Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
The Khmer people have a population of about 1,260,600 people. They mostly live in the provinces of Mekong Delta. Their language belongs to the Mon-Khmer group. In addition, the Khmer is one of the 24 Vietnamese ethnic groups that have their own writting system. The system dates back about a thousand years. The Khmer are experenced farmers. They grown rice, raise cattle and poultry, make sugar for living. They have 2 main holiday: Chaul Chnam Thmey (New Year) and Greeting-the-Moon festival. The latter, which is also called Ok Om Bok, is hold to thank the Moon for favourable weather and a good harvest as well as to wish for the next successful crop.
Chúc bạn học tốt!!
Tet is a national and family festival. It is an occasion for every Vietnamese to have a good time while thinking about the last year and the next year. At Tet, spring fairs are organized, streets and public buildings are brightly decorated and almost all shops are crowded with people shopping for Tet. At home, every is tidied, special food is cooked,offerings of food, fresh water, flowers and betel are made on the family altar with burning joss- sticks scenting the air. First-footing is made when the lucky visitor comes and children are given lucky money wrapped in a red tiny envelope. Tet is also a time for peace and love. During Tet, children often behave well and friends, relatives and neighbors give each other best wishes for the new year.
THAM KHẢO:
Mỗi lễ hội có có những đặc trưng, có nét văn hóa riêng biệt. Lễ hội Lồng Tông của dân tộc Tày Tuyên Quang là lễ hội như vậy. Lễ hội Lồng Tông “hội xuống đồng” rất phong phú cả về phần lễ và phần hội, có thể xem như một “Bảo tàng sống”, nói lên hoạt động phong phú, sinh động đời sống tâm linh của tộc Tày. Lễ hội Lồng Tông được tổ chức vào khoảng thời gian từ ngày 4 đến ngày 25 tháng Giêng, tùy theo phong tục của từng địa phương mà tổ chức khác ngày nhau và thời gian thường kéo dài trong 3 ngày và tổ chức theo trình tự: Lễ rước, lễ đặt mâm tồng, lễ dâng hương, lễ tế thần, lễ cầu mưa, lễ dâng rượu, lễ hóa dâng văn tế để thể hiện sự biết ơn đối với thánh thần xin cho dân làng được may mắn, sức khỏe, mùa màng bội thu. Phần cuối có lễ Hạ điền, cày những đường cày đầu tiên của năm mới. Phần hội diễn ra với không khí náo nhiệt, vui tươi gồm nhiều trò chơi dân gian đặc sắc: Tung còn, múa lân, hát Then, Sli lượn, biểu diễn nghệ thuật, ...
Lễ hội Lồng Tông của dân tộc Tày Tuyên Quang là nơi giao lưu giữa các loại hình văn hóa dân gian từ các nghi lễ, những câu truyện dân gian (huyền thoại, thần tích, các vị thần…) các làn điệu hát then, Sli, lượn, các trò chơi dân gian và các nghệ thuật trình diễn khác. Lễ hội này đã trở thành bức tranh mô tả tương đối toàn diện đời sống văn hóa cộng đồng của tộc người Tày Tuyên Quang; trở thành một nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu được sau một năm làm lụng vất vả trên ruộng đồng. Việc tổ chức Lễ hội là dịp để mọi người nghỉ ngơi và đoàn tụ gia đình; gạt bỏ đi các điều ác để hướng tới cái thiện, làm tan đi những nỗi ưu tư, phiền muộn, lo lắng trong cuộc sống hằng ngày, để có sự thanh thản; đồng thời, cũng qua đó nhắc nhở, răn dạy con cháu biết ơn và tôn kính các vị thánh hiền, tiền nhân có công khai phá, xây dựng bảo vệ bản làng quê hương .
Năm 2012, Lễ hội Lồng Tông của dân tộc Tày Tuyên Quang đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia .
Mỗi lễ hội có có những đặc trưng, có nét văn hóa riêng biệt. Lễ hội Lồng Tông của dân tộc Tày Tuyên Quang là lễ hội như vậy. Lễ hội Lồng Tông “hội xuống đồng” rất phong phú cả về phần lễ và phần hội, có thể xem như một “Bảo tàng sống”, nói lên hoạt động phong phú, sinh động đời sống tâm linh của tộc Tày. Lễ hội Lồng Tông được tổ chức vào khoảng thời gian từ ngày 4 đến ngày 25 tháng Giêng, tùy theo phong tục của từng địa phương mà tổ chức khác ngày nhau và thời gian thường kéo dài trong 3 ngày và tổ chức theo trình tự: Lễ rước, lễ đặt mâm tồng, lễ dâng hương, lễ tế thần, lễ cầu mưa, lễ dâng rượu, lễ hóa dâng văn tế để thể hiện sự biết ơn đối với thánh thần xin cho dân làng được may mắn, sức khỏe, mùa màng bội thu. Phần cuối có lễ Hạ điền, cày những đường cày đầu tiên của năm mới. Phần hội diễn ra với không khí náo nhiệt, vui tươi gồm nhiều trò chơi dân gian đặc sắc: Tung còn, múa lân, hát Then, Sli lượn, biểu diễn nghệ thuật, ...
Lễ hội Lồng Tông của dân tộc Tày Tuyên Quang là nơi giao lưu giữa các loại hình văn hóa dân gian từ các nghi lễ, những câu truyện dân gian (huyền thoại, thần tích, các vị thần…) các làn điệu hát then, Sli, lượn, các trò chơi dân gian và các nghệ thuật trình diễn khác. Lễ hội này đã trở thành bức tranh mô tả tương đối toàn diện đời sống văn hóa cộng đồng của tộc người Tày Tuyên Quang; trở thành một nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu được sau một năm làm lụng vất vả trên ruộng đồng. Việc tổ chức Lễ hội là dịp để mọi người nghỉ ngơi và đoàn tụ gia đình; gạt bỏ đi các điều ác để hướng tới cái thiện, làm tan đi những nỗi ưu tư, phiền muộn, lo lắng trong cuộc sống hằng ngày, để có sự thanh thản; đồng thời, cũng qua đó nhắc nhở, răn dạy con cháu biết ơn và tôn kính các vị thánh hiền, tiền nhân có công khai phá, xây dựng bảo vệ bản làng quê hương .
Năm 2012, Lễ hội Lồng Tông của dân tộc Tày Tuyên Quang đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia .
The Thai have a population of about one and milion people living in the provinces in the north. The Thai language belongs to the Tay - Thai group. The Thai worship their ancestors and every year they hold many festivals and traditional games. They live on farming and they are experienced farmers. They dig canals to bring water to their fields. Their main food is rice, especially sticky rice. The Thai also raise cattle and poultry for their own use. They weave cloth, too and theirr cloth is very famous for being unique, strong, colourful.
The Kinh are also known as the Vietnamese, and Son La is the second largest group, accounting for 18% of the province's population. Population is concentrated in urban areas. Kinh language in Vietnamese - Muong language. Apart from the part of ethnic minorities residing in Son La area, many people have just moved from the North and North Central Plains. Especially since listening to the call of the Party to build mountainous economic development, Kinh people from the delta provinces to Son La; The family of Dien Bien Phu campaign soldiers stayed in the mountainous region. At present, some areas in the province of Kinh ethnic minorities include Kinh people in Hai Duong, Hung Yen and Thai Binh provinces in Song Ma and Yen Chau districts; Thai Binh province in Thuan Chau, Ha Tay province in Mai Son and so on.Kinh people living in Son La are interspersed with ethnic minority people. They quickly integrate in production, cultural exchange and solidarity to create cohesion and development in Son land. Leaves. The Kinh are also called Vietnamese. The Kinh language belongs to the Viet-Muong language group. Kinh people do farming. In the wet rice cultivation, the Kinh people have traditionally built dikes, ditches. Horticulture, mulberry growing, livestock and poultry husbandry, river fishing and marine fish development. Pottery is very early. Kinh people have habits betel betel, drinking tea, water. In addition to fried rice, sticky rice, also porridge, sticky rice. Shrimp sauce, duck eggs flipped is a unique dish of the Kinh.The Kinh village is often surrounded by bamboo, and there is a strong village gate in many places. Each village has a communal meeting place and worship. Kinh people live in the land. In the Kinh family, the husband (the father) is the owner. Children take their father and father's relatives as "family", while mother is "grandfather". The first son was responsible for organizing the worship of his parents, grandparents. Each of them has their own church, with their heads in charge of their work. Monogamy marriage The wedding is going through many rituals, the boy asked his wife and married his wife. After the wedding, the bride returns home. The men respect virginity, virtue of the bride, and pay attention to their background.The ancestor worshipers of the Kinh. The deceased are sacrificed by their descendants every year on the day they die. Their graves are regularly visited by relatives and carers. Every year the farmer has a series of festivals and festivals associated with farmer beliefs. In addition, Buddhism, Taoism, Taoism, Catholicism from the outside came into being received at different levels. The literary capital of the Kinh is quite large: oral literature (stories, folk songs, proverbs), literary literature (poetry, literature, books). Early and advanced art in many respects: singing, music, sculpture, painting, dancing, singing. The annual village festival is one of the most exciting and lively events in the countryside
the bru-van kieu have a population of about 74,500 people living in the provinces of quang binh, quang tri and thua thien hue. the bru-van kieu language belongs to the mon-khmer group. the bru- van kieu are hard-working farmers. they grow rice on terraced fields and they also raise cattle and poultry. their main food is rice. the bru- van kieu make wood and bamboo items in stead of buying them. they also weave cloth. both of men and women bru- van kieu people like tay nguyen clothes. their cloth are being well- known for being strong and rustic(mộc mạc). the bru- van kieu live in a big wood stilk house. depending on the number of adults in the family, you can know how many room that house has. at the weekend, they organize an open-air maket to sold their handamde product such as cloth, handbag, household applications, or even vegetables. on special occations, especially at tet, they celebrate a village assocations.in this festivals, everyone in the village has dinner together. then, they listen to the village elder tell story about hung kings. and after that, everyone dance, sing and play their traditonal musical instrument around the camp fire.
chúc bạn học tốt
the bru-van kieu have a population of about 74,500 people living in the provinces of quang binh, quang tri and thua thien hue. the bru-van kieu language belongs to the mon-khmer group. the bru- van kieu are hard-working farmers. they grow rice on terraced fields and they also raise cattle and poultry. their main food is rice. the bru- van kieu make wood and bamboo items in stead of buying them. they also weave cloth. both of men and women bru- van kieu people like tay nguyen clothes. their cloth are being well- known for being strong andrustic(mộc mạc). the bru- van kieu live in a big wood stilk house. depending on the number of adults in the family, you can know how many room that house has. at the weekend, they organize an open-air maket to sold their handamde product such as cloth, handbag, household applications, or even vegetables. on special occations, especially at tet, they celebrate a village assocations.in this festivals, everyone in the village has dinner together. then, they listen to the village elder tell story about hung kings. and after that, everyone dance, sing and play their traditonal musical instrument around the camp fire.
Nếu thích thì cho mình một tick!