Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê lam lũ, hồn hậu, chất phác mà giàu tình thương yêu. “Vợ nhặt” là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc họa thành công vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật người vợ nhặt, một người phụ nữ nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết hướng tới tương lai tươi đẹp.
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng:
a. Giới thiệu chân dung lai lịch:
- Lai lịch: dân ngụ cư: tha phương cầu thực, không sống được ở quê mình nên tìm đến một vùng đất khác -> bị kì thị, bị phân biệt đối xử:
+ Không được chia ruộng đất
+ Không được sống cùng trong không gian của ngôi làng, phải sống ở rìa làng hoặc ngoài đê.
+ Không được tham gia bất cứu sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã.
Dân gian có câu: “Trai làng ở góa còn đông/ Tại sao em lại lấy chồng ngụ cư”
- Gia cảnh: nghèo
+ Gia đình chỉ có mẹ góa con côi, bố mất sớm.
+ Công việc bấp bênh, không ổn định: kéo xe bò thuê ở trên tỉnh, thu nhập không cao.
- Chân dung ngoại hình: đường nét thô kệch giống như sự gò đẽo sơ sài của tạo hóa.
+ Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều.
+ Hai bên quai hàm bạnh ra
+ Thân hình to lớn vập vạp
+ Lại có tật vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ. (lẽ ra chỉ nghĩ trong đầu)
+ Khi cười thường ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch.
=> Đối với những đứa trẻ trong xóm, Tràng chỉ như một đứa trẻ lớn. Anh chỉ có “sức hấp dẫn” với lũ trẻ con trong xóm chứ không phải các cô gái đến tuổi cập kê.
=> Ở Tràng hội tụ đầy đủ các yếu tố bất lợi để có thể lấy được vợ. => đáng thương, tội nghiệp
b. Sự kiện mang tính bước ngoặt cuộc đời: Tràng “nhặt” được vợ:
- Xuất phát từ những câu bông đùa: (lần thứ nhất) “Muốn ăn cơm trắng với giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Đó là câu đùa vui của tuổi trẻ (trai chưa vợ, gái chưa chồng), và cũng là câu hò để đánh nhịp, cho đỡ mệt khi đang kéo xe lên dốc tỉnh. Đối tượng nghe là mấy cô gái đang ngồi vêu ra trước cửa kho thóc, nhưng anh không chủ tâm tròng ghẹo cô nào cả. Nhưng trong đám phụ nữ đang ngồi vêu ở cửa kho thóc đẩy ra một người phụ nữ, đó là thị. Thị ton ton chạy lại, liếc mắt cười tít đẩy xe bò giúp Tràng thật.
- Sự chia sẻ, thương cảm giữa những người đồng cảnh. Đó là những người nghèo phải đối với cái chết đang treo trước mặt. Tràng thấy thị: Hôm nay thị rách quá, áo quần như tổ đỉa, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai hốc mắt. (Liên hệ với gương mặt của A Phủ khi bị trói đứng) Nhìn thấy tình cảnh ấy của thị, Tràng rất thương. Tràng sẵn sàng đãi thị một chặp bốn bát bánh đúc. Đặt trong bối cảnh nạn đói những năm 45, miếng ăn trở thành tâm điểm, trở thành quan trọng và quý hơn cả. Tràng đãi một người phụ nữ không quen biết ấy cho thấy Tràng là người rất hào phóng.
- Từ lời nói đùa của Tràng, thị theo về thật. (Lần thứ hai)
Khi Tràng lại kéo xe qua, thị chạy ra: “Điêu, người thế mà điêu. Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt”.
Tràng nói: “Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã”.
“Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”.
“Đấy ăn gì thì ăn”.
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Ăn xong, thị nói: “Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”.
“Làm ***** gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”.
Thị theo về thật. Tràng cũng trợn. Sợ không biết có kham nổi không. Nhưng đó chỉ là nỗi sợ thoáng qua, Tràng dẫn thị về làm vợ.
