K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 8 2018

ngắn hơn càng tốt

Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.

Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua cha. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy lễ Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.

Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam

Tk mình nhé oke,

23 tháng 10 2017

-Bạn ghi sai lỗi chính tả rồi: rồng-giồng.

23 tháng 8 2019

có bạn nào cho mình hỏi cách đăng bài lên kiểu gì không

24 tháng 8 2019

bn vào chỗ tạo câu hỏi rồi đăng lên thui!

8 tháng 9 2018

-   Hai thứ bánh có ý nghĩa thực tế: quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo nuôi sống con người và là sản phẩm do chính con người làm ra.

-  Hai thứ bánh có ý tưởng sâu xa: tượng trưng cho trời, đất và muôn loài.

-  Hai thứ bánh, do vậy hợp với ý vua, chứng tỏ dược tài đức của người con có thể nối chí vua. Đem cái quý nhất trong trời đất, của đồng ruộng, do chính tay mình làm ra mà tiến cúng Tiên vương, dâng lên cha thì đúng là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo, trân trọng những người sinh thành ra mình.

# My Love #

8 tháng 9 2018

 Hai thứ bánh có ý nghĩa thực tế: quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo nuôi sống con người và là sản phẩm do chính con người làm ra.

Hai thứ bánh có ý tưởng sâu xa: tượng trưng cho trời, đất và muôn loài.

Hai thứ bánh, do vậy hợp với ý vua, chứng tỏ dược tài đức của người con có thể nối chí vua. Đem cái quý nhất trong trời đất, của đồng ruộng, do chính tay mình làm ra mà tiến cúng Tiên vương, dâng lên cha thì đúng là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo, trân trọng những người sinh thành ra mình.

28 tháng 7 2017

TÓM TẮT :

Thạch Sanh vốn là thái tử (con Ngọc Hoàng), được phái xuống làm con vợ chồng người nông dân nghèo khổ nhưng tốt bụng. Chàng sớm mồ côi cha mẹ, sống lủi thủi dưới gốc đa, hái củi kiếm sống qua ngày.

Lí Thông - một người hàng rượu - thấy Thạch Sanh khỏe mạnh hắn giả vờ kết nghĩa anh em để lợi dụng. Đúng dịp Lí Thông đến lượt phải vào đền cho chằn tinh hung dữ ăn thịt, hắn bèn lừa Thạch Sanh đến nộp mạng thay cho mình. Thạch Sanh đã giết chết chằn tinh. Lí Thông lại lừa cho Thạch Sanh bỏ trốn rồi đem đầu chằn tinh vào nộp cho vua để lĩnh thưởng, được vua phong làm Quận công.

Nhà vua có công chúa đến tuổi kén chồng. Trong ngày hội lớn, công chúa bị đại bàng khổng lồ quắp đi. Qua gốc đa chỗ Thạch Sanh đang ở, nó bị chàng dùng cung tên bắn bị thương. Thạch Sanh lần theo vết máu, biết được chỗ đại bàng ở. Vua mất công chúa, vô cùng đau khổ, sai Lí Thông đi tìm, hứa gả con và truyền ngôi cho. Lí Thông lại nhờ Thạch Sanh cứu công chúa rồi lừa nhốt chàng dưới hang sâu.

Thạch Sanh giết đại bàng, lại cứu luôn thái tử con vua Thủy Tề bị đại bàng bắt giam trong cũi cuối hang từ lâu. Theo chân thái tử, chàng xuống thăm thuỷ cung, được vua Thuỷ Tề khoản đãi rất hậu, tặng nhiều vàng bạc nhưng chàng chỉ xin cây đàn thần rồi lại trở về gốc đa.

Từ khi được cứu về, công chúa không cười không nói. Hồn chằn tinh và đại bàng trả thù, vu vạ cho Thạch Sanh khiến chàng bị nhốt vào ngục. Chàng đánh đàn, công chúa nghe thấy liền khỏi bệnh câm. Thạch Sanh được vua cho gọi lên. Chàng kể lại rõ mọi việc. Vua giao cho chàng xử tội mẹ con Lí Thông. Được chàng tha bổng nhưng hai mẹ con trên đường về đã bị sét đánh chết, hoá kiếp thành bọ hung.

* Ý nghĩa

Kết thúc có hậu theo mô tuýp quen thuộc : Thạch Sanh cưới được công chúa còn Lý Thông biến thành bọ hung. Nếu đọc nhiều chuyện cổ tích ta luôn thấy kết thúc câu chuyện luôn là “ Người ở hiền thì gặp lành còn kẻ ác bị trừng phạt”. Truyện thể hiện ước mơ, niềm tin về đạo đức ,công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo ,yêu hòa bình của nhân dân ta. Đó cũng là mong ước của con người về xã hội công bằng, phát triển và văn minh.

~ Chúc bn học tốt!~

28 tháng 7 2017

OWR một làng nọ, có đôi vợ chồng nông dân già, tuy nghèo khó nhưng sống rất nhân hậu mà mãi vẫn chưa có con. Ngọc Hoàng thương tình bèn phái Thái tử xuống đầu thai làm con của ho. Và họ đặt tên con là Thạch Sanh. Hai vợ chồng già sớm qua đời, Thạch Sanh sống một mình ở gốc đa và kiếm sống bằng nghề hái củi.

Lí Thông người hàng rượu thấy Thạch Sanh khỏe mạnh nên dỗ dành giả vờ kết nghĩa anh em để lợi dụng Thạch Sanh. Vì là người tốt bụng nên Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ mà đồng ý làm em Lý Thông . Hắn đã lừa Thạch Sanh thay mình đi cúng mạng cho chằn tinh tại miếu thờ . Thạch Sanh đã giết chết chằn tinh, sau đó chàng đốt xác đó thì nhận được cây cung vàng . Nhưng lại một lần nữa, Lý Thông lại lừa Thạch Sanh, cướp công của chàng và được vua ban thưởng đồng thời phong làm Quản Công . Còn Thạch Sanh lại về sống ở gốc đa.

Công chúa bị đại bàng khổng lồ bắt, Thạch Sanh thấy được, lấy cung bắn đại bàng và chàng theo dấu máu, biết được nơi cư trú của đại bàng . Nhà vua sai Lý Thông đi cứu công chúa . Lý Thông lại nhờ Thạch Sanh giết đại bàng và cứu được công chúa, và khi công chúa lên khỏi hang, hắn sai người lấp hang để giết Thạch Sanh. Và được nhà vua gả công chúa cho Tại hang, Thạch Sanh lại cứu được con vua Thủy Tề và được vua tặng cho cây đàn thần.

Khi công chúa trở về cung, nàng chẳng nói năng gì, nhà vua rất lo lắng . Còn Thạch Sanh bị chằn tinh và đại bàng trả thù vu oan nên bị bắt giam vào ngục . Chàng bèn lấy đàn ra gảy, thì công chúa khỏi bệnh và đem mọi chuyện kể cho vua cha nghe, Thạch Sanh được minh oan, mẹ con Lý Thông tuy được tha nhưng vì độc ác nên trên đường về bị sét đánh chết hóa thành thạch sùng.

Thạch Sanh được vua gả công chúa và trở thành phò mã. Các thái tử nước chư hầu vì không được gả công chúa nên đã đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra đánh, đẩy lùi được quân 18 nước và thết đãi họ cơm trong niêu thần ăn rồi lại đầy.

Nhà vua nhường ngôi báu cho Thạch Sanh.

31 tháng 12 2018

Bài văn miêu tả cảnh quan thiên nhiên, sông nước vùng Cà Mau, mảnh đất tận cùng phía nam của Tổ quốc. Cảnh thiên nhiên ở đây thật rộng lớn, hoang dã và hùng vĩ, đặt biệt là những dòng sông và rừng đước. Cảnh chợ Năm Căn là hình ảnh trù phú, độc đáo, tấp nập về sinh hoạt của con người ở vùng đất ấy.

31 tháng 12 2018

Bài văn miêu tả con thuyền đang xuôi về đất Cà Mau, khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và rộng lớn có nét giản dị và hoang dã với màu xanh của núi rừng, tiếng sóng rì rào ngày đêm. Con thuyền đi qua các địa danh khác nhau Chà Là, Cái Keo những tên gọi dân dã, gần gũi đổ ra kênh Bọ Mắt, đổ ra sông Cửa Lớn rồi xuôi về Năm Căn dòng sông lớn mênh mông, xung quanh là rừng đước dựng lên như dãy trường thành và ẩn hiện rong nắng sớm ban mai, rừng đước có nhiều màu sắc khác nhau rất đẹp.

Trên sông Năm Căn có chợ Năm Căn đông vui, tấp nập thuyền bè mua bán, trao đổi, có những ngôi nhà văn minh hai tầng lại có những túp lều. Ẩm thực phong phú với các món ăn Trung Quốc, khung cảnh nhộn nhịp với cô gái Hoa kiều bán hàng vui vẻ, người Chà Châu Giang bán vải, người Miên bán rượu…. Cuộc sống nhiều sắc màu, tấp nập, sinh hoạt người dân nhộn nhịp với các cộng đồng các dân tộc khác nhau cùng sinh sống. Tất cả những điều đó đã làm nên sự phong phú, đa dạng của thiên nhiên và con người vùng đất Cà Mau.

Qua tác phẩm Sông nước Cà Mau tác giả đã tái hiện bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, sinh động, những con người độc đáo, sinh hoạt tấp nập.

8 tháng 9 2020

Sản phẩm của văn minh lúa nước tìm thấy ở mảnh trấu cùng những hạt thóc cháy đã hóa thạch đào được ở Gò Mun. Nhưng hạt gạo làm nên bánh chưng, bánh giầy trong truyền thuyết Hùng Vương lại là chứng cớ hùng hồn cùng với các sử liệu hoặc vật chứng khảo cổ liên quan đến nền văn minh lúa nước. Bánh chưng, bánh giầy là bằng chứng thực tiễn và triết học có thể chấm dứt mọi bàn luận cùng những nghi ngờ, rằng Việt Nam có nằm trong cái nôi của nền văn minh lúa nước hay không.

Điều kỳ diệu là thứ bánh độc đáo này tồn tại suốt từ thời Hùng Vương đến nay. Có được sức sống trường tồn vì bánh chưng, bánh giầy chứa đựng nét đẹp văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam cả về đời thường lẫn tín ngưỡng.

Bánh chưng, bánh giầy được tổ tiên tôn làm tinh hoa và đỉnh cao của nền văn minh lúa nước. Thứ bánh này chỉ có ở Việt Nam, không tìm thấy ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới có liên quan đến nền văn minh lúa nước. Hạt gạo làm bánh là tinh chất của hạt lúa cổ. Các Vua Hùng ví hạt gạo như hạt ngọc của trời đất ban cho loài người. Về lúa cổ, các nhà nghiên cứu về Đông Nam Á cho rằng, thế giới có 21 loài lúa hoang dại, trong đó Oryz rufipogon được xem là tổ tiên của cây lúa Á châu. Ngoài ra còn có lúa Orinava, một loại lúa thường niên ở Châu Á, nhưng được ít người công nhận. Cả hai loại lúa này đều có ở Việt Nam, được cư dân Ấn Độ và Đông Dương thuần hóa thành lúa canh tác cách đây 9000 năm. Nó được thuần hóa ở đồng bằng sông Hồng tới Nam Trung Quốc. Khi ấy Nam Trung Quốc chưa thuộc Trung Quốc của dân tộc Hán mà thuộc dân tộc Việt cùng một số dân tộc thiểu số khác... Nếu các nhà khoa học Nhật, bằng phương pháp AMS xác định được niên đại 3000 năm của lúa cổ Việt Nam ở Thành Dền, thì có thể tự hào rằng, dân tộc ta đã ở đỉnh cao của trí tuệ nhân loại, đi trước nhân loại 3000 năm, trước khi các nhà khoa học lai tạo lúa của Viện lúa gạo quốc tế tạo được giống lúa IR8 hội đủ các đặc tính của loại lúa cổ hoang dại trên làm giống lúa tiền phong cho cuộc cách mạng xanh của thế kỷ 20.

Nhận định trên đây được tiến sỹ gốc Việt Trần Đăng Hồng- cố vấn khoa nông nghiệp nhiệt đới Đại học Reading (Anh Quốc) - viết trong bài “Về hạt lúa cổ Thành Dền”, ngày 28-7-2010. Ông là tác giả của 7 cuốn sách về hạt giống, cùng hơn 80 công trình nghiên cứu được giới khoa học quốc tế ghi nhận.

Cho dù là truyền thuyết, nhưng qua truyện “Bánh chưng, bánh giầy”, tổ tiên đã gửi bức thông điệp đặc biệt cho chúng ta. Thông điệp khẳng định từ thời Hùng Vương người Lạc Việt đã biết chế biến sản phẩm lúa nước, biết tuyển chọn những hạt gạo thơm lành nhất để làm nên bánh chưng, bánh giầy. Hạt gạo đứng đầu trong các sơn hào hải vị, tinh khiết và an lành hơn bất kỳ của ngon vật lạ nào. Tổ tiên đã gửi gắm ý nghĩa triết học và văn hóa tâm linh vào hạt gạo qua truyện Bánh chưng, bánh giầy. Hạt gạo mang nét đẹp đạo đức kết tinh từ lao động. Cần cù chịu khó đi liền với thông minh hiếu thảo là gốc của mọi sự nghiệp. Vua Hùng thứ 6 truyền ngôi cho hoàng tử út Lang Liêu, chính bởi Người đã nhìn ra phẩm chất hiền tài ở người kế vị. Từ thời Hùng Vương, hiền tài đã là nguyên khí quốc gia.

Ý nghĩa triết học nguyên thủy trong bánh chưng, bánh giầy được nhiều nhà nghiên cứu Kinh Dịch giải mã. Có người còn coi thứ bánh này là khởi nguồn của triết học Phương Đông. Bánh chưng, bánh giầy chứa đựng trong nó học thuyết Âm dương ngũ hành, nguyên lý cốt lõi của Kinh Dịch. Bánh chưng vuông tượng trưng cho mẹ đất. Bánh giầy tròn tượng trưng cho cha trời. Bánh có đủ ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh trong cuốn sách “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” NXB Văn hóa, năm 2002 đã giải thích văn minh Lạc Việt qua bánh chưng, bánh giầy. Xin tóm tắt như sau: Bánh giầy tròn, trắng, dẻo, không vị, biểu thị cho viên mãn, thuần khiết, thông biến, đặc tính của thái cực, thuộc Dương. Bánh chưng vuông thuộc Âm. Nhân thịt lợn sắc hồng thuộc Hỏa. Hỏa sinh Thổ mang sắc vàng của đậu xanh. Thổ sinh Kim, màu trắng của gạo nếp, Kim sinh Thủy, bánh luộc trong nước. Thủy sinh Mộc, màu xanh lá dong, hạt gạo nhừ nhuyễn có màu xanh. Nghĩa là trong chiếc bánh chưng chứa đựng Ngũ hành tương sinh. Bốn chiếc lạt giang buộc ngoài bánh thành hai đường song song tạo nên 9 hình vuông nhỏ là Cửu cung và Hà đồ của Lạc Thư. Lạc Thư chiết tự là sách của người Lạc Việt. Vậy nguồn gốc của Kinh Dịch có từ Việt Nam được khắc trên lưng cụ rùa mà vua nước Việt ta đem tặng vua Nghiêu, Trung Quốc.

Vì vậy, bánh chưng, bánh giầy chứa đựng Âm Dương giao hòa, Ngũ hành vận động, là xuất xứ của triết học Phương Đông. Bánh chưng bánh giầy thành phẩm vật cao quý của người Lạc Việt, đặt trên mâm lễ của toàn dân tộc thờ cúng các Vua Hùng, đặt trên mâm cỗ của các gia đình thờ cúng gia tiên trong dịp lễ tết là nét đẹp độc đáo tôn vinh đạo lý uống nước nhớ nguồn. Vì chứa đựng nét đẹp văn hóa tâm linh cả về triết học lẫn thực tiễn nên bánh chưng, bánh giầy đã tồn tại suốt mấy nghìn năm và sẽ còn mãi mãi sau này.

Bánh chưng bánh giầy đạt đỉnh cao của hoàn hảo cả về thực tiễn lẫn triết học. Món ẩm thực độc đáo thuần Việt này có tuổi tác lâu dài nhất thế giới chỉ dân tộc Việt Nam mới có. Suốt cả ngàn năm Bắc thuộc, trăm năm Pháp thuộc, bánh chưng, bánh giầy vẫn bất khuất trước họa xâm lăng văn hóa của kẻ thù, cùng dân tộc giữ cho văn hóa Việt không bị đồng hóa, không bị tiêu diệt. Tấm bánh của tổ tiên hàm chứa sự kết đoàn, hòa quyện. Càng qua nước sôi lửa bỏng, bánh càng dền nhuyễn, thơm ngon. Càng qua đấu tranh gian khổ, dân tộc càng kết đoàn, thống nhất. Bánh chưng, bánh giầy tôn vinh đạo lý làm người, chứa đựng ước mơ đoàn kết, thái bình, nhắc nhở cháu con lòng tự hào, biết ơn nguồn cội 5000 năm văn hiến Lạc Việt.

Không biết mình có đúng không nữa, nếu sai thì bạn sửa hộ nha

3 tháng 3 2020

Tham khảo:

Đề bài: Hãy tả lại một cây đào hoặc cây mai vàng vào dịp tết đến, xuân về

Dàn ý bài viết số 5 lớp 6 đề 1

1. Mở bài:

- Giới thiệu: Cây đào vào dịp Tết đến xuân về. Ai mua, vì sao có? Tại sao em tả?

2. Thân bài:

a) Tả bao quát: Câu mở đoạn? Câu bao quát về cây đào? Dáng cây? Miêu tả từ xa: Trông nó giống..., cành cây.

+ Hình ảnh cây đào hiện lên như thế nào?

+ Vị trí của cây đào ở đâu?

b) Miêu tả chi tiết:

+ Hình dáng: Cao (thấp), thế uốn cây.

+ Cành: Chia nhiều hay ít, cành nhỏ...

+ Lá + Hoa: Màu sắc, cánh hoa

+ Nụ: Màu sử dụng phép so sánh và nhân hóa.

- Tả các loài vật ong bướm và hoạt động của chúng ở cây đào đang mùa hoa nở.

- Nhờ cây cành hoa đào ngày Tết, nhà em đẹp hơn?.

3. Kết bài:

- Em thấy nó có ích như thế nào? Em đã làm gì để giúp nó tươi lâu hơn. Cảm tưởng về hình ảnh cây đào vào dịp Tết đến xuân về.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Bài viết số 5 lớp 6 đề 2

Đề bài: Hãy viết bài văn miêu tả hàng phượng vĩ và tiếng ve vào một ngày hè

Dàn ý bài viết số 5 lớp 6 đề 2

I. Mở bài: giới thiệu cây phượng vào mùa hè và tiếng ve

Ví dụ:

Đối với mỗi học sinh thì những chùm phượng vĩ và tiếng ve có ý nghĩa rất lớn. đó là những dấu hiệu cho mùa hè, cho sự hi vọng và vui chơi. E rất thích những chùm phượng vĩ mùa hè và những tiếng ve râm rang ngày hè.

II. Thân bài: tả cây phượng vĩ mùa hè và tiếng ve

1. Tả bao quát cây phượng vĩ và tiếng ve

- Hoa phượng vĩ màu đỏ

- Cây phượng vĩ cao 3-5m

- Tiếng ve kêu râm rang suốt cả ngày

- Tiếng ve kêu rất to

2. Tả chi tiết cây phượng vĩ mùa hè và tiếng ve

a. Tả chi tiết cây phượng vĩ

+ Cây phượng vĩ ra hoa vào mùa hè

+ Thân cây phượng vĩ cao, và có rất nhiều nhánh

+ Tán lá cây phượng vĩ rất rộng

+ Cành lá phượng vĩ rất nhiều

+ Lá phượng vĩ nhỏ và mỏng, mọc so le nhau

+ Gốc phượng vĩ ôm chặt trên đất

b. Tả chi tiết tiếng ve

+ Tiếng ve rất to

+ Tiếng ve kêu suốt ngày

+ Tiếng ve báo hiệu cho mùa hè đến

c. Mối quan hệ giữa cây phượng vĩ và tiếng ve

+ Đều biểu hiện, tượng trưng cho mùa hè

+ Đều gắn với bao thế hệ học trò

III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về cây phượng vĩ mùa hè và tiếng ve

Ví dụ: em rất yêu cây phượng vĩ mùa hè và tiếng ve. Đây là những hình ảnh gắn bó biết bao kỉ niệm học trò của em.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Bài viết số 5 lớp 6 đề 3

Đề bài: Em đã từng chứng kiến cảnh bão lụt ở quê mình hoặc xem cảnh đó trên truyền hình, hãy viết bài văn miêu tả trận bão lụt khủng khiếp đó.

Dàn ý Bài viết số 5 lớp 6 đề 3

I/ Mở bài

+ Cảm nhận của em về tác hại của bão lụt.

+ Giới thiệu đối tượng định tả: cơn bão lụt em từng chứng kiến ở quê

II/ Thân bài

+ Khái quát những nét chung về cơn bão: mức độ to hay nhỏ, tính chất nguy hại nhiều hay ít, kéo dài trong bao lâu.

+ Tả cảnh trước cơn bão: bầu trời mấy hôm âm u, xám xịt; mây đen vần vũ đầy trời...

+ Tả cảnh trong cơn bão:

- Gió thổi ào ào, cây cối ngả nghiêng, rũ rượi

- Mưa ào ạt trút nước xối xả, bầu trời chuyển qua màu trắng đục. Mưa suốt cả một tuần không dứt sấm, sét.

- Nước dâng lên cao, cuồn cuộn chảy cuốn phăng mọi thứ nó gặp và nhấn chìm đồng ruộng, những ngôi nhà thấp,...

- Nhà cửa, cây cối, đồng ruộng, mùa màng bị nước lũ tàn phá, nhấn chìm.

- Con người: vật lộn chống lại sức mạnh của dòng nước (dầm mưa để đắp đê, chuyển người già và trẻ em đến nơi an toàn, chuyển đồ đạc lên chỗ cao, phát hàng cứu trợ...).

+ Tả cảnh sau cơn lũ:

- Cây cối nhà cửa tiêu điều, tan tác, xác xơ

- Con người đang ra sức khắc phục lại những hậu quả do cơn lũ để lại.

III/ Kết bài

+ Cảm nghĩ của em về cơn bão lũ đó: bàng hoàng, kinh sợ.

