Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chú ý các ý sau:
- Vũ Nương là người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp
+ Người con gái thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp.
+ Người vợ một mực thủy chung với chồng, thấu hiểu nỗi khổ và nguy hiểm mà chồng phải đối mặt nơi chiến tuyến, chờ đợi chồng.
+ Người con dâu hiếu thảo: chăm sóc mẹ chồng như cha mẹ ruột, lo ma chay chu đáo khi mẹ chồng mất
+ Người mẹ thương con hết mực:bù đắp thiếu thốn tinh thần của con bằng cách chỉ vào bóng mình trên tường giả làm cha đứa bé.
+ Người phụ nữ trọng nhân phẩm tình nghĩa.
- Số phận của nàng bất hạnh, hẩm hiu:
+ Chồng đi lính, một mình phải gánh vác công việc gia đình, chăm sóc con nhỏ, phụng dưỡng mẹ già
+ Bị chồng nghi oan tấm lòng chung thủy, mắng nhiếc, đánh đuổi một cách phũ phàng
+ Dù ở thủy cung luôn nhớ về nhân gian nhưng không thể trở về được
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: tạo dựng tình huống để thử thách nhân vật, khắc họa nhân vật qua ngoại hình, hành động, đối thoại... kết hợp với yếu tố kì ảo có thực
- Vũ Nương là đại diện cho người phụ nữ Việt Nam xưa có tư dung tốt đẹp, có nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng chịu nhiều đau khổ, bất hạnh.
"Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ"
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương:
"Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Chả thế mà chị em miền núi lại than rằng "Thân em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi!", còn chị em miền xuôi lại than mình như con ong cái kiến. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương, trong Truyền Kì mạn lục, đặc biệt là trong 2 tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du và "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong lận đận.
Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương "Chuyện người con gái Nam Xương".
Tục ngữ có câu "Gái có công thì chồng chẳng phụ" thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng những không được biết đến mà chính nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người.
Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du. Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn trường" như Vương Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị bán đi với cái giá ngoài 400 lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều".
Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao:
"Thân em như hạt mưa sa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài"
Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn. Với chế độ nam quyền: "Trọng nam khinh nữ", người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dẻ dúm. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt như đạo "tam tòng", hay các quan niệm lạc hậu như "nữ nhân ngoại tộc"... Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng.
Tàn dư ấy của chế độ cũ vần còn rơi rớt cho đến ngày nay, trên nạn bạo hành đối với phụ nữ vẫn còn khá phổ biến. Nhất là ở nông thôn. Ngoài ra ở một số nước còn có những tổ chức phi nhân đạo xuất hiện nghề mua bán phụ nữ để trục lợi làm giàu.
Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói "Hồng nhan thì bạc phận" nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình đẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vị xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc.
Tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòng người đọc.
Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một hình tượng rất đẹp, rất có ý nghĩa về người phụ nữ. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác, hơn nữa nàng lại xuất thân kẻ khó vậy mà lại trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật thẩm mĩ, nhân vật lý tưởng.
Còn riêng truyện Kiều lại mang một cảm hứng nhân đạo rõ rệt - đây chính là sự kết tinh sức sống và tinh thần dân tộc Việt Nam. Chính cảm hứng này là kết tinh giá trị ưu tú nhất trong truyện Kiều. Có được điều ấy không phải là do cái tài của Nguyễn Du mà là do tấm lòng yêu thương con người của Nguyễn Du.
Viết "Chuyện người con gái Nam Xương" và "Truyện Kiều", Nguyễn Dữ cùng với Nguyễn Du đã góp một tiếng nói xúc động vào sự nghiệp giải phóng người phụ nữ.
** Chúc bạn học tốt **
Đất nước Việt Nam — đất nước của những câu hát ru ngọt ngào, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tần tảo qua bao năm tháng… và từ trong cái nguồn mạch dạt dào ấy, người phụ là đề tài chưa bao giờ vơi cạn trong nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ, qua nhiều thời đại khác nhau. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội phong kiến, người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương."Phận đàn bà” trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi giây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. Người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.Đó là những đau khổ mà người phụ nữ trong thời đại phong kiến. Họ đẹp, đẹp cả về ngoại hình và nhân cách. Thế nhưng cuộc sống của họ không do họ làm chủ, phải sống kiếp sống lênh đênh, trôi dạt, không định trước được tương lai của mình. Tuy nhiên, họ vẫn vượt lên nhưng đau đớn, tủi nhục ấy, để kiếm tìm hạnh phúc cho mình.
Tham khảo:
Với quan niệm “ phu xướng phụ tùy, xuất giá tòng phu”, thì cuộc đời người phụ nữ tuy sướng hay khổ đều phải gắn bó với một người đàn ông duy nhất. Trong khi đó, người đàn ông thì được phép năm thê bảy thiếp, họ có thể tự do trăng hoa, la lối đánh đập vợ mình mà chẳng phải nhận một lời dè bỉu, đay nghiến.
Người phụ nữ xưa bị tước đi những quyền sống, quyền tự do của bản thân. Quan niệm “ tam tòng tứ đức” đã ăn sâu vào trong truyền thống, suy nghĩ mỗi con người, bởi vậy họ luôn tin rằng sinh ra là kiếp phụ nữ thì phải biết nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó, luôn biết hi sinh vì chồng vì con. Hồ Xuân Hương là một ví dụ điển hình trong các nhà thơ, khi bà sẵn sàng lên tiếng bảo vệ và thẳng thắn nói về cuộc đời người phụ nữ:
“ Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Họ là những người đẹp cả ngoại hình lẫn tâm hồn. Tiếc thay, cuộc đời ba chìm bảy nổi xô đẩy họ không biết đâu là bến đỗ. Họ không được làm chủ trước những sự lựa chọn mà phải phụ thuộc vào không biết bao nhiêu người. Thế nhưng, dù trong bối cảnh xã hội như thế nào thì họ vẫn quyết tâm giữ cho tâm mình sạch trong, thề son sắt thủy chung với gia đình của mình.
Rồi hướng tầm nhìn về những người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương và Thúy Kiều. Họ đều là nạn nhân của những cuồng hôn nhân đầy nước mắt. Nhắc tới Vũ Nương, ta không khỏi tiếc thương bởi cái chết đầy oan ức của nàng chỉ vì một câu nói ngây thơ của con trẻ, mà người chồng hằng đêm đầu ấp tay kề đã mắng nhiếc, đánh đuổi vợ đi không một lời thanh minh. Vì lẽ đó, đã đẩy Vũ Nương đến cái chết để tự minh oan cho mình. Sống trong chế độ ấy, tiếng nói của người phụ nữ chẳng đáng được đếm xỉa, lắng nghe. Cũng như nhân vật Thúy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn hơn người, đáng được hưởng cuộc sống sung túc, vinh hoa phú quý hạnh phúc. Than thay, Kiều cũng bị trở thành nạn nhân của một xã hội trọng tiền bạc. Vì tiền mà gây nên cảnh chia ly, tan tác của gia đình Kiều khi không có tiền cứu cha và em, nàng phải tự hi sinh bán mình cho Mã giám sinh- một tên buôn thịt bán người, chẳng hề có chút tình người. Từ một người con gái trinh trắng, tài năng cô bị đẩy vào chốn lầu xanh, nơi chỉ toàn những bọn cặn bã, bẩn thiu, xem thân người phụ nữ như những món hàng. Không dừng lại ở đó, đến khi gặp được một người có thể tin yêu là Từ Hải, thì vì đại nghĩa sự nghiệp, Từ hải đã để Kiều ở lại một mình vì mưu cầu sự nghiệp. Đến cuối cùng, họ đều phải tìm đến cái chết để giải tỏa nỗi oan ức, giải thoát cho những khổ đau, oan nghiệt của cuộc đời
Thế nhưng, gạt bỏ những oan khuất, đắng cay của cuộc đời họ, qua biết bao biến cố họ vẫn luỗn nhẫn nhịn, hi sinh vì gia đình mà chẳng một lời oán than. Trong bài thơ “ Thương vợ” của Tú xương, ông đã dành biết bao lời lẽ để nói về công ơn của ông đối với người vợ thân yêu của mình. Khi người đàn ông chẳng thể lo cho gia đình của mình thì người phụ nữ đẫ chẳng kể sớm hôm, lặn lội nuôi chồng thương con.
“ quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Chế độ xã hội bất công khi thân làm quan cũng chẳng đủ để chăm sóc cho gia đình, buộc người phụ nữ phải tần tảo, một tay buôn bán để lo từng miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Thế nhưng, họ xem đó là trách nhiệm, là công việc của họ khi sinh ra là một người phụ nữ, họ cam chịu với những công việc đó mà không một lời than thở.
Có lẽ, ta cũng chẳng thể nào quên được những nhân vật như Chị Dậu, Thị nở hay những người phụ nữ không được kể tên, nhưng họ là những con người sống trong xã hội phong kiến ấy. Tuy nghèo, tuy đói những vẫn luôn ưu tiên chăm sóc người chồng, người con, nhường cả miếng cơm ngụm nước khi đói mà không nhận được chút cảm thông, công nhận.
Đại thi hào Nguyễn Du đã viết rằng
“ Thương thay thân phận đàn bà
Dù rằng bạc mệnh vẫn là lời chung”
Dù có dành biết bao lời tán thưởng hay thể hiện sự đồng cảm, xót xa thì số kiếp những người phụ nữ ấy vẫn chẳng thể nào đổi thay. Họ vẫn luôn đẹp cả về ngoại hình lẫn phẩm chất, thế những họ không hề được hưởng xứng đáng với những hi sinh của mình. Sống trong xã hội phong kiến, cuộc sống của họ ví như “ chim trong lồng, cá trong chậu”, ước mơ được làm chủ cuộc sống, có được một cuộc đời bình yên cùng những hạnh phúc nhỏ nhoi luôn thật xa vời biết bao nhiêu.