K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 12 2016

giáo viên ko ghi à ??

 

22 tháng 12 2016

cô bé bán diêm :

- nghệ thuật tăng cấp ( trong các lần quẹt diêm )

- nghệ thuật đối lập tương phản ( ảo ảnh & thực tại )

( đây là 2 nt mà mk nghĩ là tiêu biểu nhất )

vào nhà ngục QĐ cảm tác : chủ yếu ở ghi nhớ

1 tháng 12 2017

- Nội dung: bài thơ đã khắc họa phong thái ung dung, đường hoàng, phí phách kiên cường bất khuất, vượt lên trên hoàn cảnh tù ngục của nhà cách mạng Phan Bội Châu.

- Nghệ thuật: giọng điệu hào hùng, khoa trương, bút pháp lãng mạn vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ thất ngôn bát cú với các phép đối chặt chẽ làm cho tầm vóc nhân vật trữ tình trở nên lớn lao, kì vĩ.

12 tháng 12 2015

- Họ đều là những người giàu lòng yêu nước, hi sinh tất cả vì sự nghiệp cứu nước.

- Có khí phách hiên ngang, lẫm liệt, có ý chí dời non lấp biển.

- Coi thường hiểm nguy gian khổ và những đòn roi tra tấn của kẻ thù.

= > Họ là những biểu tượng đẹp, là niềm tự hào của các thế hệ của dân tộc.

 

14 tháng 12 2016

Dố là vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn của những người anh hùng cứu nước trước hết ở khí phách ngang tàn lẫm liệt ngay cả khi bị đe dọa đến tính mạng. Họ xem việc phải vào tù như một bước dừng chân tạm nghỉ. Vẻ đẹp ấy còn biểu hiện ở ý chí chiến đấu sắt son .

Bạn thi học kì I Văn chưa ? Nếu rồi thì cho mình xin cái đề để tham khảo nhé !

14 tháng 12 2016

26 mình mới thi, mà bạn làm ngắn ri

 

3 tháng 2 2018

Chọn đáp án: A

1 tháng 12 2018

Bài thơ toát lên một tinh thần bất khuất, một tư thế vững vàng của bậc trượng phu trong cơn sóng gió. Truyền thống yêu nước, chí khí anh dũng của dân tộc đang tiếp tục mạch chảy bất tận trong tâm huyết chí sĩ Phan Bội Châu. Hình ảnh người anh hùng đã tạc vào lịch sử như một minh chứng cho tinh thần yêu nước, xả thân vì lí tưởng chính nghĩa. 

#Team8B#

Bài làm

( Mình chỉ soạn bài cho bạn dễ làm thôi nhá, có cần gì thì vào câu trả lòi của mình, có hết đấy ).

Soạn bài: Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác

Bố cục

   + Hai câu đề: Khẳng định tinh thần bất khuất phi thường

   + Hai câu thực: chiêm nghiệm về cuộc đời sóng gió

   + Hai câu luận: Hình tượng bậc anh tài có tài năng, chí khí

   + Hai câu kết: sự bền chí, vững lòng của anh hùng

Thể loại: Thơ thất ngôn bát cú Đường luật

Câu 1 (trang 147 sgk Ngữ Văn 8 tập 1)

- Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu

   + Tự xưng mình là hào kiệt: ý thức mạnh mẽ về tài năng, chí khí của bản thân

   + Ý thức về cốt cách, phong thái ung dung, hào hoa, phong lưu

   + Điệp từ "vẫn" khẳng định chắc chắn bản lĩnh của bậc anh hào.

- Chạy mỏi chân thì hãy ở tù

   + Thản nhiên, lạc quan, hiên ngang dù rơi vào cảnh ngục tù

   + "mỏi chân" nên " ở tù": sự chủ động nghỉ ngơi như lẽ tất yếu

   + Hiên ngang khinh thường cảnh tù ngục

= > Khí phách của người anh hùng trước hiểm nguy vẫn kiên cường, lạc quan. Chí khí này thường tồn tại trong nền văn học truyền thống (thơ tỏ chí)

Câu 2 ( trang 147 sgk Ngữ văn 8 tập 1)

- Giọng thơ có sự thay đổi: từ giọng hào hùng, ngang tàng chuyển sang giọng trầm lắng, suy tư lúc lâm nguy

- Nhìn thẳng vào hoàn cảnh khó khăn của bản thân ( khách không nhà, người có tội) để kiên tâm, vững chí hơn trên con đường còn gian nan.

- Lời tâm sự chân tình có ý nghĩa:

   + Thể hiện cuộc đời làm cách mệnh gian nan, khó khăn, phải bôn ba xứ người, xa quê, xa người thân

   + Tạo hình ảnh đối lập giữa hai cặp câu nhấn mạnh sự lênh đênh, cuộc đời sóng gió qua đó nổi bật lên hình ảnh người chí sĩ yêu nước kiên cường.

Câu 3 (trang 147 sgk Ngữ Văn 8 tập 1)

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế

Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Ý nghĩa 2 câu thơ 5- 6:

   + Khẳng định sự quyết tâm bền chí trước sự nghiệp cứu nước, cứu đời lớn lao

   + Tiếng cười của bậc anh hùng vẫn ngạo nghễ, đập tan những oán thù

- Lối nói quá nhằm:

   + Nâng lên sức vóc người anh hùng lên tới mức siêu nhiên, phi thường

   + Tạo giọng điệu hào hùng chung cho toàn bài thơ

- Cặp câu này vẫn tuân thủ quy tắc đối nhằm giữ nhịp cho toàn bài

Câu 4 (trang 147 sgk Ngữ Văn 8 tập 1)

Hai câu thơ cuối:

   + Kết tinh cao độ ý chí và cảm xúc lãng mạn hào hùng của tác giả

   + Điệp từ "còn" nhấn vào sự tiếp diễn, tiếp tục chiến đấu vì đất nước

   + Lời thách thức "nguy hiểm sợ gì đâu": giữ vững ý chí, lý tưởng, kiên định với sự nghiệp cứu nước, vươn lên, bất chấp những hiểm nguy.

Luyện tập

Bài 1 (trang 148 Ngữ Văn 8 tập 1)

- Thể thơ thất ngôn bát cú bắt nguồn từ thơ Đường, phổ biến ở Việt Nam vào thời Bắc thuộc, chủ yếu cây bút quý tộc sử dụng.

   + Cấu trúc bài thất ngôn bát cú gồm 8 câu, 7 chữ tạo thành đề- thực- luận– kết

   + Luật lệ bằng trắc:

      Các tiếng nhất(1)- tam(3)- ngũ (5) bất luận

      Các tiếng nhị (2)- tứ(4) lục (6) phân minh

   + Gieo vần: các tiếng cuối câu 1, 2, 4, 6, 8 hiệp vần với nhau

- Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật: 8 câu, 7 chữ, gieo vần ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8.

Nội dung chính

Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác thể hiện phong thái ung dung, khí phách hiên ngang kiên cường, bất khuất vượt mọi hoàn cảnh tù ngục của nhà chí sĩ cách mạng

# Chúc bạn học tốt #

17 tháng 12 2021

Tham khảo :

Hai bài thơ đều nói về chí làm trai, thể hiện khẩu khí của những bậc anh hùng hào kiệt khi sa cơ, lỡ bước rơi vào vòng tù ngục.Họ là những người yêu nước sâu sắc, hi sinh tất cả vì sự nghiệp cứu nước. Hình tượng người chí sĩ hiện lên thật hào hùng, khí phách ngang tàng, lẫm liệt ngay cả trong thử thách, gian nan có thể đe dọa đến tính mạng. Coi thường những thử thách, gian nan trước mắt và lạc quan tin tưởng vào tương lai phía trước.Họ là những người yêu nước sâu sắc, hi sinh tất cả vì sự nghiệp cứu nước, khôngCó khí phách hiên ngang, lẫm liệt, có ý chí dời non lấp biển.

=> Họ là những biểu tượng đẹp, là niềm tự hào của các thế hệ của dân tộc. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp anh hùng và lãng mạn của các nhà nho đầu thế kỉ XX.

16 tháng 9 2019

- Ý nghĩa của cặp câu 5-6: Ước vọng trị nước cứu đời, muốn làm cho thiên hạ thái bình, sống trong an vui “tan cuộc oán thù”.

- Lối nói khoa trương có tác dụng: Cho thấy khẩu khí của người anh hùng, ước vọng cao đẹp của người chí sĩ yêu nước.

30 tháng 1 2016

                 Trong thời gian nước ta bị thực dân Pháp thống trị, nhiều chiến sĩ yêu nước đã bị bọn thực dân giam giữ tù đày. Nhiều tù nhân - chiến sĩ đó đã sáng tác thơ văn ngay trong nhà tù để tỏ chí mình, vừa để động viên lẫn nhau; hình thành nên cả một dòng văn học trong tù, với không ít tác phẩm đầy nhiệt khí quật cường yêu nước hay thấm thìa ý vị trữ tình đa dạng. Một trong những tác phẩm xuất sắc ấy là bài thơ ‘ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác’ của Phan Bội Châu viết trong bối cảnh một cái án tử hình đang treo sấn chờ tác giả của nó ở Đông Dương.

                Hình ảnh người tù trong bài hiện lên trong một tư thế hết sức đàng hoàng, đẹp đẽ, tư thế ‘phong lưu’ của một trang ‘hào kiệt’. Với giọng khẳng định nhấn mạnh hai lần chữ ‘vần’, ta không hề thấy một chút tự ti buồn nản ở người tù. Đối với cụ, đây chỉ là một dịp nghỉ ngơi sau khi đã ‘chạy mỏi chân’ vì bôn ba trên đường cứu nước, cảnh ngục tù, án tử hình... không hề có một tác động tiêu cực nào đối với Phan Bội Châu. Trái lại, hoàn cảnh gian nan đe doạ ấy hình như chỉ càng kích thích khí phách quật cường, bản lĩnh son sắt của nhà chí sĩ yêu nước này.

                Tuy nhiên, cụ không phải lên gân, giả bộ để tự an ủi mình nguôi khuây nạn tù đày. Cụ vẫn nhìn thẳng vào thực tế khắc nghiệt, không hề có ý xoa dịu cảnh ngộ gay go mà bản thân đang phải chịu đựng. Cụ nhận rõ tình huống gian nan cao độ khi ấy của thân phận mình - một người đang bị thực dân săn lùng ráo riết, buộc phải xa quê hương đất nước, nếm trải cuộc đời long đong, căng thẳng suốt bấy lâu:

                              ‘Đã khách không nhà trong bốn biển

                              Lại người có tội giữa năm châu’.

                   Trong tình thế và tâm trạng ấy, người ta càng khâm phục ý chí lạc quan, niềm tin không lay chuyển của tác giả vào sự nghiệp cứu nước đầy gian nan thử thách chất chồng. Cụ tự nhủ, dù sao đi nữa, vẫn quyết ‘dang tay ôm chặt’ lấy công cuộc kinh bang tế thế - trị nước, cứu đời. Cụ tín tưởng ‘Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp’ tự hẹn mình còn sống thì còn đấu tranh cho sự nghiệp, nguy hiểm bao nhiêu đó nữa cũng không thể nhụt chí, nản lòng.

                   Tấm lòng son sắt, tinh thần lạc quan ấy bắt nguồn từ lòng yêu nước mãnh liệt đã hun đúc nên bản lĩnh kiên cường trước sau không hề chùn bước của Phan Bội Châu - nhà yêu nước số một của dân tộc ta hồi đầu thế kỉ này. Bài thơ này thật đáng quý. Nó đã khắc hoạ được một bức chân dung tinh thần rất cao cả, đẹp đẽ của nhà yêu nước lớn đầu thế kỉ. Cùng với ‘Nhật kí trong tù’ của Hồ Chí Minh sau này, những tác phẩm viết trong ngục của Phan Bội Châu là một di sản vô giá của chúng ta. Nó để lại cho đời đời con cháu được chiêm ngưỡng một nhân cách kì diệu: vẫn ngời ngợi một chí lớn hào kiệt, hiên ngang một tư thế phong lưu, sắt son một niềm tin tươi sáng ngay giữa gông cùm tù ngục, trước cái chết đang rình rập bủa vây.

                     Thế hệ trẻ của chứng ta đang bước vào thế kỉ mới. Hãy ôn lại cho thật thấm nhuần bản lĩnh son sắt ấy của một nhà yêu nước lớn đầu thế kỉ này, coi đấy như một thứ hành trang tinh thần quý báu, một nguồn năng lượng siêu sạch giúp ta trưởng thành, vững vàng hội nhập với thế giới hôm nay.

30 tháng 1 2016

               Đầu thế ki XX, khi các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược ở cả ba miền lần lượt thất bại, một bầu không khí đau thương bao trùm trên đất nước ta. Trong văn chương, bên cạnh những bài ca hùng tráng đã xuất hiện những tiếng thở than bi phẫn và bất lực.

               Phong trào cần vương do vua Hàm Nghi khởi xướng đã bị dập tắt. Ông vua yêu nước bị chính quyền thực dân bắt đi đày trên một hòn đảo mịt mù giữa đại dương, cách biệt hẳn đất nước và dân tộc. Tuy vậy, chí báo thù phục quốc vẫn âm ỉ nung nấu trong mọi tầng lớp nhân dân. Bước sang đầu thế ki XX, luồng gió mới của tư tưởng dân chủ tư sản từ Âu châu thổi tới, từ Nhật Bản, Trung Hoa tràn sang đã thúc đẩy những người có tâm huyết với sự nghiệp cứu nước lại náo nức khởi sự một cuộc đấu tranh theo khuynh hướng mới, với mục đích vừa đánh đuổi kẻ thù xâm lược, vừa tấn công vào giai cấp phong kiến tay sai cam tâm bán nước. Chủ trương của họ là khai thông dân khí, mở mang dân trí, chấn hưng công thương nghiệp, để nước nhà phát triển toàn diện, đạt tới mức văn minh, giàu mạnh. Phương pháp thực hiện có thể khác nhau (có phái chủ trương bạo động, có phái chủ trương ôn hòa) nhưng đều nhằm mục đích cao cả là đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Bởi thế, các khuynh hướng không loại trừ nhau mà hợp nhất thành cao trào đấu tranh cách mạng lan rộng khắp nơi. Thực dân Pháp khủng bố dã man, phong trào tạm lắng, những người lãnh đạo phần lớn phải vào tù hoặc lưu lạc ở nước ngoài.

                Một số chí sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều xuất thân là nhà Nho nhưng lại tiếp thu rất nhanh những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trong lao tù của bọn thực dân, họ thường làm thơ để bày tỏ chí khí. Đó là những lời gan ruột, tâm huyết của những người anh hùng cứu nước nên có sức mạnh làm rung động lòng người.

                Từ năm 1912, thực dân Pháp đã kết án tử hình vắng mặt nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Khi bị bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) bắt giam và biết chúng có ý định trao trả cho Pháp, cụ Phan Bội Châu đã nghĩ rằng mình khó có thể thoát chết. Bởi thế, đầu năm 1914, ngay từ những ngày đầu bị giam vào ngục, cụ đã viết Ngục trung thư; nhằm ghi lại những điều tâm huyết để lại cho đồng bào, đồng chí. Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác theo lời cụ là làm để tự an ủi mình. Cụ còn kể rằng sau khi làm xong, cụ đã “ngâm nga lớn tiếng rổi cả cười vang động cả bốn vách, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục”. Nội dung bài thơ như sau:

                               Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,

                               Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

                               Đă khách không nhà trong bốn biển,

                               Lại người có tội giữa năm châu.

                               Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

                               Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

                              Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,

                               Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

               Bài thơ mang đậm khẩu khí anh hùng này đã khắc hoạ rõ nét khí phách hiên ngang, bất khuất và hình ảnh tuyệt đẹp của người chiến sĩ cách mạng lúc sa cơ.

               Thể thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: đề, thực, luận, kết, mỗi phần chỉ có hai câu ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một nội dung cực kì hàm súc.

               Hai câu đề:

                                Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,

                                 Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

                Một tù nhân mà vẫn tự khẳng định mình là bậc hào kiệt, phong lưu, điều đó thể hiện phong thái đường hoàng, tự tin, vừa ung dung, thanh thản, vừa hiên ngang bất khuất, lại vừa tài hoa tài tử. Người chiến sĩ cách mạng chẳng may rơi vào vòng tù ngục thì cứ coi như người đi đường dài chạy mỏi chân thì nghỉ một chút để lấy sức đi tiếp. Thực chất không phải như vậy. Cụ Phan kể rằng trên đường bị áp giải đến nhà lao, bọn lính đã đối xử với cụ rất tàn nhẫn: nào trói tay, nào xiềng chân. Vào ngục, cụ lại bị giam chung một chỗ với bọn tử tù. Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Đúng là như vậy ! Bị giam cầm có nghĩa là bị tước đoạt tự do, bị đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần và cận kề cái chết. Ấy vậy mà người anh hùng vẫn ngẩng cao đầu và cảm thấy mình vẫn hoàn toàn tự do về mặt tinh thần. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn ấy nên khi bàn đến sự sống chết, Phan Bội Châu vẫn nói bằng giọng cười cợt như vậy. Đây là lối thơ khẩu khí khá phổ biến trong văn chương dùng để nói lên chí lớn của người xưa.

                Hai câu thực:

                                 Đã khách không nhà trong bốn biển,

                                Lại người có tội giữa năm châu.

                Nhà thơ tóm lược về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Mười năm lưu lạc, khi Nhật Bản, khi Trung Quốc, khi Xiêm La (Thái Lan), xa mái ấm gia đình, chịu trăm ngàn cực khổ về vật chất, cay đắng về tinh thần; thêm vào đó là sự hiểm nguy thường xuyên đe doạ vì cụ Phan là đối tượng truy nã đặc biệt của thực dân Pháp và đã bị chúng kết án tử hình vắng mặt. Phan Bội Châu nói như vậy không phải là để than thân mà chỉ nêu lên bi kịch chung của các chí sĩ yêu nước thời bấy giờ.

                 Cuộc đời đầy sóng gió của cụ Phan gắn liền với tình cảnh nô lệ của đất nước, đồng bào. Giọng điệu trầm thống của hai câu thơ trên phần nào thể hiện được tâm trạng đau đớn, xót xa của bậc anh hùng cứu nước.

                 Hai câu luận:

                            Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

                           Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

                 Đúng là khẩu khí của một bậc đại trượng phu. Cho dù gặp hoàn cảnh bi đát đốn mức độ nào thì lí tưởng kinh bang tế thế, lo đời giúp dân của Phan Bội Châu vẫn không thay đổi. Trước sau cụ vẫn một lòng theo đuổi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách thống trị của giặc ngoại xâm. Lí tưởng và mục đích cao cả ấy đã giúp cụ giữ vững khí tiết cương cường, tư thế hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù.

                Lối nói khoa trương này thường được dùng nhiều trong thơ ca lãng mạn, nhất là trong anh hùng ca. Nó nâng cao tầm vóc và năng lực của con người lên đến mức siêu nhiên, thần thánh.

                Từ thuở thanh niên, Phan Văn San (tên thật của Phan Bội Châu) đã nuôi chí lớn chờ thời cơ cứu nước:

                           Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,

                           Nắm địa cầu vừa một ti con con.

                           Đạp toang hai cánh càn khôn,

                           Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà…

                                                          (Chơi xuân)

                Gần như suốt cuộc đời, cụ Phan đã chấp nhận gian khổ, hi sinh để theo đuổi và thực hiện lí tưởng thiêng liệng ấy.

                Hai câu kết:

                           Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,

                            Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

                Ý chí gang thép và niềm tin to lớn của người anh hùng quả là không gì lay chuyển nổi. Con người ấy còn sống nghĩa là còn tiếp tục chiến đấu, còn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng, vì thế mà bất chấp mọi thử thách gian nan.

                Từ còn lặp lại hai lần liền nhau ở giữa câu thơ vừa có tác dụng ngắt nhịp, vừa nhấn mạnh ý thơ. Hai câu kết như một tuyên ngôn dõng dạc, dứt khoát, có sức truyền cảm mạnh mẽ, lớn lao, lay động hồn người.

                 Phan Bội Châu được nhân dân tôn vinh là một trong những nhà chí sĩ yêu nước và cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX. Tên tuổi và gương sáng của cụ ảnh hưởng rộng rãi tới phong trào giải phóng dân tộc không chi trong thời kì đó mà mãi mãi về sau.

                 Người chiến sĩ cách mạng lão thành họ Phan dù trải qua bao giông bão cuộc đời vẫn giữ vững khí tiết của một bậc chính nhân quân tử: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. (Giàu sang không thể làm cho mê đắm, nghèo khó không thể làm cho thay lòng đổi dạ, uy vũ không thể làm cho khuất phục). Tuy xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng cụ đã vượt khỏi khuôn khổ cứng nhắc của giáo lí thánh hiền để tiếp cận tư tưởng dân chủ, dân quyền mới. Trước cảnh đồng bào đang chịu cảnh lầm than, nô lệ, cụ đau đớn, xót xa và nuôi khát vọng xoay chuyển càn khôn, đánh đuổi quân thù, đem xuân vẽ lại cho non nước nhà. Với lí tưởng cao đẹp đó, cụ lao vào cuộc đấu tranh, bất chấp mọi gian khổ, hi sinh, thậm chí đối diện với cái chết, cụ cũng không sờn lòng, nản chí. Bởi thế nên đối với cụ, dẫu có sa cơ, rơi vào vòng tù ngục thì chẳng qua cũng chi là dừng bước tạm nghi trên con đường đấu tranh lâu dài và gian khổ.

                 Ở bài thơ này, các biện pháp nghệ thuật thường thấy trong thơ Đường như nghệ thuật đối: bốn biển – năm châu, bủa tay – mở miệng, bồ kinh tế – cuộc oản thù… được sử dụng hợp lí đã làm cho tầm vóc của nhân vật trữ tình trở nôn lớn lao, kì Vĩ, phù hợp với giọng điệu hào hùng. Cảm xúc chân thành của tác giả đã tạo nên sức sống bất diệt cho bài thơ.