Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
những kế sách của Dương Đình Nghệ rất hợp lí và có ý nghĩa với nông dân
nhà lương muốn cai trị toàn bộ nước ta siết chặt hệ thống cai trị chỉ cho những người cùng huyết thống với với vua hat những người trong gia tộc cao quý. chính sách này vô cùng vô lý khinh rẻ những người tài nc ta
Nhận xét về chính sách của nhà Lương đối với Giao Châu : tàn bạo, mất lòng dân. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới các cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống lại chính quyền đô hộ.
Dương Đình nghệ là người khởi binh đánh đuổi quân Nam Hán giải phóng thành Đại La, giành quyền tự chủ cho đất nước.
Dương Đình Nghệ (?-937) vốn là một hào trưởng, người làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thời Khúc Hạo cầm quyền (907 - 917), Dương Đình Nghệ từng là một trong những bộ tướng của họ Khúc. Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên nối nghiệp cha. Dương Đình Nghệ tiếp tục làm bộ tướng cho Khúc Thừa Mỹ (917 - 930). Năm 930 Nam Hán - một tiểu vương quốc do họ Lưu lập nên đã đưa quân sang xâm lược nước ta, bắt Tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ (con Khúc Hạo), đánh chiếm Đại La, sai Lý Tiến làm thứ sử.
Năm 931, Dương Đình Nghệ được sự ủng hộ của nhân dân và hào kiệt các địa phương như Ngô Quyền, Đinh Công Trứ v.v… vượt rừng núi, từ Thanh Hóa tiến quân ra Giao Châu, bao vây và tiến công thành Đại La - dinh lũy của quân xâm lược Nam Hán. Từ bên kia biên giới, vua Nam Hán vội vã cử thừa chỉ Trình Bảo đem quân sang cứu viện. Viện binh chưa kịp đến thì Dương Đình Nghệ đã hạ được thành, quân Nam Hán tan vỡ, tướng giặc là Khắc Trinh bị giết chết, thứ sử Lý Tiến chạy thoát về nước. Quân cứu viện của Nam Hán kéo vào nước ta; chưa kịp ổn định đã bị Dương Đình Nghệ chủ động đem quân ra ngoài thành, tiến công tiêu diệt. Quân Nam Hán bị đánh bất ngờ, rối loạn, tan rã. Tướng giặc là Trình Bảo bị giết tại trận.
Cuộc kháng chiến thắng lợi của nhân dân ta do Dương Đình Nghệ lãnh đạo đã đánh bại âm mưu chiếm lại nước ta của nhà Nam Hán. Đất nước độc lập, tự chủ tiếp tục được giữ vững. Đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi đất nước, Dương Đình Nghệ bắt tay vào xây dựng chính quyền độc lập tự chủ, tổ chức lại công cuộc cai trị đất nước. Ông tự xưng là Tiết độ sứ đứng đầu chính quyền trung ương cai quản cả nước. Đinh Công Trứ được cử giữ chức thứ sử Hoan Châu. Bừng bừng bắc tiến, đánh bại liên tiếp hai đạo quân Nam Hán, hạ thành, giết tướng cứu viện; đánh trận đối đầu thắng ngay không cần dùng chiến thuật du kích, vu hồi, trường kỳ...
Dương Đình Nghệ đã chứng tỏ ông là một tướng thiện chiến và huấn luyện được một đạo quân tinh nhuệ dù không thật hùng hậu. Sở dĩ Dương Đình Nghệ làm được điều đó vì ông đã nêu cao tinh thần đoàn kết nội bộ, tận tâm thương yêu tướng sĩ khiến họ đồng lòng hết sức đánh giặc và đã thu được thắng lợi nhanh chóng.
Tháng ba năm Đinh Dậu (937), Dương Đình Nghệ bị một kẻ phản phúc giết hại. Kẻ đó là Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn lại cũng chính là con nuôi và là một trong những nha tướng từng được Dương Đình Nghệ cưu mang và tin cậy. Sau đó chẳng lao lâu, Kiều Công Tiễn bị Ngô Quyền giết chết.
Trong Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sĩ có viết: "Khi Lý Khắc Chính bắt được (Khúc) Thừa Mỹ, (Dương) Đình Nghệ bèn tìm cách đánh báo thù. Ông chiêu tập hào kiệt, dùng đại nghĩa để khuyến khích cùng hợp mưu để đánh đuổi tướng (Nam) Hán là Lý Khắc Chính. Vua (Nam) Hán sai Lý Tiến sang làm Thứ sử Giao Châu (thay cho Lý Khắc Chính). Dương Đình Nghệ lại đem quân vây hãm Lý Tiến. Vua (Nam) Hán liền sai Trần Bảo sang cứu Lý Tiến. Dương Đình Nghệ đón đánh và chém được Trần Bảo. (Từ đó) Dương Đình Nghệ giữ lấy châu thành tự xưng là Tiết độ sứ, nhận lãnh mọi việc của châu".
Chiến thắng quân Nam Hán của ông dù không được đánh giá cao như trận Bạch Đằng của người con rể Ngô Quyền sau này nhưng nó có tác động cổ vũ tinh thần rất lớn cho người Nam và nó đã chỉ ra cho thế hệ sau ông thấy rằng: dù đã bị Bắc thuộc 1000 năm, người Nam vẫn hoàn toàn đủ sức đứng vững và đương đầu được với các cuộc tấn công của ngoại xâm để xây dựng một quốc gia độc lập.
Dương Đình nghệ là người khởi binh đánh đuổi quân Nam Hán giải phóng thành Đại La, giành quyền tự chủ cho đất nước.
Dương Đình Nghệ (?-937) vốn là một hào trưởng, người làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thời Khúc Hạo cầm quyền (907 - 917), Dương Đình Nghệ từng là một trong những bộ tướng của họ Khúc. Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên nối nghiệp cha. Dương Đình Nghệ tiếp tục làm bộ tướng cho Khúc Thừa Mỹ (917 - 930). Năm 930 Nam Hán - một tiểu vương quốc do họ Lưu lập nên đã đưa quân sang xâm lược nước ta, bắt Tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ (con Khúc Hạo), đánh chiếm Đại La, sai Lý Tiến làm thứ sử.
Năm 931, Dương Đình Nghệ được sự ủng hộ của nhân dân và hào kiệt các địa phương như Ngô Quyền, Đinh Công Trứ v.v… vượt rừng núi, từ Thanh Hóa tiến quân ra Giao Châu, bao vây và tiến công thành Đại La - dinh lũy của quân xâm lược Nam Hán. Từ bên kia biên giới, vua Nam Hán vội vã cử thừa chỉ Trình Bảo đem quân sang cứu viện. Viện binh chưa kịp đến thì Dương Đình Nghệ đã hạ được thành, quân Nam Hán tan vỡ, tướng giặc là Khắc Trinh bị giết chết, thứ sử Lý Tiến chạy thoát về nước. Quân cứu viện của Nam Hán kéo vào nước ta; chưa kịp ổn định đã bị Dương Đình Nghệ chủ động đem quân ra ngoài thành, tiến công tiêu diệt. Quân Nam Hán bị đánh bất ngờ, rối loạn, tan rã. Tướng giặc là Trình Bảo bị giết tại trận.
Cuộc kháng chiến thắng lợi của nhân dân ta do Dương Đình Nghệ lãnh đạo đã đánh bại âm mưu chiếm lại nước ta của nhà Nam Hán. Đất nước độc lập, tự chủ tiếp tục được giữ vững. Đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi đất nước, Dương Đình Nghệ bắt tay vào xây dựng chính quyền độc lập tự chủ, tổ chức lại công cuộc cai trị đất nước. Ông tự xưng là Tiết độ sứ đứng đầu chính quyền trung ương cai quản cả nước. Đinh Công Trứ được cử giữ chức thứ sử Hoan Châu. Bừng bừng bắc tiến, đánh bại liên tiếp hai đạo quân Nam Hán, hạ thành, giết tướng cứu viện; đánh trận đối đầu thắng ngay không cần dùng chiến thuật du kích, vu hồi, trường kỳ...