=> Trong những lời bông đùa, nói vui, có cả sự đồng cảm, đó là bối cảnh khiến Tràng rất tình cờ nhặt được vợ. Xuất phát từ lời nói bông đùa, chẳng cần rò la tận nguồn lạch sông, thị theo không Tràng về làm vợ. Đó là tình huống hết sức lạ lùng khiến Tràng có diễn biến tâm trạng lạ lùng: từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng, vui vẻ, lo âu, bối rối, mà cũng tràn đầy lạc quan, tin tưởng.
c. Diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng:
* Chiều hôm trước:
- Trước khi dẫn nhau về: Tràng xưa nay vốn là anh chàng cục mịch thô kịch bỗng trở nên tinh ý, tinh tế. Anh thấy người phụ nữ rách tả tơ như tổ đỉa, trên khuôn mặt chỉ có dấu hiệu hiện hình của cái chết. Anh trở nên tinh tế bằng một loạt những hành động:
+ Mua cho 1 cái thúng con mới. (để thị đỡ tủi thân)
+ Dẫn đi ăn một bữa no. (thay mâm cơm này cưới)
+ Mua 2 hào dầu. (được gọi là hoang phí, bởi khi ấy chỉ cần có miếng ăn cho ấm bụng là tốt rồi nhưng với Tràng, hôm nay anh có vợ mới nên hào phóng mua hẳn 2 hào dầu để nhà cửa cũng sáng sủa một chút)
=> Từ con người thô kệch trở nên tâm lí, tinh tế. Tràng chăm sóc vợ mới rất chu đáo.
- Trên đường về:
+ Phớn phở, tủm tỉm, sáng lấp lánh. (niềm vui)
+ Tràng lấy làm thích chí lắm, mặt vênh vênh lên tự đắc với mình. (khi thấy thị e thẹn, rón rén, cúi đầu, chân nọ bước ríu cả vào chân kia)
+ “Như quên hết cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên hết cả cái đói, quên hết cả những tháng ngàu trước mặt, chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi lên. Một cái gì mới mẻ lạ lẫm lắm, chưa từng xuất hiện trong người đàn ông ấy”
=> Tràng vượt qua tất cả để sống với hạnh phúc mình đang nắm giữ.
=> Trong cả đoạn văn bị lược trích, có tới 20 lần nhà văn miêu tả và khắc họa điệu cười tủm tỉm ấy của Tràng => vui, phấn khởi
- Khi về đến nhà:
+ Bỗng cùng ngượng nghịu.
+ Đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ.
+ Tủm tỉm cười một mình, ngạc nhiên trong sửng sốt: “Đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra là hắn đã có vợ rồi đấy ư.”
=> Đây là khuôn mặt sung sướng của một người đã lấy được vợ.
- Khi giới thiệu với mẹ về nàng dâu mới:
+ Sốt sắng chờ mẹ về.
“Hắn lật đật chạy ra đón: Hôm nay sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột.”
+ Khi bà cụ tứ trở về ríu rít vui mừng. Mời mẹ ngồi một cách chĩnh chện để thưa truyện.
+ Giới thiệu vợ với mẹ một cách trân trọng.
“Kìa nhà tôi nó chào u. Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ. Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau. Chẳng qua nó cũng là cái số cả.” => Sự giới thiệu trân trọng và đầy trìu mến với mẹ về người vợ mới mà mình vừa nhặt được. Cách giới thiệu khiến người vợ không bị tủi thân, lạ lẫm, không bị cảm thấy mất bình đẳng vì mình theo không về nhà chồng. Cách giới thiệu này thể hiện sự trân trọng, bình đẳng, có chút gì đó ngờ nghệch của Tràng.
+ Khi được đồng ý thì thở phào, người như nhẹ hẳn đi. Từ giờ phút này anh đã chính thức có vợ, có hạnh phúc của riêng mình, có một gia đình, một người vợ để chăm sóc.
* Sáng hôm sau:
- Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình.
+ Tràng tỉnh dậy muộn -> dễ chịu, êm ái, lửng lơ như người từ trong giấc mơ đi ra -> ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.
+ Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ, khác lạ:
· Nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ hẳn: đống quần áo rách như tổ đỉa vắt khươm mươi niên ở góc nhà đã được đem ra sân hong, 2 chiếc am nước khô cong giờ đã được kín được đầy ăm ắp, đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi đã được dọn sạch.
· Không khí gia đình: mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa: mẹ anh đang lúi húi rẫy những búi cỏ dại mọc nham nhở ở ngoài vườn, vợ anh đang quét sân, tiếng chổi quét đưa xoàn xoạt. Hình ảnh ấy, âm thanh vui tươi ấy khác hẳn với cảnh ngày thường.
=> Gia đình được quét dọn sạch sẽ, chung tay bởi tất cả các thành viên trong gia đình.
