Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Nhân vật chính trong câu chuyện trên là ai?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Nhân vật chính trong truyện cổ tích trên thuộc kiểu nhân vật nào?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Điền từ còn thiếu vào chỗ trống:
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một rất thông minh tên là . Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền . […] Em dốc lòng học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Những yếu tố nào không giúp Mã Lương vẽ giỏi?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Điền từ còn thiếu vào chỗ trống:
Tài năng kỳ lạ của là sự kết hợp của lòng , khổ công tập luyện; là sự quan sát và thực tế cuộc sống quanh mình. Chỉ Mã Lương mới có thể sử dụng cây , cho thấy em là có người tài năng, đức độ, sở hữu cây bút thần.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Mã Lương vẽ cho người nghèo những gì?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Các con có nhận xét gì về việc Mã Lương vẽ dụng cụ lao động, sinh hoạt cho người nghèo?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Ai là người muốn đòi lấy cây bút thần của Mã Lương?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Nối những đối tượng được nhận tranh vẽ của Mã Lương với những đồ dùng tương ứng:
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Nối cho đúng:
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái. Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo đến tố giác với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục.
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Mã Lương vẽ đồ vật nào để thoát khỏi nhà địa chủ?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Bản chất của tên vua trong truyện cổ tích Cây bút thần trên là gì?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Với những người có chức, có quyền mà độc ác, Mã Lương thể hiện thái độ gì?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Mã Lương đã vẽ những gì để vượt qua đói, rét khi bị nhốt trong chuồng ngựa?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Vì sao Mã Lương bị nhà vua phát hiện có cây bút thần?
Sắp xếp trình tự các dòng sau để hoàn chỉnh câu trả lời.
- Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo đến tố giác với nhà vua.
- Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô.
- Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
- Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi.
- Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt.
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Cái chết của vua phản ánh ước mơ nào trong truyện cổ tích?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Đâu là những dự đoán của người đời về hành trình tiếp theo của Mã Lương sau khi vua chết?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Nhân vật nào sau đây không phải là nhân vật kì tài trong truyện cổ tích?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Cây bút thần tập trung phản ánh vấn đề gì?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
So với những truyện cổ tích đã học, Cây bút thần phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có áp bức như thế nào?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Đâu là cuộc đấu tranh chính trong Cây bút thần?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Ước mơ nổi bật của nhân dân lao động trong truyện cổ tích Cây bút thần là gì?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Niềm tin của nhân dân lao động thể hiện trong truyện cổ tích Cây bút thần là gì?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Tính chất nào không có trong truyện Cây bút thần?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Tại sao Mã Lương lại sử dụng được cây bút thần?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Mã Lương dùng bút thần vào những việc gì?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Tại sao tác giả lại dùng lối kết thúc truyện rất mơ hồ: "Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu"?
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống:
Cây bút thần là truyện cổ tích về nhân vật có tài năng kì lạ. Cây bút thần với những khả năng, sức mạnh kì diệu của nó là chi tiết , thần kì đặc sắc. Truyện thể hiện quan niệm của nhân dân về xã hội, về của tài năng nghệ thuật, đồng thời thể hiện ước mơ về những kì diệu của con người.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Sắp xếp các sự việc sau theo trình tự phù hợp.
- Giới thiệu Mã Lương và mơ ước của em.
- Mã Lương bị tên địa chủ bắt, em tự cứu mình và trừng trị tên địa chủ.
- Mã Lương bị nhà vua bắt, em vờ nghe lời sau đó trừng trị tên vua độc ác.
- Mã Lương trở về với nhân dân giúp đỡ mọi người.
- Mã Lương được thần thưởng cho cây bút thần.
- Mã Lương vẽ mọi thứ đều biến thành thật. Em vẽ dụng cụ lao động giúp đỡ người nghèo.
- Mã Lương đến nơi khác sống, vô tình để lộ tài năng.
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Mã Lương có hoàn cảnh như thế nào?
(Nhấp vào dòng để chọn đúng / sai)Mồ côi cha mẹ từ nhỏ. |
|
Mồ côi cha mẹ nhưng được một gia đình giàu có nhận nuôi. |
|
Trước đây, gia đình rất giàu có nhưng sau gặp biến cố nên thành nghèo túng. |
|
Sống trong chùa cùng các chú tiểu. |
|
Nhà rất nghèo, phải tự kiếm sống. |
|
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Mã Lương có tố chất và tài năng như thế nào?