Dương Đình Nghệ đã chứng tỏ ông là một tướng thiện chiến và huấn luyện được một đạo quân tinh nhuệ dù không thật hùng hậu. Sở dĩ Dương Đình Nghệ làm được điều đó vì ông đã nêu cao tinh thần đoàn kết nội bộ, tận tâm thương yêu tướng sĩ khiến họ đồng lòng hết sức đánh giặc và đã thu được thắng lợi nhanh chóng.
Tháng ba năm Đinh Dậu (937), Dương Đình Nghệ bị một kẻ phản phúc giết hại. Kẻ đó là Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn lại cũng chính là con nuôi và là một trong những nha tướng từng được Dương Đình Nghệ cưu mang và tin cậy. Sau đó chẳng lao lâu, Kiều Công Tiễn bị Ngô Quyền giết chết.
Trong Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sĩ có viết: "Khi Lý Khắc Chính bắt được (Khúc) Thừa Mỹ, (Dương) Đình Nghệ bèn tìm cách đánh báo thù. Ông chiêu tập hào kiệt, dùng đại nghĩa để khuyến khích cùng hợp mưu để đánh đuổi tướng (Nam) Hán là Lý Khắc Chính. Vua (Nam) Hán sai Lý Tiến sang làm Thứ sử Giao Châu (thay cho Lý Khắc Chính). Dương Đình Nghệ lại đem quân vây hãm Lý Tiến. Vua (Nam) Hán liền sai Trần Bảo sang cứu Lý Tiến. Dương Đình Nghệ đón đánh và chém được Trần Bảo. (Từ đó) Dương Đình Nghệ giữ lấy châu thành tự xưng là Tiết độ sứ, nhận lãnh mọi việc của châu".
Chiến thắng quân Nam Hán của ông dù không được đánh giá cao như trận Bạch Đằng của người con rể Ngô Quyền sau này nhưng nó có tác động cổ vũ tinh thần rất lớn cho người Nam và nó đã chỉ ra cho thế hệ sau ông thấy rằng: dù đã bị Bắc thuộc 1000 năm, người Nam vẫn hoàn toàn đủ sức đứng vững và đương đầu được với các cuộc tấn công của ngoại xâm để xây dựng một quốc gia độc lập.
Sau thất bại của cuộc xâm lược lần thứ nhất (năm 930, 931), vương triều Nam Hán chưa từ bỏ dã tâm thôn tính nước ta. Vì thế, sự cầu viện của tên phản quốc Kiều Công Tiễn là “thời cơ vàng” để chúng phát động chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Nhằm tránh lặp lại thất bại, vua Nam Hán đã chuẩn bị rất kỹ, với lực lượng hàng chục vạn quân lương thảo dồi dào và hàng trăm chiến thuyền cỡ lớn,… Theo ý đồ và kế hoạch đã vạch ra, địch chia quân làm hai đạo: đạo binh thứ nhất, gồm lực lượng chủ lực tinh nhuệ cùng nhiều chiến thuyền lớn do thái tử Lưu Hoằng Tháo cầm đầu, theo đường biển ồ ạt tiến vào nước ta; đạo binh thứ hai, do vua Nam Hán trực tiếp chỉ huy, áp sát biên giới để sẵn sàng ứng viện.
Mô hình Chiến thắng Bạch Đằng (năm 938)
Đoán trước được ý đồ “nội công, ngoại kích” của địch, Ngô Quyền đã tập hợp các tướng lĩnh, hào kiệt, kéo quân từ Ái Châu ra nhanh chóng diệt trừ tên phản quốc Kiều Công Tiễn và bè đảng của hắn - dập tắt mối họa bên trong, làm thất bại ngay từ đầu âm mưu dùng nội ứng của vương triều Nam Hán. Tiếp đó, chuẩn bị đất nước về mọi mặt để chống giặc. Trước thế giặc mạnh, Ngô Quyền một mặt kêu gọi, động viên nhân dân phát huy sức mạnh cố kết cộng đồng và khí thế độc lập của dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp để đối phó với chiến tranh xâm lược. Mặt khác, Ông chủ trương lợi dụng địa hình hiểm trở của núi rừng, sông nước vùng Đông Bắc bày một thế trận hiểm hóc và tập trung lực lượng mạnh để tiến hành trận chiến lớn, đánh bại quân địch ngay tại cửa sông Bạch Đằng. Theo kế sách này, quân ta đã bí mật bố trí các bãi cọc ngầm ở nơi hiểm yếu dưới lòng sông Bạch Đằng và triển khai các trận địa mai phục hai bên bờ, sẵn sàng đánh địch. Đúng như dự đoán của ta, khi bị kích động bởi bộ phận khiêu chiến, nhử địch, quân Nam Hán đã hùng hổ tiến vào sông Bạch Đằng hòng “ăn tươi, nuốt sống” quân ta và chúng đã mắc mưu - lọt vào trận địa mà ta đã bày sẵn. Khi nước thủy triều đang xuống, Ngô Quyền lệnh cho thủy quân từ các vị trí ở thượng lưu phản công kiên quyết, mãnh liệt đánh xuống chặn đầu, kết hợp với quân thủy, quân bộ mai phục hai bên bờ sông đánh vào bên sườn đội hình địch. Bị đòn đánh mạnh bất ngờ, quân địch không kịp trở tay, hoảng loạn tháo chạy hòng thoát ra biển, nhưng đâm vào trận địa cọc ngầm của quân ta. Trong thời gian ngắn, toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, trong đó có cả chủ soái Lưu Hoằng Tháo. Chiến thắng nhanh, gọn, triệt để của quân và dân Tĩnh Hải quân1 trên sông Bạch Đằng khiến vua Nam Hán không kịp ứng phó, tiếp viện mà chỉ có cách duy nhất là “thương khóc, thu nhặt tàn quân còn sót mà rút lui”2 và từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 có ý nghĩa lịch sử to lớn, là mốc son chói lọi chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc; phá tan mưu đồ “đồng hóa” - một chính sách đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa Đại Hán tộc; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên phát triển của quốc gia phong kiến độc lập, tự chủ, thời kỳ trưởng thành của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng đó đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý, nhất là nghệ thuật đánh bại quân xâm lược ngay từ cửa ngõ đất nước được thể hiện ở một số điểm sau:
Một là, quyết định “phương lược” đánh giặc sớm, đúng đắn, sáng tạo. Có thể thấy phương lược trong trận chiến Bạch Đằng là hết sức táo bạo nhưng đúng đắn, chính xác mà trước đó chưa hề có trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn về tương quan so sánh lực lượng, Ngô Quyền thấy rõ chỗ mạnh của địch: quân đông, vũ khí, trang bị mạnh, nhất là các thuyền chiến lớn. Nhưng quan trọng hơn, thấy rõ những điểm yếu chí tử của chúng; đó là: tướng giặc (Lưu Hoằng Tháo) còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trận mạc, kiêu ngạo, chủ quan, khinh địch, không có nội ứng lại cơ động từ xa đến, địa hình xa lạ, hiểm trở nên tinh thần mỏi mệt, cùng những ám ảnh bởi thất bại của lần xâm lược trước. Về phía ta, Ngô Quyền đã diệt trừ nội phản, ổn định nội bộ bên trong để rảnh tay chống giặc ngoại xâm; được nhân dân đồng tình ủng hộ, sự đồng lòng của các tướng lĩnh, hào kiệt quyết tâm đánh giặc giữ nước. Bởi thế, trong thời gian ngắn, lực lượng của ta đã có tới vài vạn người; trong đó, đạo quân Ái Châu do Ông trực tiếp tuyển mộ, huấn luyện làm nòng cốt. Tuy có nhiều thuận lợi, nhưng quân ta cũng gặp nhiều khó khăn, đó là: thời gian chuẩn bị ngắn, lực lượng kháng chiến chưa được huấn luyện kỹ, vũ khí, trang bị còn thô sơ so với địch. Song xét tổng quan, sức mạnh tổng hợp của ta mạnh hơn địch. Thứ nhất, yếu tố con người - toàn dân ủng hộ và tập hợp được các tướng lĩnh có tài thao lược. Thứ hai, khu vực ta lựa chọn đánh địch có địa hình thiên hiểm, thuận lợi cho ta bày thế trận để phát huy cao nhất sức mạnh của các lực lượng và trang bị, vũ khí (thuyền nhỏ, cung nỏ). Thứ ba, quân Nam Hán từ xa đến nên tinh thần uể oải, không thông thạo địa hình, thổ nhưỡng, thủy triều. Như vậy, quân ta hội tụ đủ ba nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, lấy “sức nhàn thắng sức mỏi”. Do đó, khi bàn phương lược mưu, kế, thế trận chống giặc với các tướng sĩ, Ngô Quyền nói: “Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi; quân ta sức còn mạnh địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Song họ có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế ấy cả”2. Sau khi phân tích đánh giá kỹ những điểm mạnh, yếu của ta và địch, Ngô Quyền quyết định tổ chức một trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt đạo binh thuyền giặc ngay tại vùng cửa sông Bạch Đằng, nơi chúng ắt phải đi qua để tiến vào nội địa nước ta.
Hai là, chủ động nắm tình hình địa hình, thời tiết, khí hậu, thủy văn, thiết lập thế trận đánh địch hiểm, chắc.Theo sử sách để lại, sông Bạch Đằng có tên gọi là sông Vân Cừ, cửa sông rộng hơn 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời; cây cối um tùm che lấp bờ sông, thực là một nơi hiểm yếu. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi của thế trận này là việc bố trí và phát huy sức mạnh của các bãi cọc ngầm dưới lòng sông. Các bãi cọc này phải ở nơi hiểm yếu, được ngụy trang bằng con nước thủy triều lên và sẽ phát huy tác dụng khi địch rút chạy ra biển vào thời điểm thủy triều xuống. Để làm được điều đó, Ngô Quyền đã khéo chọn: những người giỏi địa lý trực tiếp theo dõi, tìm hiểu trong dân nắm chắc quy luật (thời điểm, mức độ, tốc độ) thủy triều lên xuống hằng ngày để chọn vị trí đóng cọc; huy động quân, dân vào rừng đẵn gỗ, vận chuyển ra vị trí tập kết; động viên nhân dân tích cực rèn mũi sắt,... Chính vì thế, chỉ trong thời gian ngắn, mặc dù, thời tiết những ngày cuối năm, mưa dầm, gió bấc, trời rét buốt da, buốt thịt kéo dài, nhưng hàng nghìn cây gỗ lim, sến đầu vạt nhọn, bịt sắt đã được bí mật cắm xuống lòng sông (khu vực cửa Nam Triệu hiện nay). Một vấn đề quan trọng nữa quyết định thắng lợi của trận đánh là bố trí lực lượng chính diện và hai bên sườn đủ mạnh, phối hợp chặt chẽ với nhau để chặn đứng và tiến công mãnh liệt quân địch tại cửa sông Bạch Đằng. Đây là vấn đề có tính then chốt, bởi nếu để địch tràn qua điểm chặn đầu, tiến sâu vào nội địa thì thế trận do ta dày công xây dựng sẽ trở nên vô nghĩa. Nhận rõ điều này, Ngô Quyền đã chú trọng xây dựng thế trận chặn địch vững chắc phía đầu nguồn cùng một lực lượng tinh nhuệ do Ông trực tiếp chỉ huy; còn lại phần lớn quân thủy, quân bộ được bố trí mai phục ở hai bên bờ sông có nhiệm vụ đánh ập vào hai bên sườn, dìm địch xuống lòng sông, tạo điều kiện cho thủy quân tiêu diệt. Việc bố trí bãi cọc, triển khai thế bố trí lực lượng ở cửa sông Bạch Đằng tạo thành thế trận thủy chiến hiểm hóc, vững chắc - “đất chết” của địch.
Ba là, tổ chức chỉ huy tài tình, khéo léo, linh hoạt, kịp thời theo “con nước”. Để trận quyết chiến chiến lược kết thúc thắng lợi trong một lần thủy triều lên xuống là việc làm không hề đơn giản. Nếu tính toán của ta không chính xác, “lực không mạnh, thế không vững”, không buộc được địch phải rút chạy đúng thời điểm (thủy triều xuống) thì trận đánh không những không thắng lợi mà có thể phải chịu thất bại nặng nề, đất nước sẽ lại chìm trong cảnh nô lệ của phong kiến phương Bắc. Trong trận quyết chiến chiến lược này, Ngô Quyền đã khéo phán đoán, xử lý và dẫn dắt tình huống, chuyển hóa thế trận một cách linh hoạt, có lợi nhất để từng bước phá vỡ đội hình hành quân đường dài của địch, không cho chúng triển khai đội hình chiến đấu, tiêu diệt từng bộ phận, tiến lên đánh bại hoàn toàn quân địch. Ở đây còn biểu hiện rõ nghệ thuật nghiên cứu, nắm chắc quy luật tự nhiên, theo dõi chặt chẽ “nhất cử, nhất động” của đạo binh thuyền địch; từ đó, tính toán nhử, dụ địch vào “đất chết” để tạo và chớp thời cơ tiến công tiêu diệt chúng. Trong suốt trận đánh, Ngô Quyền luôn nắm và giữ quyền chủ động trên chiến trường, vận dụng linh hoạt các thủ đoạn tác chiến: vừa đánh, vừa lui, vận động tiến công kết hợp với cản phá bằng trận địa cọc, truy kích tiêu diệt địch tháo chạy. Với nghệ thuật phát triển cách đánh liên tục, sáng tạo theo tiến độ trận đánh nên quân địch đang từ thế chủ động đã lâm vào bị động đối phó, bất ngờ,... đẩy chúng đến chỗ tuyệt vọng, sụp đổ và bị tiêu diệt hoàn toàn.
Ngoài ra, Ngô quyền còn chủ động khơi dậy tinh thần độc lập dân tộc, cố kết cộng đồng, động viên mọi tiềm lực trong dân, nhất là sức người, sức của cho trận đánh. Khi nghe tin Ông dấy binh đánh giặc, nhân dân khắp nơi nô nức mang lương thực, thực phẩm, vũ khí, thuyền chiến tham gia và ủng hộ cuộc kháng chiến. Các thanh niên, trai tráng ở Gia Viện (nơi Ngô Quyền đặt đại bản doanh), Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hưng Yên),… người mang vũ khí, kẻ mang thuyền bè, tìm đến cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở Hoàng Pha (Hoàng Động, Thủy Nguyên), ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang (An Hải, Hải Phòng) cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia kháng chiến,… làm cho đội quân của Ngô Quyền, từ một đội binh Ái Châu đã nhanh chóng trở thành đội quân dân tộc.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc. Nó đã để lại cho thế hệ sau bài học quý về nghệ thuật đánh bại quân địch ngay từ trận đầu, tuyến đầu ở môi trường sông nước, kết thúc thắng lợi chiến tranh trong thời gian cực ngắn. Bài học đó đã được vận dụng trong lịch sử chống ngoại xâm của cha ông ta và đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nhất là đối với chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai (nếu xảy ra)
bạn đọc bài dưới đi. tớ mới tìm thấy đó tớ thấy rất hay!!! bạn đọc đi nhé!!!!
Về kế hoạch đánh giặc của Ngô Quyền :
- Chủ động đón đánh quân xâm lược bằng cách bố trí lực lượng hùng mạnh và xây dựng trận địa bãi cọc ngầm trên sông Bạch Đằng...
- Độc đáo : Lợi dụng thuỷ triều, xây dựng trận địa bãi cọc ngầm với hàng nghìn cây cọc nhọn... chỉ sử dụng thuyền nhỏ, nhẹ để dễ luồn lách ờ bãi cọc.
Thuyền địch to, cồng kềnh rất khó khăn khi tìm cách thoát khỏi bãi cọc lúc nước triều xuống.
Dương Đinh Nghệ:
1 - Lý lịch xuất thân:
Dương Đình Nghệ (cũng có sách viết là Dương Diên Nghệ, có lẽ vì trong Hán tự, mặt chữ Đình và chữ Diên gần giống nhau nên nhầm lẫn mà ra), quê ở làng Ràng, xã Dương Xá, nay thuộc huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá, sinh năm nào không rõ. Dưới thời họ Khúc, Dương Đình Nghệ vừa là hào trưởng của đất Dương Xá. vừa là một trong những bộ tướng của họ Khúc.
2 - Sự nghiệp chính trị:
Khi quân Nam Hán xâm lược và đô hộ nước ta, Dương Đình Nghệ quyết chí nổi dậy giành độc lập. Sử cũ cho biết, ông nuôi đến 3000 nghĩa tử (con nuôi) trong nhà, đồng thời, ra sức hiệu triệu hào kiệt bốn phương hợp sức xướng nghĩa. Những người con nuôi này vì cảm kích tấm lòng của ĐDN nên lấy họ Dương làm họ của mình.
Những nhân vật nổi tiếng đương thời như: Ngô Quyền ở Phong Châu (nay thuộc Sơn Tây, Hà Tây), Đinh Công Trứ ở Trường Châu (Ninh Bình)… đều theo về với Dương Đình Nghệ.
Năm 931, Dương Đình Nghệ đem quân ra quét sạch bọn đô hộ Nam Hán, tái lập nền độc lập và tự chủ. Ông tự xưng là tiết độ sứ, cử Đinh Công Trứ làm thứ sử Hoan Châu, Ngô Quyền làm thứ sử Ái Châu.
Tháng 4 năm 937, Dương Đình Nghệ bị một bộ tướng, cũng là con nuôi của ông giết chết để giành quyền. Kẻ phản bội đó là Kiều Công Tiễn. Đất nước đứng trước một nguy cơ nghiêm trọng mới.
Dương Đình Nghệ cầm quyền được 7 năm, thọ bao nhiêu tuổi không rõ.
Sử cũ cho biết, ông nuôi đến 3000 nghĩa tử (con nuôi) trong nhà, đồng thời, ra sức hiệu triệu hào kiệt bốn phương hợp sức xướng nghĩa. Những người con nuôi này vì cảm kích tấm lòng của Dương Đình Nghệ nên lấy họ Dương làm họ của mình.
Năm 931, Dương Đình Nghệ đem quân cùng 3000 con nuôi ra quét sạch bọn đô hộ Nam Hán, tái lập nền độc lập và tự chủ. Ông tự xưng là tiết độ sứ, cử Đinh Công Trứ làm thứ sử Hoan Châu, Ngô Quyền làm thứ sử Ái Châu.
cau3, đóng cửa không quan hệ với phương tây
- thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng
Nhận thấy nhà Nam Hán có ý định xâm lược nước ta, Khúc Hạo gửi con trai mình là Khúc Thừa Mĩ sang làm con tin.
Năm 917, Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mĩ lên thay. Tiếp tục sự nghiệp của cha, Khúc Thừa Mĩ đã cử sứ sang thần phục nhà Hậu Lương và được vua Lương phong cho chức Tiết độ sứ.
Mùa thu năm 930, quân Nam Hán đánh sang nước ta.
Khúc Thừa Mĩ chống cự không nổi, bị bắt đem về Quảng Châu. Nhà Nam Hán nhân đó cử Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu, đặt cơ quan đô hộ ở Tống Bình (Hà Nội).
Năm 931, một tướng cũ của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ được tin, đã đem quân từ Thanh Hoá ra Bắc bao vây, tấn công thành Tống Bình.
Quân Nam Hán lo sợ vội cho người về nước cầu cứu. Viện binh của địch chưa đến nơi thì Dương Đình Nghệ đã chiếm được Tống Bình và chủ động đón đánh quân tiếp viện. Quân tiếp viện của giặc vừa đến đã bị đánh tan tác. Tướng chỉ huy của chúng bị giết tại trận.
Sau khi đánh tan quân Nam Hán, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, tiếp tục xây dựng nền tự chủ.
lộn vào lịch sử rồi bạn ơi !
sao lại có lịch sử ở đây?