K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

28 tháng 1 2016

Duyên hải miền Trung có nhiều lợi thế để hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp .
-Duyên hải miền Trung là một trong những vùng có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú, đó là các khoáng sản kim
loại, phi loại có trữ lượng lớn nhất nhì cả nước.
          +Khoáng sản kim loại điển hình có mỏ sắt Thạch Khê lớn nhất cả nước trữ lượng hơn 500 triệu tấn trong tổng số hơn 1 tỷ
tấn sắt cả nước.
          + Có mỏ Crôm Cổ Định- Thanh Hoá duy nhất cả nước .
          + Có mỏ Măng gan Nghệ An lớn thứ 2 cả nước sau Cao Bằng.
Các mỏ khoáng sản kim loại này cho phép duyên hải miền Trung xây dựng nhiều nhà máy luyện kim đen quy mô lớn, điển
hình là luyện gang thép đồng thời có thể khai thác khoáng sản tạo ra nguồn nguyên liệu xuất khẩu có giá trị lớn, điển hình là xuất
khẩu quặng Crôm.

-Khoáng sản kim loại màu điển hình có mỏ Thiếc Quỳ Hợp - Nghệ An trữ lượng lớn vào loại nhất cả nước, mỏ Vàng Bồng
Miêu duy nhất ở cả nước. Hiện nay 2 loại khoáng sản này là mặt hàng xuất khảu rất có giá trị vàcũng là cơ sở để thu hút các nguồn
vốn đầu tư nước ngoài và các dự án liên doanh quốc tế.

-Duyên hải miền Trung là một trong những vùng có trữ lượng về VLXD lớn thứ nhì cả nước, điển hình là đá vôi tập trung
lớn nhất ở khu vực BTbộ như Thanh hoá, Nghệ An, Quảng Bình là nguyên liệu làm xi măng rất tốt, cho nên khu vực này có khả
năng xây dựng nhiều nhà máy xi măng điển hình xi măng Bỉm Sơn công suất hơn 1 triệu tấn/ năm trong tương lai có thể xây dựng
và hoàn thiện thêm nhà máy xi măng Nghi Sơn- Thanh Hoá.

-Trong vùng có trữ lượng lớn nhất cả nước dó là cát thuỷ tinh trong có chứa hàm lượng ôxít Ti tan khá lớn. Vì vậy, cát thuỷ
tinh vừa là nguyên liệu sản xuất kính, pha lê có giá trị vừa là nguyên liệu để tinh lọc thành khoáng sản Titan phục vụ công nghiệp
luyện kim, đồng thời cũng là sản phẩm xuất khẩu rất có giá trị.

-Duyên hải miền Trung cũng cơ trữ lượng lớn về khoáng sản đất sét, Cao lanh điển hình như mỏ Cao lanh ở đồng Hới trữ
lượng lớn nhất cả nước là nguyên liệu sản xuất gốm sứ qui mô lớn.

-Duyên hải miền Trung cũng là vùng nổi tiếng cả nước về trữ lượng đá quý, có mỏ lớn nhất ở Quỳ Châu- Quỳ Hợp- Nghệ
An là sản phẩm xuất khẩu rất có giá trị. Bên cạnh đá quý có trữ lượng lớn về đá xây dựng nổi tiếng như đá hoa cương (Thanh Hoá,
Quảng Bình) là nguyên liệu để sản xuất đá ốp lát phục vụ cho kiến trúc và xây dựng.

-Duyên hải miền Trung còn có trữ lượng lớn thứ nhì cả nước về than đá nổi tiếng như mỏ than đá Nông Sơn- quảng Nam
(trữ lượng khoảnghơn 10 triệu tấn) là nguyên liệu phục vụ cho phát triển công nghiệp nhiệt điện như nhiệt điện Đà nẵng- Quảng
Ngãi...

-Duyên hải miền Trung lại có vùng thềm lục địa rộng, dưới thềm lụcđịa có bể trầm tích phía Đông Quảng Nam- đà Nẵng có
trữ lượng dầu khí khá lớn. Cho nên ngày nay ta đang xây dựng máy lọc dầu số 1 Dung Quất để đón trước sự khai thác dầu khí vùng
này.

Tóm lại, duyên hải miền Trung với nguồn tài nguyên, nguyên liệu khoáng sản đa dạng, trữ lượng khá lớn như nêu trên chính
là cơ sở rất quan trọng cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp với quy mô trung bình.

-Bên cạnh cơ sở cung cấp nguyen liệu khoáng chất to lớn như vậy duyên hải miền Trung còn có khả năng lớn nhất nhì cả                                    nưóc về khả năng cung cấp các nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản... cho phát triển các ngành công nghiệp chế biến với qui mô
lớn diểnhình chế biến gỗ, hải sản, làm nước mắm...

-Duyên hải miền Trung cũng là vùng rất giàu về tiềm năng du lịch cả về tự nhiên lẫn lịch sử văn hoá nhân văn nổi tiếng với
nhiều hang động, nhiều bãi tắm đẹp (động Phong Nha, Sầm Sơn, Cửa Lò, Nha Trang) và đặc biệt trong vùng có cả 3 di sản văn hoá
lớn nhất cả nước đó là Cố đô Huế, Phố Cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn. Cho nên duyên hải miền Trung sẽ có ngành công nghiệp du
lịch phát triển mạnh nhất nhì cả nước.

- tất cả các tiềm năng về tự nhiên, văn hoá nhân văn nêu trên khẳng định duyên hải miền Trung có nhiều thuận lợi để hình
thành cơ cấu kinh tế công nghiệp hoàn chỉnh. Nhưng muốn hình thành cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh thì vùng này cần phát triển
theo những hướng chính sau đây:
       +Trước hết cần phải đảm bảo đủ năng lượng điện cho vùng mà trước hết có thể sử dụng nguồn năng lượng điện qua đường
cao áp 500KW từ Hoà Bình. Và đồng thời tiến hành đầu tư xây dựng thêm nhiều máy thuỷ điện mới, ưu tiên thuỷ điện cỡ trung
bình và nhỏ. Trong đó có nhà máy thuỷ diện lớn nhất khu vực là thuỷ điện Hàm Thuận công suất dự kiến cao tơí 3 triệu kw, đã
khánh thành thuỷ điện sông Hinh 70000 kw (Phú yên) thuỷ diện Vĩnh Sơn 60000 kw (Bình định) tiếp tục đầu tư xây mới thuỷ điện
Đa Mi, Ninh Thuận Bản Mai công suất hơn 250000 kw. Việc xây dựng các nhà máy thuỷ điện như neu trên cùngvới nguồn diện bổ
sung từ Hoà Bình vào chắc chắn sẽ tạo ra nguồn động lực hàng đầu phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá trong vùng.
       +Tiếp tục đầu tư xây dựng vùng kinhtế trọng điểm miền trung, đó là Thừa Thiên Huế, đà Nẵng, Quảng Ngãi cùng với xây
dựng khu nhà máy lọc dầu Dung Quất số 1 sẽ tạo ra "cực" kinh tế miền Trung có khả năng thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước
ngoài và tạo ra thay đổi lớn về bộ mặt kinh tế trong vùng.
       + Đầu tư hoàn thành một số cụm công nghiệp quy mô nhỏ và trung bình như cụm công nghiệp Bỉm Sơn- Thanh hoá mà hiện
nay đã có nhà máy xi măng Bỉm Sơn lớn nhất cùng với xi măng Nghi Sơn và tiếp tục xây thêm nhiều nhà máy chế biến nông sản,
gỗ và vật liệu xây dựng. ở vùng cực Nam Trung bộ (Ninh thuận- Bình thuận) tiếp tục đầu tư xây dựng cụm công nghiệp chế biến
hải sản, khai thác cát xuất khẩu và chế biến sản phẩm cây công nghiệp đặc sản như Nho, Thanh Long, Điều, Dưa...
Muốn đạt được mục tiêu hoàn thành cơ cấu công nghiệp như nêu trên thì duyên hải miền Trung phải đầutư xây dựng
CSVCHT vì CSHT được coi như là nguồn lực không thể thiếu dược đối với sự nghiệp CN hoá.

*Việc hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp của duyên hải miền Trung phải gắn với hiẹn đại hoá về CSVCKTHT.

-Để tạo ra cái nền tảng cho hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp ở miền TRung trước hết vùng này phải đầu tư nâng cấp
hiện đại hoá mạng lưới GTVT- TTLL theo những hướng sau:
        +Nâng cấp hiện đại hoá quốc lộ 1A và đường sắt Thống nhất vì 2 này được coi như là trục xương sốngcủa các tuyến GT
Bắc-Nam chạy xuyên qua duyên hải miền Trung . Vì vậy quốc lộ 1A và đường sắt thống nhất được coi là động mạch chủ của các
mối lưu thông phân phối của duyên hải miền Trung. Đồng thời nhờ 2 tuyến này mà duyên hải miền Trung có thể gắn kết chặt chẽ
với 2 cực kinh tế của cả nước dó là Bắc Bộ và Nam Bộ.
        +Song song với hiện đại hoá quốc lộ 1 A và đường sắt Thống nhất thì phải hiện đại các tuyển giao thông theo hướng Đông
Tây (quốc lộ 7,8,9,19,21) để tạo thành mạng lưới giao thông khăng khít giữa duyên hải miền Trung với Tây nguyên, với các bạn
Lào, Căm-Pu- Chia.
         +Đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá các cảng biển, đặc biệt các cảng biển lớn, cảng nước sâu như cảng Đà nẵng, Quy Nhơn,
Nha Trang, Cam Ranh... đầu tư xây dựng thêm nhiều cảng mới như cảng Dung Quất, Văn Phong, Chân Mây... và đầu tư xây dựng
cảng Cửa Lò (Vinh) Đà Nẵng thành cảng biển Quốc tế (đó là những cửa thông ra biển của Lào)
         +Phải đầu tư nhanh chóng xây dựng đường trường sơn CN hoá (xa lộ Bắc nam) để tạo tiền đề khai thác quản lý, xây dựng
hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở miền Tây duyên hải miền Trung đồng thời cũng là tạo cơ hội bảo vệ an ninh biên giới
phía Tây Tổ Quốc.

3 tháng 12 2017
Với Quyết định 61/2008/QĐ -TTg ban hành ngày 9/5/2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội dải ven biển miền Trung Việt Nam đến năm 2020”. Theo đó, nêu rõ mục tiêu xây dựng dải ven biển miền Trung trở thành vùng kinh tế phát triển, cửa ngõ phía Đông và là một trong các hành lang kinh tế Bắc - Nam quan trọng của miền Trung và cả nước. Đến năm 2020, tăng trưởng GDP của khu vực này sẽ đạt khoảng 12,9% đến 13%; tỷ trọng GDP của kinh tế trên biển và ven biển của toàn vùng duyên hải miền Trung đạt khoảng 76% đến 80,4% và đóng góp khoảng 82% đến 85% giá trị xuất khẩu của miền Trung.

Tàu cá của ngư dân các tỉnh miền Trung neo đậu tại âu thuyền Thọ Quang. Ảnh: Trần Lê Lâm/TTXVN

Nhìn lại gần một thập kỷ phát triển vừa qua, những thành tựu kinh tế xã hội mà khu vực duyên hải miền Trung đã đạt được chưa thực sự tương xứng với tiềm năng và lợi thế so sánh hiện có; chưa đáp ứng được kỳ vọng và mong muốn của các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương; chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa giúp thúc đẩy nền kinh tế toàn vùng phát triển một cách đồng đều và cũng chưa thực sự góp phần nâng cao đời sống người dân thông qua việc tăng thu nhập; thay đổi cơ cấu kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân ở các tỉnh, thành phố vùng duyên hải…

PGS.TS Trần Đình Thiên, Viện Kinh tế Việt Nam, đại diện Nhóm tư vấn phát triển vùng duyên hải miền Trung nhận định, dù các tỉnh đều nỗ lực tối đa để tận dụng lợi thế của mình, nhưng đến nay, vì nhiều lý do, các lợi thế đó vẫn chưa được phát huy hiệu quả. Rõ ràng, nếu chỉ trông cậy vào lợi thế tự nhiên, dù to lớn đến mấy, cũng là không đủ.

Thậm chí, trong nhiều trường hợp, nếu không biết phát huy đúng kiểu, lợi thế to lớn có thể trở thành yếu tố kìm hãm phát triển; dễ chuyển thành bất lợi thế, có tác động phá vỡ các nỗ lực phát triển của mỗi địa phương. Cuộc cạnh tranh phát triển cảng biển đang diễn ra quyết liệt giữa các tỉnh duyên hải miền Trung là minh chứng điển hình của nghịch lý này.

Ngoài việc tận dụng lợi thế biển thì việc phát triển hàng không và kết nối trên bộ của vùng duyên hải miền Trung cũng đang gặp khó khăn và chưa có hướng giải quyết thật sự đúng đắn, ông Thiên nhấn mạnh.

PGS.Ts Bùi Tất Thắng, Viện Chiến lược phát triển thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho rằng, trong những năm qua, hấp lực thị trường của khu vực duyên hải miền Trung cũng chưa có dấu hiệu khởi sắc đột biến. Dù các địa phương đều nỗ lực tìm kiếm các cơ chế chính sách thúc đẩy thu hút đầu tư, song, kết quả chưa được bao nhiêu, ngoại trừ một số công trình, dự án được Nhà nước đầu tư có chủ định.

Tổng số vốn đầu tư thu hút được năm 2016 mới chỉ bằng 13% vốn đầu tư cả nước; kim ngạch xuất khẩu bằng 3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nền kinh tế… Đến nay về cơ bản, khu vực duyên hải miền Trung vẫn là vùng tương đối nghèo. Năm 2016, thu nhập bình quân đầu người bằng khoảng 88% của cả nước, chỉ cao hơn vùng trung du miền núi phía Bắc (67%) và vùng Tây Nguyên (84%).

"Ngoại trừ ba tỉnh, thành phố là Đà Nẵng, Khánh Hòa và Bình Thuận, còn lại hầu hết các tỉnh, thành phố khác đều có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 7%. Các lĩnh vực phát triển ngành nghề, khu kinh tế, khu công nghiệp, kết cấu hạ tầng… chưa có sự phát triển và cải thiện rõ rệt nhưng chưa đủ sức tạo ra các bứt phá lớn", ông Thắng dẫn biện.

Trước thực tế này, để phát huy hiệu quả của liên kết vùng, nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế từng địa phương nói riêng và toàn vùng duyên hải miền Trung thêm sức bật vươn xa hơn, các chuyên gia kinh tế đều cho rằng, cần phải có tư duy mới, cách làm mới đảm bảo tầm nhìn xa hơn và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài nhưng hiệu quả thiết thực.

PGS.TS Bùi Tất Thắng cho hay, cần xây dựng “chính sách vùng” và sớm thể chế hóa cơ chế điều phối liên kết vùng theo hướng xác định rõ vai trò đầu tàu, phân công cụ thể trách nhiệm cho từng địa phương trong vùng; khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính, hoặc đầu tư dàn trải, trùng lặp. Việc lập quy hoạch vùng và chính sách vùng phải được xem như một công cụ quản lý “cơ sở”, không phải kêu gọi liên kết giữa các địa phương như trước đây vẫn làm.

Cùng với đó, cần tăng cường kết nối vùng duyên hải miền Trung với các vùng khác sắp triển khai các dự án hạ tầng giao thông, như trục Bắc – Nam có đường bộ cao tốc Bắc – Nam ở phía Đông và đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam; trục Đông – Tây có đường cao tốc kết nối Thủ đô Hà Nội - Thủ đô Viêng Chăn (Lào) và tuyến đường sắt Viêng Chăn - cảng Vũng Áng…

Những dự án kết nối hạ tầng sẽ mở ra nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành nghề, các khu kinh tế, khu công nghiệp… thuộc vùng duyên hải miền Trung trong thời gian tới, ông Thắng nhấn mạnh. Các địa phương trong vùng cần nỗ lực nhiều hơn, nhanh nhạy và quyết liệt hơn để đón bắt và thúc đẩy những cơ hội này.

Còn theo khuyến nghị của PGS.TS Trần Đình Thiên, vùng duyên hải miền Trung cần định vị lại cấu trúc phát triển kinh tế dựa trên lợi thế về du lịch. Tuy nhiên, cần đặt ra vấn đề, liệu ngành du lịch có đủ các yếu tố để bảo đảm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn cho toàn vùng hay không? Mối quan hệ tương hỗ giữa ngành du lịch với công nghiệp, nông nghiệp ở các địa phương sẽ được giải quyết như thế nào để dần thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động tại các địa phương?.

Ngoài ra, cần xem xét lại thực chất mối quan hệ giữa lợi thế cảng biển và năng lực phát triển “hậu phương công nghiệp” của miền Trung. Cùng với đó, cần quy hoạch lại phát triển vùng duyên hải miền Trung theo hướng xác lập sự ưu tiên rõ ràng về thể chế và nguồn lực.

Đại diện một trong những tập đoàn đầu tư lớn tại khu vực duyên hải miền Trung, ông Đặng Tất Thắng, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn FLC, nêu quan điểm: Tốc độ phát triển, nhất là về lĩnh vực du lịch tại vùng duyên hải miền Trung còn có độ chênh lớn và chưa thực sự “nắm chặt tay nhau cùng đi lên”.

Ngoài những địa phương đã phát huy hiệu quả những lợi thế trời phú về cảnh quan, văn hóa lịch sử… còn lại hầu hết các tỉnh khác chưa thể phủ sóng đậm nét trên bản đồ du lịch cả nước, mặc dù ở đó cũng sở hữu cảnh quan không hề thua kém.