+ Thái độ và hành động để hạn chế những cơn bão lũ.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Bài viết số 5 lớp 6 đề 4

Đề bài: Tả cảnh mùa đông trên quê em

Dàn ý Bài viết số 5 lớp 6 đề 4

I. Mở bài

Xuân qua, hạ tới, thu về rồi sang đông Mùa đông là mùa của giá lạnh, của sự héo tàn. Nhưng chính cái lạnh lẽo đã khiến con người gần nhau hơn, quây quần bên lò sưởi ấm áp. Em rất thích mùa đông dù lạnh giá nhưng cũng thật ấm cúng

II. Thân bài

- Tả cảnh vật thiên nhiên mùa đông

+ Gió mùa đông Bắc tràn về khắp không gian

+ Cây bàng khẳng khiu trút toàn bộ lá

+ Lá khô xào xạc dưới chân người qua đường

+ Bầu trời ảm đạm một màu xám xịt

+ Những cơn mưa lạnh

- Tả Cảnh con người khi đông về

+ Mọi người ai cũng khoác trên mình những chiếc áo khoác để chống lại cơn gió lạnh của mùa

+ Ai ai ra đường cũng bước thật vội, làn tóc bay trong gió lộng

+ Trở về nhà thật nhanh để được sưởi ấm trong bầu không khí ấm áp của gia đình.

III. Kết bài

- Lão già mùa đông không chút ấm áp đến làm vạn vật chìm vào ảm đạm, khiến cho con người ta co ro vì cái rét. Nhưng chỉ khi đông về, rồi xuân mới đến thổi vào vạn vật một sức sống căng tràn.

15 tháng 8 2019

Đúng là trong lịch sử, vua thường truyền ngôi cho con cả. Nhưng trong truyện Bánh chưng, bánh giầy, vua lại chọn người vừa ý mình. Điều này cho thấy có độ "lệch" giữa yếu tố sử và yếu tố truyện. Việc truyền ngôi báu cho con cả là một tiền lệ nhưng việc chọn người con nào trong truyền thuyết này lại không nhất thiết phải giống hệt như trong lịch sử. Trong Bánh chưng, bánh giầy, vua Hùng phá lệ, truyền ngôi cho Lang Liêu vì ba lí do:

- Lang Liêu là người chăm chỉ, chăm làm. Hoạt động của chàng và sản phẩm mà chàng mang lên dâng vua đều gắn với ý thức trọng nông. Trong khi các lang thi nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng vua thì Lang Liêu chỉ có khoai lúa. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ, đó là sản phẩm do mồ hôi, công sức của chàng đổ ra.

- Bánh chưng, bánh giầy được làm ra vừa là tinh hoa của đất trời, vừa là kết quả do bàn tay của con người biết làm lụng tạo nên. Trong chiếc bánh giản dị ấy, hội tụ nhiều đức tính cao quý của con người : lòng tôn kính, sự thông minh, hiếu thảo,...

- Chiếc bánh Lang Liêu làm ra không đơn thuần là món ăn thông thường mà còn hàm chứa một ngụ ý sâu xa : tượng Đất (bánh chưng), tượng Trời (bánh giầy), tượng muôn loài (cầm thú, cỏ cây),...

14 tháng 8 2019

Vua Hùng đã chọn bánh của Lang liêu vì:

  • Hai thứ bánh đã thể hiện thể hiện sự quý trọng nghề nông, quý trọng sản phẩm do con người làm ra. Đồng thời còn có ý nghĩa sâu xa: Bánh giầy là tượng trời; bánh chưng là tượng đất có cây cỏ muôn loài còn là biểu tượng cho sự “đùm bọc nhau”. Cách thức gói “lá bọc ngoài, mĩ vị để trong” thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa con người với thiên nhiên, đồng thời thể hiện truyền thống đoàn kết, gắn bó và tinh thần đùm bọc nhau giữa những người dân đất Việt
  • Vua cha thấy rằng Lang Liêu đã hiểu ý mình là phải phát triển nghề nông thì dân mới no ấm, thái bình. Đây là nguyên nhân thành công của các đấng Tiên Vương.