu Ngưng Bích cùng cuộc sống cô đơn lẻ loi. Từ đây ta thấy được vẻ đẹp của câu thơ không chỉ sắc sảo thể hiện nỗi niềm của người con gái tài sắc vẹn toàn với cuộc sống bấp bênh trôi nổi, mà còn tinh tế thể hiện ước muốn được tự do nhỏ bé của Kiều.
mik ngại làm mấy câu cảm nhận lám bn tự làm câu 5 nha =)))
câu 1.
- 6 câu trên đc trích trong tác phẩm kiều ở lâu ngưng bích
- nội dung chính là nói về tâm trạng nàng kiều trước lầu ngưng bích
câu 2. phương thức biểu đạt chính là tự sự
câu 3. Từ "xuân" trong đoạn trích trên là nghĩa chuyển " nói về tuổi tác "
câu 4. bút pháp tả cảnh ngụ tình
Em tham khảo:
Thiên nhiên và tạo hóa đã ban tặng cho chúng ta rất nhiều "của quý". Nhờ có thiên nhiên mà đất nước chúng ta mới phát triển được như ngày hôm nay. Vậy thiên nhiên là gì và thiên nhiên có vai trò quan trọng như thế nào khiến chúng ta có thể khẳng định một cách dõng dạc đến như vậy? Tôi cũng chẳng biết giải thích thiên nhiên là gì chỉ biết đó chính là đất, là nước, là rừng, là tài nguyên quý báu. Hơn thế nữa, thiên nhiên có vai trò hết sức đặc biệt trong cuộc sống của con người. Trước hết, nó cung cấp nước, nuôi sống con người. Thử hỏi xem, nếu không có nguồn nước, làm sao chúng ta có thể sinh sống, làm sao cuộc sống của chúng ta mới đầy đủ và ấm no. Gỉa sử như nếu không có nước, thì hành tinh này sẽ chẳng bao giờ có sự sống. Bên cạnh đó, thiên nhiên còn cho chúng ta đất để nuôi trồng, để xây dựng nhà cửa,... một cách vô điều kiện. Mỗi năm, các công ti xí nghiệp thi hành biết bao nhiêu công trình để nâng cao tiềm lực của đất nước cũng như thay đổi màu áo mới cho nước nhà. Nếu không có đất, chúng ta sẽ chẳng có nhà cao thậm chí cũng không có thức ăn. Kể làm sao cho hết được vai trò to lớn của thiên nhiên. Ấy thế mà, cạnh bên những người biết gìn giữ sắc đẹp của thiên nhiên, vẫn còn một số bộ phận hằng ngày hằng giờ làm trái pháp luật, hủy hoại thiên nhiên. Như phá rừng, chặt phá cây bừa bãi để khai thác gỗ, làm ruộng, hay sử dụng chất cấm, thuốc nổ để đánh bắt thủy sản. Thật là đáng bị chỉ trích và lên án. Việc làm đó đòi hỏi các nhà chức trách phải mạnh tay hơn nữa, phải tiến hành những biện pháp mang tính răn đe, xử lí kịp thời. Thật vậy, thiên nhiên chính là vàng, là bạc của chúng ta. Mỗi người hãy nâng cao ý thức bảo vệ thiên nhiên.
Tham khảo:
Sáu câu đầu đoạn trích "Kiều ở lầu ngưng bích” Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn đầy tâm trạng của Thúy Kiều. Câu thơ đầu với từ "khóa xuân” gợi cho người đọc thấy được hoàn cảnh rất tội nghiệp của Kiều lúc này: Nàng bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Từ trên lầu cao nàng phóng tầm mắt ra thế giới tự nhiên, trước mắt nàng là dãy núi mờ xa, trên đầu là một tấm trăng lạnh lẽo, xung quanh là bốn bề bát ngát với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Từ láy "bát ngát” gợi lên không gian mênh mông rợn ngợp gợi cảm giác lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời đất. Cái lầu chơi vơi ấy giam hãm một số phận con người. Cảnh ở đây là cảnh thực nhưng cũng có thể là cảnh mang tính ước lệ để gợi lên sự mênh mông rợn ngộp của không gian, qua đó làm nổi bật tâm trạng cô đơn của Kiều, không chỉ cảm nhận về không gian Kiều còn cảm nhận về thời gian "mây sớm đèn khuya” diễn tả thời gian tuần hoàn khép kín. Sáng và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng rơi vào cảnh cô đơn tuyệt đối khiến nàng cảm thấy bẽ bàng:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Nhà thơ dùng từ "bẽ bàng" để diễn nỗi xấu hổ tủi thẹn của Kiều, buồn vì cảnh hoang vắng, buồn vì mối tình đầu dang dở khiến lòng như bị xé: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Như vậy từ cảnh vật ở lầu Ngưng Bích, sáu câu thơ đầu Nguyễn Du đã khắc họa sâu sắc tâm trạng cô đơn vô vọng của Thúy Kiều.
Cảm ơn bạn đã trả lời câu hỏi của mình nhưng mình cần bài văn chứ k cần bài văn . xin lỗi :<
tk:
Đoạn trích trên tác giả Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để thể hiện tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều,ngay câu thơ mở đầu: "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân", Nguyễn Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều. "Khóa xuân" tức khóa kín tuổi xuân, tuổi thanh xuân của Kiều bị khóa kín, bị kìm hãm dường như không thể có lối ra.nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Qua đó làm nổi bật hoàn cảnh tâm trạng bẽ bàng của Kiều. từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều,phải chăng nàng đang cố tìm tia sáng của sự hạnh phúc ở đâu đó xa kia. Tính từ “bẽ bàng” đã đưa nàng trở veeg với hiện thực và gợi sự và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận và duyên phận bấp bênh của mình. Vì thế tâm trạng của Kiều mới: “nửa tình – nửa cảnh như chia tấm lòng”.Tóm lại, bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã vẽ nên khung cảnh lầu Ngưng Bích rất rộng lớn, mênh mông và tâm trạng cô đơn của Kiều.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Phong cảnh rất hữu tình, thơ mộng. Không gian được mở ra ba chiều, vừa có chiều xa, chiều cao, chiều rộng: “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng cồn nọ”, “bụi hồng dặm kia”. Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản “non xa”/”trăng gần”, đảo ngữ, từ láy “bát ngát” gợi không gian rợn ngợp, vắng lặng không một bóng người. Đối diện với cảnh ấy, Kiều cảm thấy trống trải cô đơn. Cảnh hoang vắng, rợn ngợp, nhuốm màu tâm trạng. Khung cảnh mênh mông “bát ngát xa trông” nhưng lại thiếu vắng hơi ấm của con người. Chỉ có một mình Kiều cô độc, ngày đêm đối diện với chính mình. Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung cảnh làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình. Thiên nhiên rộng lớn mà con người nhỏ bé, đơn côi. Qua đó, có thể nói đây là tâm trạng của Kiều những ngày đầu ở lầu Ngưng Bích, một tâm trạng sống không bằng chết, cô đơn chán nản cuộc đời và mất lòng tin ở con người.