Các con hãy chọn NHỮNG đáp án đúng!
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Trước những hành động của tên địa chủ tham lam, độc ác thì Mã Lương đã phản ứng như thế nào?
(Nhấp vào dòng để chọn đúng / sai)Mã Lương rất sợ hãi nên lập tức vẽ luôn. |
|
Vẽ chiếc thang bị hỏng khiến tên địa chủ ngã chết. |
|
Ban đầu không vẽ nhưng khi nghe tên địa chủ dụ dỗ thì nhận lời vẽ. |
|
Vẽ cung tên, tiêu diệt hắn. |
|
Không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc hắn dụ dỗ, dọa nạt. |
|
CÂY BÚT THẦN
(Truyện cổ tích Trung Quốc)
Người ta kể lại rằng, ngày xưa có một em bé rất thông minh tên là Mã Lương. Em thích học vẽ từ nhỏ. Cha mẹ em đều mất sớm. Em chặt củi, cắt cỏ, kiếm ăn qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến nỗi không có tiền mua bút. […] Em dốc lòng(1) học vẽ, hàng ngày chăm chỉ luyện tập. Khi kiếm củi trên núi, em lấy que củi vạch xuống đất, vẽ những con chim đang bay trên đỉnh đầu. Lúc cắt cỏ ven sông, em nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá. Khi về nhà, em vẽ các đồ đạc trong nhà lên tường, bốn bức tường dày đặc các hình vẽ.
Năm tháng trôi qua, Mã Lương không ngừng học vẽ, không bỏ phí một ngày nào và em đã tiến bộ rất mau. Em vẽ chim, cá giống như hệt, người ta tưởng như sắp được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc.
Một đêm em nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt em nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho em một cây bút và nói:
- Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng reo lên:
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!...
Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất. Mã Lương giật mình tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ. Thế nhưng , cây bút thần vẫn nằm trong tay em, em rất lấy làm lạ.
Mã Lương lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt em. Mã Lương thích thú vô cùng.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho thùng…
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn liền sai hai tên đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý muốn của hắn. Mã Lương tuy còn nhỏ nhưng tính tình khảng khái(2). Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu, nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng hết lời dụ dỗ, dọa nạt. Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
Ba hôm sau, giữa đêm tuyết xuống nhiều, nhìn ra sân thấy tuyết phủ trắng xóa, tên địa chủ nghĩ thầm: “Tên Mã Lương không chết đói thì cũng chết rét, ta hãy đến chuồng ngựa xem sao!”
Gần đến chuồng ngựa, hắn thấy những tia sáng hồng lọt qua khe cửa, một mùi thơm ngào ngạt bốc ra. Hắn ghé mắt nhòm qua khe cửa thì thấy Mã Lương ngồi bên một lò lửa rực hồng đang ăn bánh nướng. Tên địa chủ kinh ngạc: Lò lửa ở đâu ra? Bánh ở đâu ra? Hắn nghĩ ngay rằng tất cả những thứ đó đều nhờ bút thần mà có. Tức quá, hắn sai bọn đầy tớ đến để giết Mã Lương, cướp lấy cây bút thần.
Mười mấy tên đầy tớ hung hăng xông vào chuồng ngựa, nhưng Mã Lương không còn ở đấy nữa. Em đã vượt qua tường bằng một chiếc thang vẽ trên tường. Chiếc thang hãy còn đó. Tên địa chủ leo lên thang nhưng chưa trèo qua ba bậc đã ngã lộn xuống đất. Chiếc thang biến mất.
Thoát khỏi nhà địa chủ, Mã Lương vẽ con ngựa, rồi cưỡi lên phi nhanh.
Đi chưa được bao xa, chợt có tiếng huyên náo(3) sau lưng, Mã Lương quay lại nhìn. Trong ánh đuốc sáng rực, Mã Lương nhìn thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng một con tuấn mã, tay vung dao sáng loáng, dẫn khoảng hai chục tên đầy tớ đang đuổi theo.
Khi bọn chúng đã đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay.
Ngựa phi suốt mấy ngày đêm ròng rã không nghỉ. Sau cùng, Mã Lương dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, Mã Lương đành vẽ tranh đem bán ở phố. Sợ lộ nên em vẽ các bức tranh đều dở dang: chim thì thiếu cái mỏ hoặc thiếu một chân…
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng không mắt. Vì một chút sơ ý, em đánh rơi một giọt mực xuống bức tranh. Giọt mực rơi đúng chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xòe cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn. Mấy kẻ mách lẻo(4) đến tố giác(5) với nhà vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không muốn đi, bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông. Hai con vật đó vừa xấu xí vừa bẩn thỉu, nhảy nhót tứ tung bên cạnh nhà vua. […] Vua tức giận, cho quân lính đến cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục(6).
Lấy được bút thần, vua đem ra vẽ. Hắn vẽ núi vàng. Một núi vàng không thỏa mãn được lòng tham, hắn liền vẽ thêm hết núi này đến núi khác, không biết bao nhiêu mà kể. Vẽ xong, vua xem lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
Nhưng hắn đâu chịu bỏ lòng tham. Vẽ núi vàng không được thì vẽ thỏi(7) vàng. Vua vẽ một thỏi vàng, thấy còn nhỏ quá, lại vẽ một thỏi thứ hai lớn hơn. Vẫn thấy còn nhỏ, hắn vẽ một thỏi lớn, rất dài, dài không biết bao nhiêu thước. Vẽ xong, vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là một thỏi vàng lớn mà là một con mãng xà(8) dài, miệng há hốc, đỏ lòm, đang bổ lại phía hắn. May có triều thần xô tới cứu, nếu không, mãng xà đã nuốt chửng hắn.
Biết không có Mã Lương thì không làm được trò trống gì, vua phải thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua rất mừng, liền trả bút thần cho em.
Vua nghĩ: “Nếu bảo nó vẽ núi, sợ rằng trên núi có nhiều thú dữ, chi bằng bảo nó vẽ biển là hơn cả.” Và vua bảo Mã Lương vẽ biển.
Hai nét bút đưa đi, biển cả đã hiện ra trước mặt. Biển rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi.
Nhà vua ngắm nhìn mặt biển, rồi nói:
- Biển này sao không có cá nhỉ?
Mã Lương chấm vài chấm, biển liền hiện ra bao nhiêu là cá, đủ các màu sắc, uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Đàn cá bơi xa dần, xa dần. Vua rất thích, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền từ từ ra khơi.
Thấy thuyền còn đi quá chậm, vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương đưa thêm mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác.
Vua ướt hết cả quần áo, một tay ôm cột buồm, một tay ra hiệu, gào to bảo Mã Lương thôi không vẽ nữa.
Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sóng lớn nổi lên dữ dội như những trái núi đổ ập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần được truyền tụng khắp nước. Nhưng không ai biết sau đó Mã Lương đi đâu. Có người nói Mã Lương đã trở về quê cũ, sống với những người bạn ruộng đồng. Có người nói Mã Lương đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo khổ.
(Theo bản dịch của Thái Hoàng và Hoàng Văn Nguyên)
Chú thích
(1) Dốc lòng: đem hết tất cả tâm trí, sức lực để làm một việc gì đó.
(2) Khảng khái: có tính cách cứng cỏi, kiên cường và rất hào hiệp, vô tư vì nghĩa lớn.
(3) Huyên náo: ồn ào.
(4) Mách lẻo: đem chuyện người này nói cho người khác, với dụng ý không tốt.
(5) Tố giác: báo cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm biết việc làm của người khác mà người báo cho là phạm pháp.
(6) Ngục: nơi giam giữ những người bị coi là có tội.
(7) Thỏi: vật được đúc thành hình thanh nhỏ và ngắn (như "thỏi sắt", "thỏi vàng", "thỏi mực" để mài ra viết chữ Hán).
(8) Mãng xà: con rắn lớn, con trăn.
Khi vua bắt Mã Lương vẽ rồng, phượng thì em đã phản ứng như thế nào?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây