Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Vì sao truyện Thánh Gióng được xếp vào thể loại truyền thuyết?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Truyền thuyết Thánh Gióng xảy ra vào đời Hùng Vương thứ mấy?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Nhân vật chính của truyền thuyết trên là ai?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Sự ra đời khác thường của Thánh Gióng được kể như thế nào?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Khi được sinh ra, cậu bé Gióng có điều gì khác thường?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Nối để hoàn thành những chi tiết tưởng tượng kì ảo miêu tả nhân vật Thánh Gióng:
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chi tiết "Tiếng nói đầu tiên của chú bé lên ba là tiếng nói đòi đánh giặc" có ý nghĩa như thế nào?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống:
Tục truyền đời thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là . Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một rất to, liền đặt bàn chân mình lên để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà và sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chi tiết nào dưới đây không liên quan đến hiện thực lịch sử?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chi tiết "Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc" có ý nghĩa gì?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chi tiết "Bà con hàng xóm vui lòng góp gạo nuôi cậu bé Gióng" có ý nghĩa gì?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chi tiết "Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ" có ý nghĩa gì?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chi tiết "Gậy sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh giặc." có ý nghĩa như thế nào?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Điền từ còn thiếu vào chỗ trống:
Bấy giờ có đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng : "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một , một cái roi sắt và một , ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Vì sao bà con vui lòng đem gom góp gạo nuôi cậu bé Gióng?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chi tiết "Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng lên trời" có ý nghĩa như thế nào?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Sắp xếp các chi tiết sau theo thứ tự cho đúng:
- Giặc Ân xâm phạm, vua tìm người tài, Gióng cất tiếng nói.
- Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng về trời.
- Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ.
- Gióng không nói không cười, đặt đâu nằm đấy.
- Bà mẹ ướm thử vết chân to, thụ thai, mang thai 12 tháng sinh ra Gióng.
- Gióng đánh giặc, gậy sắt gãy, Gióng nhổ cả bụi tre bên đường mà đánh.
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Điền từ còn thiếu vào chỗ trống:
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành mình cao hơn trượng, oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng, đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ cả những cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến (Sóc Sơn). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Người tráng sĩ làng Gióng đuổi quân giặc đến chân núi nào?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Theo dân gian, khi ngựa sắt thét ra lửa, thiêu cháy một làng, làng đó về sau được gọi tên là gì?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Vì sao những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình có màu vàng óng?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Truyền thuyết Thánh Gióng không nhằm giải thích hiện tượng nào sau đây?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Sự thật lịch sử nào được phản ánh trong truyền thuyết Thánh Gióng?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Truyền thuyết Thánh Gióng phản ánh rõ nhất quan niệm và ước mơ gì của nhân dân ta?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Thánh Gióng được coi là biểu tượng gì của tinh thần dân tộc?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Các nhận xét sau đúng hay sai?
(Nhấp vào dòng để chọn đúng / sai)Gióng sinh ra chỉ để đánh giặc, giặc ta, không còn việc gì làm nên Gióng bay về trời. |
|
Gióng thể hiện ước mơ của nhân dân về người anh hùng đánh giặc. |
|
Gióng đánh tan lũ giặc rồi bay về trời thể hiện sự vô tư, đức hi sinh, vị tha của người anh hùng, làm việc nghĩa mà không hề tính đến sự trả ơn của người nhận. |
|
Gióng là biểu tượng của vũ khí chiến đấu lợi hại chống giặc ngoại xâm. |
|
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Phương thức biểu đạt của văn bản Thánh Gióng là gì?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Đoạn video (trong bài giảng) khiến em liên tưởng tới truyền thuyết nào?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chi tiết nào sau đây thể hiện sự bất tử của Gióng?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Thánh Gióng là truyền thuyết kể về điều gì?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Điền từ còn thiếu vào chỗ trống:
Hình tượng Thánh Gióng là biểu tượng rực rỡ của và sức mạnh bảo vệ đất nước, đồng thời thể hiện và ước mơ của nhân dân ta ngay từ buổi đầu lịch sử về người anh hùng chống ngoại xâm.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Vì sao Gióng được tôn là Thánh?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chi tiết nào sau đây là biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc trỗi dậy?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Trong tác phẩm, nhân dân không góp cùng Gióng đánh giặc ở việc làm nào?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây