2. Hãy nêu ba vấn đề địa lí Việt Nam và ba vấn đề địa lí thế giới mà em thấy lí thú và muốn tìm hiểu: - Ở Việt Nam - Trên thế giới
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Đại Hoàng phong cảnh hữu tình
Của nhiều, đất rộng, gái xinh trai tài. - Nước sông Gianh vừa trong vừa mát
Truông Quảng Bình nhỏ cát dễ đi.
Dang tay ngứt đọt từ bi
Cho lòng bên nớ bên ni kết nguyền. - Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu - Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ…
Sông Tô một dải lượn vòng
Ấy nơi liệt nữ anh hùng giáng sinh
Sông Hồng uốn khúc chảy quanh
Giai nhân tài tử lừng danh trong ngoài - ~ Hc tốt!!!
Những câu ca dao, tục ngữ về thiên nhiên và sản xuất, lao động hay nhất
- Con trâu là đầu cơ nghiệp. ...
- Chuồng gà hướng đông cái lông chẳng còn. ...
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa. ...
- Đầu năm gió to, cuối năm gió bấc. ...
- Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng. ...
- Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt. ...
- Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước.
- Bạn tham khảo nhé!
- HT~
Các quá trình gây ra bởi các lực bên trong Trái đất là các quá trình được gọi là quá trình nội sinh.
Có ba quá trình nội sinh chính: gấp, thất bại và núi lửa. Chúng diễn ra chủ yếu dọc theo ranh giới của tấm, đó là các khu vực nằm trên các cạnh. Những khu vực này là yếu. Các quá trình nội sinh gây ra nhiều tính năng chính của cứu trợ.
Là những khoáng sản hình thành do măcma rồi đc đưa lên gần mặt đất .
HOK TỐT
– Cấu tạo bên trong của Trái Đất gồm ba lớp:
+ lớp ngoài cùng là vỏ trái đất,
+ ở giữa là lớp trung gian
+ trong cùng là lõi.
– Đặc điểm:
+ Lớp vỏ Trái Đất: độ dày từ 5 đến 70 km; vật chất ở trạng thái rắn chắc; càng xuống sâu nhiệt độ càng cao; nhưng tối đa chỉ tới 1.000oC.
+ Lớp trung gian (bao Manti): độ dày gần 3.000 km; vật chất ở trạng thái quánh dẻo đến lỏng; nhiệt độ khoảng 1.500oC đến 4.700oC.
+ Lõi Trái Đất: độ dày trên 3.000 km; vật chất ở trạng thái lỏng ở bên ngoài, rắn ở bên trong; nhiệt độ cao nhất khoảng 5.000oC.
Trái Đất của chúng ta có bao nhiêu lớp ?
=> ba lớp
Kể tên các lớp đó
=> Vỏ trái đất < lớp ngoài cùng >
Trung gian < lớp ở giữa >
Lõi < lớp trong cùng >
Tên tự gọi: Thổ.
Tên gọi khác: Người Nhà làng, Mường, Con Kha, Xá Lá Vàng.
Nhóm địa phương: Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Ðan Lai, Ly Hà, Tày Poọng.
Dân số: 74.458 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt Mường (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Ðịa bàn cư trú hiện nay của người Thổ vốn là giao điểm của các luồng di cư xuôi ngược. Do những biến động lịch sử ở những thế kỷ trước, những nhóm người Mường từ miền Tây Thanh Hoá dịch chuyển vào phía Nam gặp gỡ người Việt từ các huyện ven biển Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Thanh Chương ngược lên hoà nhập với cư dân địa phương có thể là gốc Việt cổ ở đây. Những người tha hương cùng chung cảnh ngộ ấy ngày một hoà nhập vào nhau thành một cộng đồng chung dân tộc Thổ.
Hoạt động sản xuất: Người Thổ sống chủ yếu dựa vào làm nương, rẫy và một số nhỏ làm ruộng nước. Dù làm ruộng hay làm nương, trình độ canh tác của đồng bào đã phát triển khá cao biểu hiện ở kỹ thuật làm đất (dùng cày nương "cà nộn" một cách thành thạo), thâm canh cây trồng. Cây lương thực được trồng chủ yếu là lúa sau đó đến sắn và ngô. Ở CÁC NHÓM KẸO, MỌN, Cuối, gai là cây được trồng nhiều và giữ vị trí quan trọng trong đời sống KINH TẾ CỦA HỌ. Ở người Thổ, nghề đánh cá cũng rất phát triển, săn bắt, hái lượm tuy chỉ phát triển ở một số vùng nhưng nó đã góp phần đáng kể vào việc giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống của họ.
Phong tục rất đa dạng, nhiều khi trái ngược nhau. Ở nhiều dân tộc khác, khăn trắng là dấu hiệu nhà có tang nhưng ở người Thổ và người Mường, khăn trắng được sử dụng hàng ngày để tôn vẻ đẹp của trang phục. Nhiều dân tộc có tục làm nhà táng cho người chết ở thế giới bên kia, hiến nhà táng bằng cách đốt hay để nguyên. Người Thổ không đốt mà đặt nhà táng ngay bên cạnh mộ. Những vong hồn không được cúng trong nhà thì được lập miếu cúng ở ngoài trờ. Nơi thờ các cô gái chết trước tuổi thành niên biểu trưng bằng những cột gỗ. |
Ăn: Trước đây, người Thổ ăn gạo nếp là chính nhưng hiện nay hầu hết đã chuyển sang ăn gạo tẻ. Những khi giáp hạt đói kém họ thường ăn các loại củ, các loại rau và các loại quả hái ở rừng.
Trong các ngày lễ, tết người Thổ thường làm các loại bánh chưng, bánh giầy, bánh gai.
Mặc: Ðàn ông mặc tương tự người Việt với chiếc quần trắng cạp vấn, áo dài lương đen và đầu đội khăn nhiễu tím. Phụ nữ vùng Lâm La mặc váy vải sợi bông màu đen, có thêu hai đường chỉ màu từ cạp tới gấu váy; mặc áo 5 thân màu nâu hoặc trắng. Ở vùng Qùy Hợp, váy phụ nữ thường được mua hoặc đổi của người Thái. Váy bằng vải sợi bông nhuộm chàm, dệt kẻ sọc ngang, khi mặc những đường sọc đó tạo thành vòng tròn song song quanh thân. Áo cánh trắng cổ viền, tay hẹp như áo cánh người Việt. Phụ nữ đều đội khăn vuông trắng giống như người Mường và để tang bằng khăn dài trắng giống người Việt.
Ở: Người Thổ cư tập trung ở các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An. Họ sống thành những làng bản đông đúc, chủ yếu theo lối mật tập.
Nhà ở truyền thống là loại nhà sàn được che xung quanh bằng liếp nứa hoặc gỗ. Nhưng ở một số vùng, nhà lại được làm theo kiểu cột ngoãm. Ngày nay, nhà cửa của họ cũng đang trong quá trình chuyển từ nhà sàn sang nhà đất như kiểu nhà người Việt trong vùng.
Phương tiện vận chuyển: Người Thổ chủ yếu dùng hai phương thức vận chuyển. Ðối với những thứ nhỏ gọn thì có thể mang, xách hay cho vào sọt, bồ để gánh, còn những vật nặng phải dùng đến sức trâu, bò để kéo xe (toàn bộ khung và bánh xe đều được làm bằng gỗ).
Quan hệ xã hội: Ðơn vị hành chính nhỏ nhất trước kia của người Thổ là làng với một ông trùm làng đứng đầu. Trùm làng được bầu lại hàng năm và có nhiệm vụ đốc thúc công việc sưu dịch, thuế khoá, giải quyết các vụ việc xảy ra trong phạm vi của làng.
Gia đình nhỏ phụ quyền là chủ yếu. Mối quan hệ trong gia đình cũng như làng xóm là tình tương trợ hữu ái.
Tuy sống xen cài giữa nhiều dân tộc nhưng việc kết hôn giữa người Thổ với các dân tộc lân cận dường như không đáng kể, song quan hệ hôn nhân giữa các nhóm Thổ với nhau lại không có sự phân biệt nào.
Cưới xin: Tục ngủ mái thịnh hành trong các nhóm Thổ vùng Nghĩa Ðàn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp nhưng lại vắng bóng ở các nhóm Thổ vùng Tương Dương, Con Cuông. Từ những đêm ngủ mái các đôi nam nữ tìm hiểu nhau dẫn đến xây dựng gia đình. Hôn lễ của người Thổ phải qua nhiều bước. Thông thường khi cưới, nhà trai phải dẫn một con trâu, 100 đồng bạc trắng, 30 vuông vải, 6 thúng xôi, một con lợn. Nhiều vùng còn có tục ở rể.
Sinh đẻ: Khi sinh được 3 ngày thì cúng bà mụ để đặt tên cho con và người mẹ phải kiêng cữ trong vòng một tháng, trong tháng đó người lạ không được vào nhà.
Ma chay: Tổ chức khá linh đình và tốn kém, trước đây có nhà đã giết tới 12 con trâu, người chết được quàn trong nhà hàng tuần. Quan tài của người Thổ là một cây gỗ nguyên, đục bụng, giống như cách làm thuyền, làm máng đập lúa. Khi đặt quan tài cho phía chân xuôi theo dòng nước chảy. Sau khi chôn cất, cúng người chết vào dịp 30 ngày, 50 ngày và 100 ngày.
Lịch: Người Thổ theo âm lịch.
Thờ cúng: Người Thổ thờ rất nhiều loại thần, ma, đặc biệt là các vị thần có liên quan đến việc đánh giặc và khai khẩn đất đai. Trong phạm vi gia đình, ngoài việc thờ cúng tổ tiên, họ còn làm lễ cúng bà mụ mỗi khi trẻ em đau ốm và cúng vía cho người lớn vào dịp lễ, tết, khi đau ốm.
Học: Người Thổ không có văn tự riêng, chỉ một số người biết chữ Hán. Ngày nay, tiếng Việt được phổ cập và sử dụng rộng rãi.
Văn nghệ: Vốn văn nghệ dân gian Thổ khá đa dạng, các bài hát đồng dao vẫn được lưu truyền, ca dao, tục ngữ rất phong phú.
Chơi: Trò chơi gồm kéo co, múa sư tử, chơi cờ tướng. Trẻ em thích chơi đá cầu và đánh cù.
này trong Vở bài tập địa 6 ai ko hiểu thì vào mà đọc nha
tui cũng chuẩn bị hỏi câu nầy !!!