Chính vì thế, chiến lược đầu tư của tập đoàn cũng sẽ tương thích với các điều kiện về khai thác du lịch dựa vào tiềm năng, lợi thế thiên nhiên và các cơ chế, chính sách ưu đãi ở từng tỉnh, thành. Đồng thời, nếu có sự gắn kết, tạo thuận lợi của toàn địa phương thuộc vùng duyên hải miền Trung trong việc phát triển ngành du lịch thì đó thực sự là điều tuyệt vời.

Tập đoàn FLC hiện đang tiếp tục mở rộng đầu tư nhiều dự án tại Sầm Sơn (Thanh Hóa), Nghệ An, Quy Nhơn (Bình Định), Quảng Bình. Ngoài ra, một số tỉnh khác như Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên… Tập đoàn FLC cũng đang tiến hành khảo sát và đánh giá cao tiềm năng của các bãi biển và cảnh quan tự nhiên. Mặc dù vậy, cũng phải thấy rõ rằng, việc FLC có thể đi đến quyết định đầu tư phụ thuộc chính vào hai tham số quan trọng là quỹ đất và các chính sách của địa phương.

Bởi lẽ, các dự án của FLC đều có quy mô lớn, đồng bộ hạ tầng và dịch vụ, nên quỹ đất triển khai dự án cần có diện tích 200ha đến 300 ha. Mặt bằng phải được đảm bảo “sạch” để thuận lợi cho việc triển khai dự án và không gây xáo trộn tới văn hóa, sinh hoạt hàng ngày của người dân địa phương. Thêm nữa, cần sự quyết tâm, đồng thuận của bộ máy chính quyền địa phương, để tạo điều kiện cho dự án được triển khai nhanh, đúng tiến độ đề ra.
Thạch Huê (TTXVN)
Câu 7:Tiềm năng du lịch biển vùng Duyên hải Nam Trung Bộ ?Câu 8: Khó khăn đáng kể về đất để phát triển nông nghiệp ở Duyên hải Nam Trung Bộ ?Câu 9: Các trung tâm kinh tế quan trọng ở Trung du và miền núi Bắc Bộ  ?Câu 10: Vào mùa hạ có hiện tượng gió phơn Tây Nam thổi mạnh ở vùng Bắc Trung Bộ là do đâu ?Câu 12: Kể tên các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ ?Câu 13:   Vị trí của vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ có ý nghĩa ...
Đọc tiếp

Câu 7:Tiềm năng du lịch biển vùng Duyên hải Nam Trung Bộ ?

Câu 8: Khó khăn đáng kể về đất để phát triển nông nghiệp ở Duyên hải Nam Trung Bộ ?

Câu 9: Các trung tâm kinh tế quan trọng ở Trung du và miền núi Bắc Bộ  ?

Câu 10: Vào mùa hạ có hiện tượng gió phơn Tây Nam thổi mạnh ở vùng Bắc Trung Bộ là do đâu ?

Câu 12: Kể tên các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ ?

Câu 13:   Vị trí của vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ có ý nghĩa  thế nào trong việc phát triển kinh tế, xã hội ?

Câu 14; Đặc điểm nổi bật của việc sản xuất nông nghiệp ở vùng ĐBSH ?

Câu 15 Kể tên Tam giác tăng trưởng kinh tế cho vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ ?

Câu 16: Kể tên các loại  tài nguyên khoáng sản có giá trị ở vùng ĐBSH?

Câu 17: Nêu Vị trí, ĐKTN vùng trung du và miền núi Bắc Bộ ?

Câu 18: Bài Thương mại và du lich ( chỉ tìm hiểu phần du lịch) , liên hệ du lịch địa phương?

2
14 tháng 1 2022

7 ; Du lịch biển, đảo là một trong những thế mạnh lớn nhất của vùng duyên hải Nam Trung Bộ.  

8: Khó khăn đáng kể về đất để phát triển nông nghiệp ở Duyên hải Nam Trung Bộ là quỹ đất nông nghiệp hạn chế do vùng hẹp ngang, nhiều đồi núi ăn sát ra biển.

9: Các trung tâm kinh tế quan trọng ở Trung du và miền núi Bắc Bộ là Thái Nguyên, Việt Trì, Hạ Long  Lạng Sơn.

10: Vào mùa hạ có hiện tượng gió phơn Tây Nam thổi mạnh ở vùng Bắc Trung Bộ là do sự  mặt của: Hệ thống đang tự động kết nối lại.

12:

1Thanh Hóa11.120,60
2Nghệ An16.493,70
3Hà Tĩnh5.990,70
4Quảng Bìn

 

13:Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ tiếp giáp Đông Nam Bộ ở phía nam, thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Đông Nam Bộ trong quá trình phát triển; giáp với Tây Nguyên và là cửa ngõ ra biển của Tây Nguyên, Campuchia, Thái Lan, thuận lợi giao lưu phát triển kinh tế và hình thành nền kinh tế ...

15 tháng 1 2022

câu 14:

 

Những đặc điểm nổi bật của ngành công nghiệp ở ĐBSCL là:

Công nghiệp của vùng mới phát triển, chiếm tỉ trọng thấp trong cơ cấu GDP (27,3%) năm 2014.
Các ngành công nghiệp chính của vùng là: chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí nông nghiệp và một số ngành khác.
Sản xuất điện và sản xuất hoá chất phát triển nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của vùng.

câu 15: Tam giác tăng trưởng kinh tế cho vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là Hà Nội – Hải Phòng – Hạ Long (Quảng Ninh).

câu 16: Đồng bằng sông Hồng ít tài nguyên khoáng sảncó giá trị nhất đáng kể là đá vôi, sét cao lanh, than nâu và khí tự nhiên

câu 17:

 Vị trí địa lí và giới hạn lãnh thổ

 

- Là vùng lãnh thổ phía bắc đất nước, nằm sát chí tuyến bắc. Phía Bắc giáp Trung Quốc , Tây giáp Lào, Đông giáp Đồng bằng sông Hồng và biển, Nam giáp Bắc Trung Bộ.

- Chiếm 30,7% diện tích cả nước và gồm 15 tỉnh.

- Trung du và miền núi Bắc bộ nằm liền kề với đồng bằng sồng Hồng là cái nôi của nền văn hoá Việt Nam, giáp một vùng biển giàu tiềm năng .

- Vị trí vùng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giao lưu kinh tế trao đổi hàng hoá với các vùng trong nước, với nước bạn Trung Quốc, Lào (qua các cửa khẩu …) và các nước trong khu vực Châu Á -Thái Bình Dương và thế giới (qua các cảng …)

10 tháng 5 2018

Đáp án A

6 tháng 3 2018

Đáp án: A

Giải thích: Duyên hải miền Trung có vị trí trung chuyển vô cùng quan trọng, tiếp giáp vùng biển dài thuận lợi cho giao lưu trao đổi hàng hóa. Vùng giàu có về tài nguyên khoáng sản và vật liệu xây dựng, nguyên liệu ngành nông – lâm – thủy sản. Đồng thời, lao động khá dồi dào, cần cù chịu khó. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất là cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển đồng bộ, đây là hạn chế khả năng thu hút đầu tư của vùng.

17 tháng 1 2017

Đáp án cần chọn là: A

Xét các điều kiện phát triển công nghiệp:

- Duyên hải miền Trung có vị trí trung chuyển vô cùng quan trọng, tiếp giáp vùng biển dài

 =>  thuận lợi cho giao lưu trao đổi hàng hóa.

- Vùng giàu có về tài nguyên khoáng sản và vật liệu xây dựng, nguyên liệu ngành nông – lâm – thủy sản.

- Lao động khá dồi dào, cần cù chịu khó.

- Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất là cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển đồng bộ

=> hạn chế khả năng thu hút đầu tư của vùng.

28 tháng 1 2016

Trên cơ sở khai thác tổng hợp các thế mạnh về tự nhiên, kinh tế - xã hội, nhân văn của duyên hải miền Trung nên đã hình
thành ở duyên hải miền Trung 1 cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư có những đặc điểm chính sau đây

+Hình thành cơ cấu lâm nghiệp
.Tài nguyên để hình thành cơ cấu lâm nghiệp ở vùng này là S lâm ngiệp lớn nhất cả nước, hơn 6 triệu ha và S rừng hiện nay
vẫn còn 3 triệu ha đứng hàng thứ 2 cả nước sau Tây Nguyên.

.Độ che phủ rừng của duyên hải miền Trung lớn đứng hàng thứ 2 cả nước, khoảng 34% (cả nước cókhoảng 29 - 30%)

.Rừng của duyên hải miền Trung nổi tiếng với nhiều loài gỗ uý như Lim, Nghiến, Trắc, Sến... và có trữ lượng lâm sản Tre,
Nứa, Luồng lớn nhất cả nước, hiện nay, đồng thời rừng của duyên hải miền Trung còn rất phong phú với nhiều loại động vật quí
hiếm như Hổ, Voi, Bò tót...

.Trên cơ sở tài nguyên lâm sản phong phú như vậy chonên ở duyên hải miền Trung đã đang phát triển mạnh công nghiệp
khai thác, chế biến gỗ lâm sản với sản lượng gỗ khai thác trung bình năm vào thời kỳ 90 - 95 khoảng 600.000 m3/năm (sau tây
Nguyên 700.000 m3/năm). Chính vì vậy, dọc ven biển miền Trung đã hình thành nhiều trung tâm công nghiệp chế biến gỗ vào loại
lớn nhất cả nước, nổi tiếng như Vinh, Huế, Đà nẵng, QuyNhơn...

-Rừng ở duyên hải miền Trung hầu hết đều phân bố ở các vùng miền núi phía Tây cả tỉnh cho nên rừng ở vùng này đều là
rừng đầu nguồn của các sônglớn như sông Mã, sông Hương, sông Hồng... vì vậy, việc khai thác rừng, bảo vệ rừng hợp lý là nhân tố
quyết định tới hiệu quả của nền kinh tế nông- lâm- ngư nghiệp ở các vùng đồng bằng ven biển. Vì rừng có tác dụng chống gió Lào,
chống xói mòn đất, hạn chế lũ lụt ở các vùng đồng bằng. Chính vì vậy việc khai thác rừng kết hợp với bảo vệ rừng hợp lý ở miền
TRung luôn được coi là vấn đề cấp bách.

.Duyên hải miền Trung do có bờ biển kéo dài với 1800 km mà bờ biển nhiều cồn cát trắng lại có gió mạnh, nhiều sóng thần
nên việc phát triển trồng rừng chắn gió dọc ven biển cũng là vấn đề cấp bách, đồng thời cũng tạo điều kiện giữ cân bằng sinh thái,
hạn chế nước mặn và cát ngày càng lấn sâu vào đất liền.

.Để hoàn thiện cơ cấu lâm nghiệp duyên hải miền Trung cần phải đầu tư xây dựng nhiều lâm trường cùng với các liên hợp
lâm - công nghiệp như lâm trường Như Xuân (Thanh hoá) liên hợp lâm- công nghiệp Đông Hiếu, Tây Hiếu (Nghệ An) lâm- công
nghiệp Long Đại (Quảng bình)

.vấn đề phát triển lâm nghiệp ở DHMT cần phải xây dựng những khu bảo tồn rừng quốc gia thiên nhiên nổi tiếng như vườn
quốc gia Bạch mã.

+Hình thành cơ cấu nông nghiệp
.Duyên hải miền Trung nổi tiếng là vùng có thiên tai khắc nghiệt, khí hậu thời tiết diễn biến thất thường nhưng vùng này lại
có nguồn lao động dồi dào, dân cư đông dúc với bản chất cần cù, năng động sáng tạo... cho nên luôn2 có nhu cầu lớn về lương thực,
thực phẩm, vì vậy cùng người lao động trong vùng phải tìm mọi cách phát huy thế mạnh và khắc phục những khó khăn tự nhiên để
sản xuất ra nhiều lương thực, thực phẩm cho con người. Nhưng nhìn chung điều kiện tự nhiên ở trong vùng không phù hợp với sản
xuất lương thực, thực phẩm điển hình là lúa, do đó vấn đề hình thành cơ cấu nông nghiệp ở duyên hải miền Trung có những đặc
điểm chính là:

1) duyên hải miền Trung có lợi thế phát triển nông nghiệp trước tiên là có vùng gò đòi trước núi rộng lớn với nhiều đồng cỏ
thích hợp với chăn thả trâu, bò (chăn nuôI trâu, bò không cần nhiều lương thực). Vì thế ngành chăn nuôi Trâu, bò ở duyên hải miền
Trung được ưu tiên phát triển hàng đầu. Nếu như đàn bò cả nước năm 1999 có 4 triệu con thì duyên hải miền Trung có 2 triệu con
chiếm khoảng 50% đàn bò cả nước.

2) duyên hải miền Trung lại có lợi thế hơn các vùng khác là có S đất phù sa pha cát rộng lớn nằm dọc ven biển và những bãi
bồi ven sông rất thích hợp với trồng cá cây hoa màu lương thực như ngô, khoai, sắn và các cây công nghiệp ngắn ngày mà hầu hết
các cây này đều được trồng vào vụ Đông ở BTBộ. Cho nên đẩy mạnh phát triển cây hoa màu Lt và các cây CN ngắn ngày như
Ngô, Khoai, lạc, Mía... là phù hợp với đặc điểm tự nhiên sinh thái ở trong vùng.

3) duyên hải miền Trung như đã biết gồm nhiều đồng bằng nhỏ hẹp nằm sát ven biển gần như liền một giải trong đó rộng
nhất là đồng bằng Thanh Hoá 2900k2 và hẹp nhất đồng bằng Phan Rang, Phan thiết 200km2 mà mỗi đồng bằng này lại có thế
mạnh riêng. Cho nên, việc khai thác, sử dụng các đồng bằng duyên hải miền Trung phải tuỳ theo từng thế mạnh ở mỗi đồng bằng ,
điển hình là: ở đồng bằng Thanh Hoá do đất đai mãu mỡ lại tiếp giáp với đồng bằng Bắc Bộ nên có thế mạnh phát triển lương thực,
điển hình là thâm canh lúa cao sản. Đồng bằng Nghệ Tĩnh lại có thế mạnh trồng các cây công nghiệp ngắn ngày như Lạc, Mía, đậu
tương, ớt... Đồng bằng BT thiên và Nam- Ngãi- Định vừa có thế mạnh trồng cây lương thực, vừa có thêm thế mạnh trồng cây công
nghiệp cho nên đã hình thành nhiều vùng lúa thâm canh năng suất cao như đại Lộc, Phú Lộc (Quảng Nam), nhiều vùng chuyên canh
Mía lớn nhất cả nước ở ven sông Trà Khúc (Quảng Ngãi) ven sông Đà Rằng (Tuy Hoà). Đồng bằng này được coi là vựa lúa của
duyên hải miền Trung, còn đồng bằng Phan Rang, Phan Thiết vì có khí hậu khô, hạn hán nên rất phù hợp với trồng các cây công
nghiệp ưa nóng và khô như Bông, Thuốc Lá và cây ăn quả đặc sản như Nho, Thanh Long...
.Cùng với nông nghiệp duyên hải miền Trung còn có thế mạnh hình thành một cơ cấu ngư nghiệp với nhiều nét độc đáo.

1) Do thiên tai trong vùng rất khắc nghiệt mà duyên hải miền Trung lại có lợi thế bờ biển dài, vùng biển rộng với trữ lượng
hải sản lớn nhất nhì cả nước chonên phát triển ngư nghiệp ở duyên hải miền Trung trước tiên nổi bật với ngành đánh bắt hải sản.
Chính vì vậy, ngành đánh bắt hải sản rất phát triển với sản lượng cá biển duyên hải miền Trung hiện nay đã đạt 385 ngàn tấn trong
tổng số 900 ngàn tấn cá biển của cả nước mà riêng 2 tỉnh cực Nam Trung bộ đã đạt 300 ngàn tấn cá /năm.

2) duyên hải miền Trung nhờ có S đầm phá cửa sông lớn với khoảng 160 ngàn ha nổi tiếng như phá Tam Giang, đầm Cầu
Hai cho nên ngành nuôi trồng thuỷ sản cũng khá phát triển với tổng sản lượng thuỷ, hải sản trong vùng đạt 400 ngàn tấn. Ngành
nuôi trồng thuỷ sản vùng này tuy có nhiều thế mạnh nhưng chưa phát huy xứng đáng với tiềm năng của nó.

3) Nhờ các ngành đánh bắt nuôi trồng thuỷ hảI sản phát triển mà đã kéo theo ngành chế biến hải sản trong vùng mạnh nhất
nhì cả nước, nổi tiếng với ngành làm nước mắm Phan Thiết, tôm cá đông lạnh và sản phẩm khô.
Như vậy, những điều phân tích trên thể hiện sự độc đáo trong cơ cấu nông lâm ngư nghiệp của duyên hải miền Trung .

15 tháng 2 2019

Đáp án A

Yếu tố không phải là cơ sở để hình hành cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp ở vùng duyên hải miền Trung đó là khu vực này chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa đông bắc. Đây là khu vực mà gió mùa đông bắc đã suy yếu.

13 tháng 6 2019

Đáp án A

Yếu tố không phải là cơ sở để hình hành cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp ở vùng duyên hải miền Trung đó là khu vực này chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa đông bắc. Đây là khu vực mà gió mùa đông bắc đã suy yếu.