=> Thức dậy trong Tràng nhiều cảm xúc:
“Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía, cảm động. Bỗng hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
- Thấm thía cảm động
- Bỗng thấy thương yêu, gắn bó.
- Vui sướng, phấn chấn.
=> Nhận thức mới mẻ: nhận thấy có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.
=> Hành động: Xăm xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà.
=> Muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình.
- Khao khát đổi đời:
+ Quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: Trong bữa cơm đầu tiên chào đón cô con dâu mới. Bà cụ Tứ bê ra hồ hởi, chè khoán đây chè khoán đây nhưng thực chất là nồi cháo cám. Bà cụ né tránh cái nhìn của mọi người. Cô con dâu cũng ngồi sà xuống. Lúc bấy giờ có tiếng trống thúc sưu. Bà cụ than thở: “Đằng nó bắt giồng đay, đằng nó bắt nộp thuế. Giời đất này thì có sống nổi hay không?”. (Liên hệ chị Dậu, đó là tình cảnh chung: bán con bán chó vẫn không đủ tiền đóng sưu). Người vợ ngạc nhiên và nói ở mạn Thái Nguyên Bắc Giang người ta không đóng thuê mà còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Nghe thông tin ấy Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, khuôn mặt khó đăm đăm. Anh nhớ tới hình ảnh những người kéo đi phá kho thóc Nhật “Những người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Anh hỏi: “Việt Minh phải không? Việt Minh phải không?” Anh nhớ lại và tiếc rẻ, nghĩ ngợi vẩn vơ khó hiểu. Nếu được quay ngược thời gian, có khi anh sẽ không kéo xe đi một lối khác mà anh đã nhập vào đoàn người đi phá kho thóc Nhật ấy.
=> Nghĩ ngợi -> Nhớ lại -> Ân hận, tiếc rẻ.
+ Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng.
-> Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng. Có lẽ anh sẽ trở thành người dân đầu tiên ở Việt Minh nổi dậy chống Nhật, phá kho thóc Nhật cứu đói, giải phóng làng của mình.
-> Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng.
-> Đây là cái kết mở, đầy tính khai sáng, khác hẳn với các tác phẩm trước đây. Trước năm 1945, các tác phẩm với cảm quan bi quan nên nhân vật luôn có cái kết bi thảm đó là cái chết nhưng sau năm 1945, Kim Lân đã có cảm quan của người chịu ảnh hưởng của CM. Chi tiết kết thúc này có giá trị nghệ thuật và mang sức nặng về tư tưởng rõ nét: thể hiện niềm tin, niềm lạc quan của con người dưới sự soi rọi và dẫn dắt của Cách mạng, của Đảng.
d. Liên hệ với cảm xúc, tâm trạng của nhân vật Chí Phèo:
- Tràng nhặt được vợ là tình huống éo le đến chính bản thân nhân vật cũng không ngờ tới. Tình huống này khiến nhân vật vui sướng, hạnh phúc. Ban đầu cũng chợm nghĩ "không biết có nuôi nổi nhau" qua cái nạn đói này không nhưng rồi cũng tặc lưỡi và quyết chí làm ăn, xây dựng gia đình.
- Còn Chí Phèo khi gặp Thị Nợ thì cũng thức tỉnh khát vọng hoàn lương và muốn trở lại làm người lương thiện, xây dựng một gia đình nhỏ. Chí Phèo và Thị Nở đã ăn ở và sống với nhau đúng 5 ngày theo nghĩa vợ chồng. Nhưng sự dở hơi và phũ phàng của Thị Nợ đã khiến Chí Phèo nhận ra mình đã mãi mãi mang khuôn mặt quỷ dữ, không thể trở lại làm người lương thiện được nữa. Chí Phèo xách dao đến đâm chết Bá Kiến rồi cũng tự đâm chết mình.
=> Như thế, khi gặp nhân vật nữ của mình, hai nhân vật Tràng và Chí Phèo đều có sự thay đổi trong cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ. Nhưng Tràng có những suy nghĩ tích cực và vượt qua khó khăn còn Chí Phèo lại không thể vượt qua "hình hài quỷ dữ" để trở lại làm người lương thiện. Sở dĩ có sự khác biệt là do Tràng là nhân vật gắn bó với thời cách mạng tháng Tám - khi nhân dân đã biết đứng dưới ngọn cờ của Đảng để đấu tranh giải phóng, còn Chí Phèo là nhân vật của làng Vũ Đại - nơi còn chịu sự ràng buộc và thống trị của những lễ giáo phong kiến hà khắc, chế độ phong kiến bất công...
=> Do thời đại và hoàn cảnh sáng tác khác nhau nên mỗi tác phẩm lại được khắc họa theo một cách khác nhau. Điều này cũng chứng tỏ nhãn quan và cái tài của người cầm bút khi đã nhận ra được vấn đề của thời đại, của xã hội đương thời.
e. Tổng hợp đánh giá:
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Tạo dựng tình huống truyện độc đáo: Tràng nhặt vợ -> Làm tiền đề để khắc họa tính cách, tâm lí nhân vật -> Nhân vật hiện lên nổi bật, sắc nét.
- Khả năng khám phá và phân tích diễn biến tâm lí nhân vật điêu luyện, tài tình.
- Sử dụng ngôn ngữ người nông dân rất tự nhiên, nhuần nhuyễn, đưa ngôn ngữ đời sống của người dân vào trang văn -> nhân vật hiện lên chân thực, sống động.
* Giá trị nội dung tư tưởng mà nhân vật truyền tải:
- Giá trị hiện thực: Phơi bày, phản ánh tình trạng khổ sở của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 trong tình cảnh 1 cổ 3 tròng (Phong kiến, Nhật, Pháp).
- Giá trị nhân đạo:
+ Cảm thông, thương xót trước nỗi khổ tận cùng của người dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945
+ Lên án, tố cáo những thế lực đã gây ra thảm cảnh cho người dân Việt Nam: phong kiến tay sai, thực dân Pháp, phát xít Nhật.
+ Phát hiện và trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.
+ Tìm thấy tia sáng cuối đường hầm, lối thoát đổi đời cho người dân.
Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm '' Vợ Nhặt '' của Kim Lân từ đó liên hệ nhân vật Thị Nở trong '' Chí Phèo '' của Nam Cao và nhận xét về cảm hứng nhân đạo của hai nhà văn.
1. Mở bài
- Đề tài: Hình tượng người phụ nữ trong văn học
- Dẫn dắt phạm vi vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân, nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
- Sự gặp gỡ trong quan niệm về vẻ đẹp con người của hai nhà văn
2. Thân bài
Bước 1: Giới thiệu về tác giả tác phẩm và đối tượng nghị luận. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, nhân vật
+ Kim Lân, Vợ nhặt, nhân vật thị
+ Nam Cao, Chí Phèo, Thị Nở Vẻ đẹp tâm hồn của hai nhân vật: Thị ( Người vợ nhặt) và Thị Nở
Bước 2: Nghị luận tổng hợp
* Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân:
- Đằng sau vẻ rách rưới là một khát vọng sống mãnh liệt (phân tích - chứng minh)
- Đằng sau vẻ chao chát, chỏng lỏn là người phụ nữ hiền hậu, đúng mực (phân tích - chứng minh)
- Niềm tin, sự lạc quan vào cuộc sống trong tương lai (phân tích - chứng minh ở đoạn cuối truyện)
- Nghệ thuật: Xây dựng nhân vật - đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo, éo le, cảm động; Vẻ đẹp tâm hồn nhân vật được thể hiện thông qua các chi tiết: hành động, lời nói, diễn biến tâm trạng; Ngôn ngữ mộc mạc giản dị, kể chuyện hấp dẫn.
* Liên hệ với nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
- Thị Nở một người phụ nữ với vẻ ngoài xấu ma chê quỷ hờn, tính tình vô duyên, ba mươi tuổi vẫn trong tình trạng ế chồng nhưng từ khi gặp gỡ và sống chung với Chí Phèo, những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật bắt đầu ngời sáng:chân thật, mộc mạc, giản dị, giàu tình yêu thương Khác với những con người ở làng Vũ Đại, thị Nở đến với Chí Phèo tự nhiên mà không một chút định kiến. Nhờ những phẩm chất ấy, Thị Nở đã thức tỉnh Chí Phèo trở về với con đường lương thiện (phân tích - chứng minh)
- Về hai nhân vật thị và Thị Nở của hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao có nhiều điểm gặp gỡ, tương đồng trong sự khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người cả hai nhân vật đều mang vẻ đẹp khuất lấp do hoàn cảnh làm ẩn đi nhưng khi được sống trong tình yêu thương, họ lại toát lên vẻ đẹp phẩm chất có thể tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người và người phụ nữ nói riêng.
- Nghệ thuật: xây dựng nhân vật tương phản giữa ngoại hình và phẩm chất, tính cách điển hình, cách miêu tả nhân vật tinh tế
Bước 3: Đánh giá
* Điểm chung trong khám phá vẻ đẹp
- Về hai nhân vật thị và Thị Nở của hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao có nhiều điểm gặp gỡ, tương đồng trong sự khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người cả hai nhân vật đều mang vẻ đẹp khuất lấp do hoàn cảnh làm ẩn đi nhưng khi được sống trong tình yêu thương, họ lại toát lên vẻ đẹp phẩm chất có thể tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người và người phụ nữ nói riêng.
- Ca ngợi, khẳng định phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn của người lao động, bộc lộ niềm tin mãnh liệt: dù trong bất kì hoàn cảnh nào thì vẻ đẹp tâm hồn của họ vẫn ngời sáng.
- Sự cảm hóa, thức tỉnh con người bằng tình yêu thương
* Điểm riêng trong khám phá vẻ đẹp
- Kiểu nhân vật của Kim Lân: đặt nhân vật trong hoàn cảnh đặc biệt
- Kiểu nhân vật của Nam Cao: kiểu nhân vật tương phản giữa ngoại hình và tính cách
* Lý giải nguyên nhân
- Hoàn cảnh sáng tác, hoàn cảnh lịch sử: Chí Phèo viết trước cách mạng trong hoàn cảnh đêm tối của xã hội Việt Nam đương thời. Còn Vợ nhặt viết sau năm 1945 khi quần chúng đã được cách mạng giải phóng.
- Phong cách nghệ thuật của hai nhà văn
* Đánh giá khái quát:
- Là một sự gặp gỡ tình cờ trong quan niệm của hai nhà văn về vẻ đẹp con người
– đó là tính nhân văn, sự nhìn nhận đa chiều của văn học đã ngấm trong tư tưởng của Kim Lân và Nam Cao.
- Thông qua hai nhân vật kể trên, người đọc sẽ có sự nhìn nhận đa chiều hơn thể hiện khả năng thấu hiểu, đồng cảm và sự trân trọng của hai nhà văn với những vẻ đẹp và sức sống tâm hồn người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tam. Đó là sự nối tiếp xuất sắc của Nam Cao và Kim Lân với mạch nguồn nhân đạo của văn học Việt Nam.
3.Kết bài
- Vẻ đẹp tâm hồn của con người là đích đến của người sáng tác và văn chương nghệ thuật muôn đời
- Khẳng định vị trí của hai nhà văn trong nền văn học Việt Nam
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa dề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống ép le, trở trêu chứa đựng đầy kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.
Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.
Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.
Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!
Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo : Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ : Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình… Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn khoăn : biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không ? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn : Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt, không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng… Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.
Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu, không biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ, nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ già lo và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chổng Tràng với những chi tiết thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !
Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hi vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.
c, Luận điểm và luận cứ không hài hòa với nhau
Sửa: truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân cho thấy sức mạnh của tình người trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống. Chính trong lúc đói họ nương tựa vào nhau chia sẻ với nhau hoàn cảnh hoạn nạn, vợ chàng cũng nhờ có mấy bát bánh đúc của Tràng mà thoát cơn đói và nên duyên vợ chồng với Tràng. Đó chính là biểu hiện của giá trị nhân đạo
Vợ chồng A Phủ:
- Số phận và cảnh ngộ của con người. Số phận bi thảm của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến trước cách mạng khi chịu sự thống trị của thực dân, phong kiến, thần quyền, hủ tục
Tư tưởng nhân đạo: ngợi ca sức sống mãnh liệt, tiềm tàng của con người và con đường họ tự giải phóng, đi theo cách mạng
Vợ nhặt:
- Số phận, cảnh ngộ của con người: Đặt nhân vật vào tình cảnh thê thảm của người dân lao động trong nạn đói 1945, tác giả dựng lên không khí tối tăm, ảm đạm bao trùm xóm ngụ cư
- Tư tưởng nhân đạo của tác phẩm:
+ Đi sâu lí giải, phân tích hiện thực bằng cái nhìn vừa đau xót, căm giận
+ Ngợi ca tình người cao đẹp, khát vọng sống, hạnh phúc và hi vọng vào một tương lai tươi sáng