Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Bài Nam quốc sơn hà được làm theo thể thơ nào?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát - hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Bài thơ Sông núi nước Nam gắn với cuộc kháng chiến nào?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Bài thơ Nam quốc sơn hà ra đời trong hoàn cảnh nào?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Bài Sông núi nước Nam được mệnh danh là gì?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Bài thơ Sông núi nước Nam được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta vì?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Bài thơ Nam quốc sơn hà nêu nội dung gì?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Tình cảm và thái độ của tác giả thể hiện trong bài thơ Nam quốc sơn hà là gì?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Trong những từ sau, từ nào không đồng nghĩa với từ "sơn hà"?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy lại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Nam quốc sơn hà nam đế cư.
Ghép các từ Hán Việt trong câu 1 với ý nghĩa tương ứng:
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy lại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Ghép các từ Hán Việt trong câu 2 với ý nghĩa tương ứng:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm.
Ghép các từ Hán Việt trong câu 3 với ý nghĩa tương ứng:
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Ghép các từ Hán Việt trong câu 4 với ý nghĩa tương ứng:
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Tác giả đã khẳng định "sông núi nước Nam" là của ai?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Việc khẳng định chủ quyền dân tộc dựa vào "sách trời" có ý nghĩa gì?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Việc xưng "đế" với một nước lớn như phương Bắc có ý nghĩa gì?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Dòng nào sau đây nhận xét đúng về giọng điệu của bài thơ?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Dòng nào sau đây giải thích đúng về thể thơ của bài Sông núi nước Nam?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Bài thơ có thể chia bố cục thành mấy phần?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Vì sao 'Nam quốc sơn hà' được coi là bài thơ Thần?
"Nam quốc sơn hà" được coi là bài thơ Thần vì sự ra đời của bài thơ gắn với truyền thuyết: Bài thơ được ngâm vang lên trong đêm tối ở Trương Hống, Trương Hát trên sông .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Xét về mục đích nói, câu thơ thứ ba thuộc kiểu câu gì?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Thiên thư là gì?
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
(Nam quốc sơn hà(*))
Phiên âm
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
(Nam: phương Nam, quốc: nước, sơn: núi, hà: sông, Nam: nước Nam, đế: vua, cư: ở.
Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác, định: quyết định, phận: rút gọn của từ "giới phận", "địa danh" là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định), tại: ở, thiên: trời, thư: sách.
Như hà: cớ sao, nghịch: trái ngược lại, lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt, lai: đến, lại, xâm phạm: lấn chiếm quyền lợi của người khác.
Nhữ đẳng: bọn chúng mày, hành: sẽ, trải qua, khan: xem, thủ: nhận lấy, bại: thua, hư: không.)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam(1) ở
Vằng vặc sách trời(2) chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
(theo Lê Thước - Nam Trân dịch,
trong Thơ văn Lí - Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
Chú thích:
(*) Ở nước ta, thời trung đại đã có một nền thơ rất phong phú và hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và có nhiều thể như: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 chữ), song thất lục bát (hai câu 7 chữ kèm theo 2 câu 6, 8),... Chương trình Ngữ văn 7 học tám tác phẩm thơ trung đại, trong đó mở đầu là bài Sông núi nước Nam (nhan đề do người đời sau đặt). Nguyên văn bài thơ chữ Hán cũng có nhiều dị bản.
Chưa rõ tác giả bài thơ là ai. Sau này, có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt. Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát -hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, trong đó các câu 1, 2, 4, hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.
(1) Vua Nam: nguyên văn là "Nam đế", tức là vua nước Nam. Trong chữ Hán còn có chữ "vương" cũng có nghĩa là vua. Nhưng "đế" thì cao hơn "vương". Ở đây dùng chữ "đế" là để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, vì Trung Hoa gọi vua là "đế" thì nước ta cũng vậy. Cần hiểu: trong quan niệm đương thời, "đế" là đại diện cho nước cho dân.
(2) Sách trời: nguyên văn là "thiên thư". Ý hai câu đầu: nước Nam nhất định phải của người nước Nam. Điều đó đã có sách trời (ý nói tạo hóa) phân định rõ ràng, dứt khoát.
Nối cho đúng giọng điệu chủ đạo của mỗi phần trong bài thơ:
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây